Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Gần 17 năm trớc khi Đảng đề ra đờng lối đổi mới toàn diện, tình
hình kinh tế-xã hội của đất nớc gần nh là rơi đến đáy của cuộc
khủng khoảng : sản xuất đình đốn, lạm phát đạt đến tốc độ phi mã
với chỉ số tăng giá bán lẻ năm 1986 là 774,7 %, đời sống của các
tầng lớp dân c hết sức khó khăn, hàng triệu ngời dân thiếu ăn, lòng
dân không yên. Với phơng châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội Vl của Đảng Cộng sản Việt
Nam (12-1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những chủ chơng,
chính sách sai lầm mang nặng tính giáo điều, chủ quan duy ý chí,
đồng thời đề ra đờng lối đổi mới toàn diện nhằm đa đất nớc ra khỏi
khủng khoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Nhng khi công cuộc
đổi mới vừa thực hiện đợc mấy năm, thì trên thế giới liên tiếp xảy ra
những biến động lớn với sự xụp đổ của các nớc XHCN ở Đông Âu
và sự tan rã của Liên Xô. Khoảng 80% ttoongr kim ngạch nhập
khẩu và 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, cùng nhiều chơng trình hợp
tác liên doanh với các nớc đó hầu nh đổ vỡ hoàn toàn. Thêm vào đó,
Mỹ vẫn khéo dài chính sách cấm vận về kinh tế và thơng mại chống
Việt Nam (cho đến đầu năm 1994), gây khó khăn không nhỏ cho sự
phát triển bình thờng của nớc ta. Nhng chính trong khó khăn, nhiều
sáng tạo của nhân dân đã xuất hiện, trí tuệ của những nhà hoặch
định chính sách quốc gia và các nhà khoa học đã đợc khơi dậy. Trên
cơ sở tổng kết kinh nghiệm của quần chúng, đồng thời đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lý luận, Đại hội Vll (6-1991), rồi Đại hội Vlll
(6-1996) và đến Đại hội lX của Đảng và những hội nghị ban chấp
hành TW giữa các kỳ đại hội đã không ngừng tiếp tục bổ sung, hoàn
chỉnh đờng lối đổi mới toàn diện đất nớc do Đại hội Vl khởi xớng.
Các quan điểm của Đảng đã đợc thể chế hoá thành hệ thống pháp
luật, chính sách, kế hoặch, chơng trình, dự án cụ đa vào cuộc sống.
Trong các vấn đề đó có việc phát triển hệ thống doanh nghiệp, đó là
vấn đề cho việc tăng trởng kinh tế cho đất nớc, phải kể đến là phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đó là điều tất yếu của bất
cứ nền kinh tế nào.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần 1: Lý do viết bài.
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nớc công nghiệp phát
triển hay quốc gia đang phát triển, doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN) có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân của mỗi nớc. Các chính phủ đều rất quan tâm đẩy mạnh phát
triển DNVVN thông qua việc đa ra các chính sách khuyến khích, hỗ
trợ, u đãi đối với các DNVVN. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế quốc dân là một nội dung quan trọng đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội ở nớc ta. Là một quốc gia đang phát triển, nghèo
nàn, lạc hậu, hơn 80% dân số sống ở nông thôn,diện tích đất đai
bình quân đầu ngời quá thấp, lao động nhàn rỗi và d thừa nhiều, thì
sự nghiệp công nghiệp hoá phải đi từ khu vực nông thôn và thông
qua việc xúc tiến phát triển mạnh các DNVVN.
