THực trạng tín dụng tại ngân hàng công thương Ba Đình trong
việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
2.1.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thành tựu
và hạn chế.
1. Những thành tựu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Một là: ý thức được vị trí và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nên những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chủ trương chính sách, luật pháp để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển và ngày càng khẳng định chỗ
đứng của nó trong công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Hai là: Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện nhất
quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì các
doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại doanh nghiệp mà các thành phần kinh tế nhất
là kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để thành
lập.
Dưới đây là biểu thống kê số lượng các loại doanh nghiệp và số vốn hoạt
động của chúng từ năm 1998 - 2001.
Biểu 2: Số lượng các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh
(Đơn vị tính: Tỷ đồng)
Tổng số Từ 1998 đến 2000 Năm 2001
DN Vốn DN Vốn DN Vốn
Tổng số 26.282 56.331 18.854 40.080 7.428 16.250
- DN tư nhân 13.772 2.000 8.684 1.321 5.088 679
- Cty TNHH 5.120 3.598 3.390 2.571 1.730 1.021
- Cty cổ phần 130 1.021 106 806 27 215
- DN Nhà nước 6.042 48.718 5.704 34.611 338 14.101
- DN địa phương 4.271 15.665 4.029 14.173 242 1.491
- DN trung ương 1.771 33.048 1.675 20.438 96 12.610
Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Như vậy chỉ tính riêng năm 2001 đã có 7.428 doanh nghiệp được cấp
đăng ký kinh doanh với số vốn 16.250 tỷ đồng, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và
nhỏ thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và do địa phương quản lý.
Hiện nay số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta là 19.202
doanh nghiệp, chiếm 73% so với tổng số các doanh nghiệp; nhưng số vốn hoạt
động của chúng chỉ có 6.619 tỷ, chiếm 11,7% tổng số vốn hoạt động của tổng
số các doanh nghiệp.
Ba là: Trong những năm qua, nhất là từ năm 1995 đến nay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần đáng kể trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển
nền kinh tế quốc dân. Song hiện nay, các cơ quan thống kê chưa có số liệu tổng
hợp theo loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó để đánh giá vai trò của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng
tôi dựa vào số liệu thống kê của Tổng cục thống kê trong các biểu sau đây để
rút ra những số liệu cần thiết để chứng minh, với quan niệm các doanh nghiệp
Nhà nước do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Biểu 3: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: tỷ đồng
1997 1998 1999 2000 2001
Tổng số 14.001 15.471 18.116 20.912 23.170
1. Công nghiệp QD 9.475 10.599 12.599 14.642 16.755
- Q.D.T.W 6.438 7.435 9.154 10.602 12.086
- Q.D địa phương 7.573 8.035 8.962 9.809
2. CN ngoài QD 4.535 4.871 5.769 6.415
- Hợp tác xã 1.279 746 514 434
- CN tư doanh 136 228 513 826
- Tư nhân cá thể 3.119 3.896 4.309 4.509
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Biểu 4: Khối lượng vận chuyển hàng hoá theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Tổng Quốc Ngoài quốc Cấp quản lý
số doanh doanh Trung ương Địa phương
1997 53.889 28.871 25.018 9.172 44.717
1998 46.431 21.183 35.248 9.779 46.652
1999 64.903 18.008 46.895 9.825 55.078
2000 70.464 19.775 50.709 10.898 59.556
2001 75.560 21.302 54.228 11.800 63.760
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Biểu 5: Tổng mục bán lẻ hàng hoá theo thành phần kinh tế
Tổng số Quốc doanh Tập thể Tư nhân
1997 19.031 5.788 519 12.723
1998 33.403 9.000 662 23.740
1999 51.214 12.370 563 38.280
2000 67.273 14.650 612 52.011
2001 85.245 20.130 673 64.442
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Qua số liệu thống kê trong ba bảng trên, cho chúng ta thấy:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thì giá trị tổng sản lượng công
nghiệp ngoài quốc doanh năm 2000 chiếm 27,5%, công nghiệp ngoài quốc
doanh do địa phương quản lý chiếm 46,9%. Như vậy ước tính năm 2000 doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm 74% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước.