phần 2 : Nội dung
I. vai trò và vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cùng với việc khắc phục hậu quả của thiên tai, Việt Nam phải
lo chống chọi với cơn bão kinh tế-tài chính của châu á và thế giới đó
là vấn đề còn lo ngại hơn nhiều. Bài học cay đắng của cuộc khủng
khoảng tài chính-tiền tệ khiến cho nhiều nhà kinh tế cảm nhận rõ
hơn về tính dễ tổn thơng về tài chính và ngân hàng đã phản ánh tình
trạng loạn năng của hệ thống ngân hàng sinh sôi nảy nở quá nhiều,
bị phì đại và hoại tử, đã tích luỹ lại những khoản tín dụng quá dễ dãi
và những giấy nợ không chắc chắn dạt đến một khối lợng khổng lồ,
cuộc khủng khoảng đã kéo theo sự sụp đổ của từ 30% đến 60%
những đồng tiền quốc gia và chỉ số chứng khoán. Nhng điều đáng
nói hơn là chính cuộc khủng khoảng này ở châu á đã vợt quá những
khía cạnh cổ điển của những cuộc khủng khoảng thị trờng. Đây là
một cuộc khủng khoảng kinh tế ngay trong cấu trúc của nó, sâu xắc
và nan truyền dần dần ra khắp hành tinh với những hậu quả khác
nhau tuỳ theo các khu vực và các quốc gia khác nhau, căn cứ vào
việc hội nhập của họ và nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam phải chăng
là một điều may mắn, chịu ảnh hởng ít hơn của cuộc khủng khoảng
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nói trên so với nhiều nớc trong khu vực. Theo David O.Dapice, Viện
nghiên cứu phát triển quốc tế Harvard (Mỹ), có thể giải thích điều
này theo nhiều cách : đồng tiền của Việt Nam không có khả năng
chuyển đổi nên khó có hiện tợng đầu t tiền tệ theo hớng xấu. Thu
nhập bình quân theo đầu ngời thấp nên có sức đẩy mạnh hơn về phía
tăng trởng. Công nghiệp hoá thay thế hàng hoá nhập khẩu vẫn còn
đang ở giai đoạn đầu, không nhạy cảm với biến động về cầu từ bên
ngoài, chừng nào vẵn còn nguồn vốn nớc ngoài để bù lại mức tiết
kiệm thấp trong nớc. Tuy vậy David O.Dapice vẫn cảnh báo rằng
ảnh hởng chính của cuộc khủng khoảng châu á không phải đã tránh
không đến Việt Nam mà chỉ là đến chậm hơn. Các nhà lãnh đạo
Việt Nam đã cảm nhận đợc ảnh hởng của cuộc khủng khoảng đó
đến Việt Nam rõ nhất là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đầu t của n-
ớc ngoài và sự ổn định của đồng tiền Việt Nam. Trong tình hình đó,
những yếu kém của nền kinh tế, đặc biệt là năng suất lao động và
sức cạnh tranh của hàng hoá, ngày càng bộc nộ. Sự ảnh hởng đó làm
cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nói riêng phải tiến hành đổi mới từng bớc và phát triển.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đợc khởi động để cứu đất nớc ra
khỏi cuộc khủng khoảng kinh tế-xã hội trầm trọng và kéo dài cuối
những năm 70 và đầu những năm 80. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến cuộc khủng khoảng đa đất nớc đến bên bờ vực thẳm, song điều
dễ thấy hơn cả là sự sụp đổ của mô hình kế hoặch hoá tập trung và
bao cấp của nền kinh tế chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu: tập thể
và toàn dân, tự cô lập mình với thế giới năng động và dồn dập biến
đổi của khu vực và toàn cầu.
Việc chấp nhận cơ chế thị trờng của nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, tức là chấp nhận nhiều hình thức sở hữu, đã thật sự tạo
ra động lực của công cuộc đổi mới, đa đất nớc thoát khỏi nguy cơ
sụp đổ. Chấp nhận nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị tr-
ờng, đó chính là điểm nút tháo gỡ tình hình, tạo ra động lực thúc
đẩy sự phát triển của Việt Nam trong gần 17 năm qua. Cũng từ điểm
nút ấy, xoay quanh điểm nút ấy, cuộc đấu tranh cho cái mới phát
triển chống lại cái cũ lỗi thời đang làm chậm sự phát triển là một
cuộc đấu tranh phức tạp, dai dẳng và đầy thử thách. Vấn đề xác lập
vai trò DNVVN trong nền kinh tế cũng không nằm ngoài cuộc đấu
tranh phức tạp đó.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong chiều sâu của lịch sử xã hội Việt Nam, một xã hội nông
nghiệp, nhà doanh nghiệp vốn không đợc coi trọng. Tâm lý trọng
nông, ức thơng có cội rễ từ trong lòng xã hội nông nghiệp trồng lúa
nớc. Thơng nhân ở vị trí thấp nhất trong bậc thang xã hội: sĩ nông
công thơng, mặc dù ngời ta vẫn phải cho rằng phi thơng bất phú.
ấy thế nhng, trong xã hội tiểu nông, một nền thơng nghiệp đích thực
cha đủ điều kiện để khẳng định vị trí của nó. Một khi mà năng xuất
của nền canh tác nông nghiệp còn quá thấp, tay làm hàm nhai, ch-
a có hàng hoá thặng d, thì trong những chặng đờng dài của lịch
sử,nghề nông, trồng lúa, nghề tiểu thủ công làm ra vật liệu tiêu dùng
và sản xuất, nghề buôn bán nhỏ vẫn chỉ quanh quẩn trong cái làng
tiểu nông, vơn ra xa hơn chút là cái chợ tổng, chợ huyện họp theo
phiên. Với sự chi phối của quan điểm nông vi bản, hộ gia đình
tiểu nông thờng là nông công thơng kết hợp, thì nông vẫn là chủ
đạo, tiểu thủ công làm ra vật dụng trong thời gian nông nhàn và th-
ơng nghiệp chỉ là nghề chạy chợ kiếm thêm thu nhập dành cho
phụ nữ. Tuy vậy, chợ quê cũng là nơi thu hút các sản phẩm nông
nghiệp và nghề phụ do hộ tiểu nông trực tiếp sản xuất, mang ra chợ
để bán và cũng để mua. Trên cái nền kinh tế tiểu nông ấy, những
ảnh hởng của hệ t tởng nho giáo đã làm đậm nét thêm tâm lý trọng
nông, ức thơng, miệt thị thơng nhân trong việc đề cao chữ nghĩa
đối lập với chữ lợi, cổ vũ cho thói ham chuộng h danh mà ít chú
tâm vào thực nghiệp. Trói chặt ngời nông dân vào ruộng đất, vào
làng xã để đóng thuế, đi phu, đi lính để phục vụ cho nhà nớc phong
kiến, việc trọng nông tất yếu dẫn đến ức thơng. Bởi vì, trong thực tế,
thơng nhân là ngời khó bị trói buộc nhất, cũng là lực lợng để làm
xuy yếu giềng mối, kỷ cơng của xã hội tiểu nông Để chống lại cái
đó hệ t tởng của nho giáo đã tìm mọi cách hạ thấp vai trò của họ, coi
buôn bán là nghề hèn hạ. Khi Việt Nam bớc vào ánh hào quang của
chiến thắng ngoại xâm sau năm 1954 và rồi sau năm 1975, vai trò
của nhà doanh nghiệp vẫn bị miệt thị. Họ đợc nhắc đến khá miễn c-
ỡng trong một số nghĩa cử của một vài ngời trong tuần lễ vàng sau
cách mạng tháng tám đã đa tài sản của họ ra hiến cho công quỹ và
cu mang các cán bộ cách mạng và rồi sự đền bù cho nghĩa cử của họ
thì quá khiêm tốn. Điều đơn giản, nhà doanh nghiệp thờng đợc quy
thành phần gắn liền với giai cấp t sản, đối tợng cần đánh đổ trong sự
nghiệp cách mạng. Những quá trình công ty hợp doanh cải tạo t
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sản ở miền Bắc sau năm 1954 và đợc lắp lại ở miền Nam sau năm
1975 với chủ trơng cải tạo công thơng nghiệp t doanh trên lý thuyết
cũng nh thực tế đã đặt nhà doanh nghiệp vào bên kia chiến tuyến
trong thời bình.
Mô hình kinh tế theo cơ chế kế hoặch hoá tập trung và bao cấp loại
bỏ thị trờng đơng nhiên không thể có chỗ cho vai trò của nhà doanh
nghiệp mà theo một số nhà lý luận và nhà quản lý là hiện thân của
giai cấp t sản đang cố ngóc đầu dậy. Cuộc khủng khoảng kinh tế và
xã hội tầm trọng và kéo dài báo hiệu sự sụp đổ của mô hình đó, đã
dẫn đến việc hình thành đờng lối đổi mới của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trờng theo định hớng xã
hội chủ nghĩa.