- Trong lĩnh vực lưu thông năm 2001 tổng mức bán lẻ hàng hoá của kinh
tế ngoài quốc doanh chiếm 79% tổng mức bán lẻ toàn xã hội.
- Khối lượng vận chuyển hàng hoá trong lĩnh vực ngoài quốc doanh năm
2001 chiếm 74%.
Bốn là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc
giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ
vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm
giải quyết. Sau những năm đầu chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, nhất là những năm Liên Xô
(cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, nhiều hợp đồng sản xuất gia
công, mua bán giữa các doanh nghiệp ở nước ta và các nước nói trên bị huỷ
bỏ, làm cho hàng loạt công nhân thất nghiệp, mặt khác hàng năm cả nước có
đến chục vạn thanh niên, học sinh đến tuổi lao động và hàng vạn bộ đội hoàn
thành nghĩa vụ quân sự trở về cần có việc làm. Trong bối cảnh đó, do có cơ chế
khuyến khích các thành phần kinh tế được thành lập nên đã giải quyết được
hàng tiệu người lao động có việc làm.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tính đến 1/7/2000 lao động làm việc
trong các ngành và thành phần kinh tế như sau:
Biểu 6: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân đến 1/7/2000
phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: ngàn người
Tổng số Quốc doanh Ngoài quốc doanh
Tổng số 32.718 3.968 29.749
- Công nghiệp 3.521 706 2.815
- Xây dựng 848 298 549
- Nông nghiệp 23.683 264 23.419
- Giao thông 496 118 377
- Thương nghiệp 1.776 270 1.505
v.v....
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Theo biểu trên, nếu không tính số lao động nông nghiệp thì lao động
trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà chủ yếu là lao động trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông,
thương nghiệp, năm 2000 đã chiếm tới trên 6 triệu người.
Năm là: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trong những năm qua đã thúc đẩy dự phân công lại lao
động, bố trí lại dân cư, phân bố vốn đầu tư theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Năm 1999
so với năm 1994, giá trị sản lượng nông lâm ngư nghiệp tăng khá về tuyệt đối,
nhưng tỷ trọng giảm từ 38,7% xuống còn 29%, công nghiệp và xây dựng tăng
từ 22,6% lên 29,1%, dịch vụ tăng từ 38,6% lên 41,9%.
Nhờ có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nói trên nên đã khai thác có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy nền kinh
tế tăng trưởng với tốc độ cao (tốc độ tăng GDP bình quân 1995 - 2001 là
8,2%).
2. Những hạn chế và yếu kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Những năm quá sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước
ta trong bối cảnh cơ chế thị trường mới hình thành đang ở giai đoạn sơ khai
mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế chính sách, luật pháp mới được tạo lập chưa
đầy đủ và đồng bộ; quan niệm về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
và mô hình kinh tế về doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều ý kiến khác nhau.
Tuy nhiên phải nói rằng bên cạnh những thành tựu to lớn, những mặt được
rất cơ bản đã được phân tích đánh giá ở trên, cũng cần khẳng định rằng
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời gian qua chưa phát triển đúng
với khả năng của nó, trong hoạt động còn nhiều khó khăn, hạn chế.
Một là: Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta còn nhỏ bé,
cơ cấu ngành nghề sản xuất kinh doanh chưa hợp lý. Tại Hà Nội, trong số 1.333
doanh nghiệp thành lập theo Luật Công ty chỉ có 8 - 10% số công ty có số vốn
trên 1 tỷ, 10% có doanh thu trên 5 tỷ/năm, còn lại chủ yếu dưới 1 tỷ. Sở dĩ quy
mô các doanh nghiệp nhỏ bé là do các công ty thành lập theo Luật Công ty chỉ
cần hai thành viên sáng lập, và tuỳ theo ngành nghề sản xuất kinh doanh, mức
vốn tối thiểu là 50 triệu đồng. Phần lớn các công ty được thành lập mang tính
chất gia đình, vốn tự có rất ít. Một số công ty khi thành lập chưa có vốn phải
vay vốn của người khác gửi vào ngân hàng để xin xác nhận, sau khi được
thành lập lại rút vốn ra trả nợ.
Trong cơ cấu ngành nghề có đến 70% số doanh nghiệp kinh doanh
thương mại và dịch vụ, số doanh nghiệp còn lại đầu tư vào sản xuất kinh
doanh các ngành nghề. Nhưng do thiếu vốn, chưa tìm được phương án sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, chưa có thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách
ổn định, lại bị cạnh tranh gay gắt với hàng nước ngoài,... nên có tới 1/3 số
doanh nghiệp lập ra chưa hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, thua lỗ.
Hai là: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp,
thị trường cũ bị hạn hẹp, còn thị trường mới chưa tạo được thế đứng ổn định,
vì chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã, hình thức, chủng loại sản phẩm
kém trong khi đó lại bị hàng nhập khẩu, hàng tiểu ngạch lậu thuế cạnh tranh.
Một nguyên nhân nữa của tình trạng trên là do kỹ thuật và công nghệ trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lạc hậu chưa có vốn để đổi mới, nên năng
suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm kém. Qua nghiên
cứu, chúng tôi nhận thấy rằng: ở Hà Nội, chỉ có 10 - 13% doanh nghiệp vừa và
nhỏ ngoài quốc doanh nhập được dây chuyền sản xuất, thiết bị mới từ nước
ngoài, số còn lại là thiết bị cũ, tự trang tự chế. Nhìn chung trình độ máy móc
thiết bị, công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta so với
các nước trong khu vực lạc hậu 2-4 thế hệ, có nhiều xí nghiệp công nghiệp địa
phương còn sử dụng các thiết bị chế tạo từ năm 1939 - 1945. Hầu hết các
doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập trong những năm gần đây chủ yếu
mua lại các thiết bị thanh lý của các doanh nghiệp Nhà nước đã khấu hao.
Việc đa dạng hoá sản phẩm, thiết kế và sáng tạo ra những mấu hàng
mới đang còn rất kém. Khoảng 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ sản xuất một
loại sản phẩm, 25% sản xuất hai loại sản phẩm và 25% sản xuất từ ba loại sản
phẩm trở lên; Còn các hộ gia đình thì có đến 61% số hộ sản xuất một loại sản
phẩm.
Trong những năm qua, chúng ta chưa có chính sách thoả đáng để tạo
nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới thiết bị, công nghệ; còn
chính sách thuế thì có một số điểm chưa hợp lý, chẳng hạn như đối với các loại
máy móc thiết bị phụ tùng và nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài thì phải nộp
thuế đầy đủ, trong khi đó hàng hoá tiêu dung do chính chúng ta sản xuất được
những vẫn cho nhập bằng nhiều thủ đoạn trốn lậu thuế. Như vậy là chúng ta
đã tạo ra môi trường cạnh tranh không bình đẳng giữa hàng hoá được sản
xuất trong nước với hàng hoá nước ngoài mà người bại trận là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta.
Ba là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít được thông tin về thị trường nhất
là thị trường nước ngoài, họ chưa có điều kiện nắm bắt kịp thời các yêu cầu về
kỹ thuật, công nghệ, tiêu chuẩn và chất lượng ở các nước nên hàng hoá của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường
thế giới; cũng như việc tìm đối tác đầu tư, tìm thị trường xuất khẩu và chuyển
giao công nghệ mới, hiện đại.
Trong những năm qua đã có ba tổ chức hỗ trợ phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được hình thành như: Trung tâm hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường, Hội đồng
liên minh các hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam. Ba trung tâm này trong thời gian qua đã làm được một số việc như tổ
chức một số khoá đào tạo chủ doanh nghiệp, ra các ấn phẩm phổ biến kinh
nghiệm và giải đáp chính sách, nghiên cứu tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp,
tiến hành xây dựng các cơ sở dữ liệu, thông tin chuyên đề phục vụ doanh
nghiệp vừa và nhỏ, thông tin về công nghệ và đổi mới kỹ thuật v.v....
Song chưa có các tổ chức tư vấn để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ về
các mặt như:
- Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng các dự án có tính khả thi,
có khả năng đem lại hiệu quả cao, để các tổ chức tín dụng có thể xem xét đầu
tư vốn, và trên cơ sở các dự án có tổ chức tư vấn giúp các doanh nghiệp tìm
đối tác đầu tư.
Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giới thiệu sản phẩm ra nước ngoài,
hoàn thiện công nghệ, thiết bị, máy móc mới v.v....