Vai trò và vị trí của DNVVN trong quá công nghiệp hoá-hiện đại
hoá(CNH-HĐH) đất nớc trong nền kinh tế đang chuyển đổi nh Việt
Nam hiện nay, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong tạo công ăn
việc làm và thu nhập cho dân c. Theo thống kê của Bộ Kế hoặch và
Đầu t, hiện nay nớc ta có gần 1200000 doanh nghiệp nhà nởc trong
đó DNVVN chiếm 65,9%. Chỉ tính riêng khối doanh nghiệp đầu t n-
ớc ngoài là 8796 doanh nghiệp thì DNVVN chiếm 33,6%. Trong
750000 cơ sở kinh doanh đăng ký theo luật công ty và luật doanh
nghiệp t nhân thì 94,6% số công ty TNHH và 99,4% doanh nghiệp
t nhân có quy mô vừa và nhỏ. Tỷ trọng của DNVVN theo thống kê
mới nhất của Bộ Kế hoặch và Đầu t đa ra trên báo Xã hội và gia
đình (số ra ngày 10/1/2003) là chiếm từ 29%-30% trong GDP của
cả nớc. Các hộ kinh doanh cá thể trong công nghiệp và thơng mại đã
thu hút đợc trên 8,5 triệu ngời chiếm khoảng 13% tổng số lao động
của khu vực này. ở khu vực nông thôn, các hộ tiểu thủ công nghiệp
và các hộ sản xuất nghề phụ đã tạo ra khoảng 5,6-5,7 triệu việc làm
cho ngời lao động. Riêng về kinh tế hợp tác, hình thức này đã tạo ra
gần 10 triệu lao động. Nh vậy mô hình DNVVN đặc biệt có ý nghĩa
trong những ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công đồng thời
đây cũng là mô hình làm ăn có hiệu quả nhờ vào chi phí thấp, đầu t
ban đầu nhỏ. Trong 125 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp
điện-điện tử, DNVVN chiếm tới 75%, cha kể đến nhiều doanh
nghiệp thuộc một số ngành bổ trợ. Ngoài ra các DNVVN có mặt
trong nhiều lĩnh vực công, nông nghiệp, thơng mại và dịch vụ khác
nh sửa chữa ô tô, sản xuất phụ tùng thay thế cho cơ khí nông
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp, máy xây dựng, phụ tùng xe hai bánh, hàng may mặc, đồ nội
thất, hoá nhựa
II. hiện trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tại các DNVVN các cán bộ quản trị doanh nghiệp đều trởng
thành từ thực tế và học hỏi kinh nghiệm từ bạn hàng, chỉ một lợng
nhỏ đợc đào tạo qua các trờng lớp chính quy về quản trị doanh
nghiệp và quản lý kinh tế. Đứng trớc tình hình thực tế nh vậy, lực l-
ợng quản lý tại các doanh nghiệp này có nhu cầu lớn về đào tạo. Ch-
a kể lực lợng lao động của các doanh nghiệp này hầu nh không đào
tạo gắn hạn ra làm thợ tình trạng này đã gây không ít khó khăn cho
các DNVVN hiện nay. Trình độ công nghệ, chất lợng sản phẩm và
thị trờng là những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp, nhng DNVVN khó có khả năng đầu t công nghệ hiện
đại đồng thời việc tái đầu t vào nâng cao công nghệ lại càng khó
khăn. Do vậy mà chất lợng sản phẩm thấp, tính cạnh tranh của sản
phẩm không cao dẫn đến thị trờng tiêu thụ chỉ bó hẹp trong địa bàn
chật hẹp sức mua thấp. Chính các nguyên nhân này mà DNVVN
không có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Mặc dù
trong hoàn cảnh khó khăn, một số DNVVN vẫn có khả năng vơn lên
và có khả năng tham gia xuất khẩu, nhng thực tế họ đã không tự
mình tìm đợc khách hàng, kết quả là sản phẩm của họ hiện đợc xuất
khẩu sang nhiều nớc song đều phải qua các công ty thơng mại nớc
ngoài. Do vậy tình trạng bị ép giá là không thể tránh khỏi, điềy này
gây thiệt hại đáng kể cho loại hình doanh nghiệp này. Thực tế trong
những năm qua cho thấy một số các sản phẩm xuất khẩu theo hạn
ngạch các công ty t nhân đã đợc tham gia đấu thầu hạn ngạch song
các DNVVN với số vốn ít và cha nhiều kinh nghiệm nên khó có khả
năng thắng thầu, mà ngay cả khi có khách hàng nhập khẩu các
DNVVN vẫn khó khăn trong việc tìm nguồn vốn hỗ trợ cho hoạt
động xuất khẩu.
Tình trạng thiếu vốn là nghiêm trọng và đáng lo ngại, nếu nh vốn lu
động của DNVVN chỉ đạt 20% so với nhu cầu, thì vốn đăng ký của
hàng vạn DNVVN chỉ vẻn vẹn 17 tỷ đồng. Đa số các DNVVN hiện
không có đủ điều kiện thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng để vay
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vốn, tỷ trọng vốn ngân hàng của DNVVN chỉ chiếm 20% nhu cầu
vốn hoạt động. Nhìn chung các DNVVN đều dựa vào nguồn vốn tự
có là chính hoặc huy động vốn từ ngời thân, ngời quen việc các
DNVVN không sử dụng đợc nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn nhất
với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Trình độ công nghệ, trang thiết bị máy vừa cũ, vừa lạc hậu không
đồng bộ đã hạn chế lớn khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ở
nớc ta.