Bốn là: Trình độ đội ngũ giám đốc, chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý phần lớn còn thấp, trình độ chuyên môn chưa qua các lớp bồi dưỡng về quản
trị kinh doanh, nghiệp vụ quản lý. Tay nghề của số đông công nhân trong các
doanh nghiệp còn thấp kém. Thợ lành nghề chỉ chiếm 10%, chủ yếu là những
người công nhân trong các doanh nghiệp Nhà nước đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức.
Năm là: Khó khăn nổi bật nhất trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
thiếu vốn để đầu tư mở rộng, đổi mới thiết bị công nghệ. Qua nghiên cứu và
trực tiếp điều hành ở một chi nhánh ngân hàng cơ sở, chúng tôi nhận thấy vốn
tự có của các doanh nghiệp rất thấp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ địa
phương quản lý và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vốn tự có so với toàn bộ
vốn hoạt động chỉ chiếm từ 10 - 15%. Trong khi đó Luật Doanh nghiệp quy
định một doanh nghiệp thành lập ít nhất phải có 30% Vốn lưu động tự có .
Nhiều doanh nghiệp được thành lập theo Nghị định 388/HĐBT, Nhà nước ghi
vốn pháp định nhưng thực tế không được cấp đầy đủ. Cơ chế chính sách tạo
cho các doanh nghiệp tự huy động vốn hiện nay chưa được xác lập; Còn vốn
vay của các ngân hàng thương mại thì không được nhiều, vì bị giới hạn bởi
mức vốn tự có của các doanh nghiệp thấp; Tài sản thế chấp để vay vốn ngân
hàng thì nhiều doanh nghiệp chưa có hoặc chưa bảo đảm tính pháp lý v.v....
Sáu là: Vấn đề cuối cùng là cơ chế chính sách và luật pháp của Nhà nước
để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tuy đã có nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa
phù hợp. Việc giúp đỡ hỗ trợ của Chính phủ, của các ngành còn hạn chế. Theo
chúng tôi, chính sách cơ bản để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là:
- Chính sách hỗ trợ vốn đầu tư chiều sâu và vốn kinh doanh với lãi suất
ổn định thời gian dài.
- Chính sách miễn giảm thuế theo quy định.
- Chính sách ưu đãi về quyền sử dụng đất đai.
- Chính sách đào tạo chủ doanh nghiệp, công nhân kỹ thuật v.v....
Và một số luật pháp nhằm bảo vệ và hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ chưa có như:
- Luật cấm độc quyền, hạn chế sự bành trướng của các doanh nghiệp
quá lớn.
- Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ để bảo vệ và hỗ trợ cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cuối cùng là việc phải có một tổ chức bộ máy để lãnh đạo, chỉ đạo các
doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiệp hội, uỷ ban v.v....
2.2. Sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Cơ chế kế hoạch hoá tạp trung đã phát huy hiệu quả cao trong công cuộc
đấu tranh bảo vệ tổ quốc, trong hành gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và
phát triển kinh tế và đời sống.
Song việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý đó nên không tạo được động lực
phát triển, làm suy yếu kinh tế quốc doanh, hạn chế việc khai thác tiềm năng và
sáng tạo của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kìm hãm sản xuất, gây
nhiều rối loạn trong sản xuất và lưu thông, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực
trong xã hội.
Trước tình hình nói trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã kêu
gọi toàn Đảng, toàn dân phải thực hiện công cuộc đổi mới một cách toàn diện.
Thực hiện đổi mới kinh tế ở nước ta thực chất là vận dụng chính sách
kinh tế mới của Lênin, tiến hành điều chỉnh lớn về quan hệ sản xuất nhằm phát
triển tốt lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nội
dung chủ yếu của việc đổi mới kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định xã hội chủ nghĩa và thực hiện chiến lược kinh tế mở hội nhập
với nền kinh tế thế giới.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng và Nhà nước đã lần lượt ban hành
hàng loạt chính sách và biện pháp nhằm đổi mới cơ bản cơ chế quản lý thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI.
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, nền kinh tế phải đương
đầu với nhiều thử thách: Hậu quả nhiều năm của cơ chế cũ để lại còn nặng nề,