Lực lợng công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề đợc đào tạo còn
quá ít, hạn chế cả về trình độ hiểu biết lại biến động nên việc quản
lý và sử dụng lao động ở các DNVVN vô cùng khó khăn, cộng với
đội ngũ cán bộ thiếu kỹ năng quản lý dẫn đến hiệu quả hoạt động
của do DNVVN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập
không ổn định.
Các chính sách vĩ mô và vi mô nhằm hỗ trợ các DNVVN còn hạn
chế, nặng về hình thức, thiếu hớng dẫn cụ thể nh chính sách đối với
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. chính sách vay vốn tín
dụng với lãi suất u đãi nhằm giải quyết việc làm cho ngời lao động.
Các hệ thống thông tin, các dịch vụ t vấn về mặt hàng, khách hàng,
thị trờng, công nghệ, thiết bị, luật pháp, thông lệ quốc tế về kinh
doanh hầu nh cha đáp ứng đợc nhu cầu của các DNVVN.
Những khó khăn phiền toái đối với các DNVVN xung quanh các
thủ tục về thuế, hải quan, nhà đất vẫn còn là lỗi lo lắng, băn
khoăn của các doanh nghiệp hiện nay.
Còn một trở ngại đáng kể cho các DNVVN đó là các doanh nghiệp
này cha có đủ các kiến thức và thông tin cần thiết về ký hợp đồng và
giao dịch theo thông lệ quốc tế, Việt Nam cũng cha có nhiều chuyên
gia trong lĩnh vực này, điều này dẫn đến các DNVVN phải mất chi
phí cao cho các chuyên gia hoặc cho các nhà t vấn nớc ngoài, và
những khoản chi phí này chắc chắn lại cộng vào chi phí xuất khẩu.
III. Xét về mặt hiệu quả kinh tế.
Phát triển các DNVVN cùng với các doanh nghiệp hiện đại quy
mô lớn là một trong nhiều phơng sách tốt nhằm nâng cao hơn việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho sản xuất, do đó nâng cao sản
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lợng, thu nhập thực tế và mức sống. Tuy nhiên cần thấy rằng trong
thực tế, phần lớn các DNVVN ở nớc ta không đạt đợc mức hiệu quả
kinh tế xét theo tiêu chuẩn của công nghiệp hiện đại. Khi hoạt động
dới dạng thủ công và gia đình, các DNVVN này thờng chỉ sử dụng
những kỹ thuật lạc hậu và sản xuất ra những sản phẩm kém chất l-
ợng, khó cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế
hiện nay. Ngợc lại có một số DNVVN hoạt động có hiệu quả. Do
lợi thế quy mô nhỏ và vừa nên chúng rất linh động trong hoạt động
sản xuất kinh doanh đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, có
mối quan hệ gắn bó với ngời lao động và với khách hàng, cũng nh
không cần đến một bộ máy tổ choc cồng kềnh, không đòi hỏi phải
có các nhà quản trị đợc huấn luyện chuyên môn cao, do đó cắt giảm
đáng kể các khoản chi phí chung Điều này cho thấy các DNVVN có
thể đạt hiệu quả hoạt động cao, nếu chúng ta giải quyết đợc các lực
cản ở cả hai mặt vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô, các DNVVN cần lựa
chọn đúng sản phẩm và quá trình sản xuất, bảo đảm chất lợng sản
phẩm, nâng cao kỹ năng quản trị doanh nghiệp. Về mặt quản lý vĩ
mô, nhà nớc cần xây dựng các định chế dịch vụ hỗ trợ các DNVVN
về vốn tín dụng, về thông tin thị trờng, tìm kiếm cơ hội thị trờng cho
các DNVVN đang hoạt động có hiệu quả. Ngoài ra các doanh
nghiệp hoạt động cha hiệu quả, nhà nớc cần thực hiện bớc chuyển
đổi rất cơ bản đối với các doanh nghiệp này. Thay vì là ngời cạnh
tranh đầy thua thiệt với các doanh nghiệp lớn, nhà nớc cần có các
chính sách biến chúng trở thành ngời trợ thu, thành các xí nghiệp vệ
tinh hay nhà cung cấp các dịch vụ hiện đại cho các doanh nghiệp
lớn trong nền kinh tế.
Liên kết giữa các DNVVN với doanh nghiệp lớn nhằm nâng cao
hiệu xuất của hệ thống công nghiệp. Thực tiễn phát triển kinh tế của
các nớc cho thấy rằng một nền kinh tế sản xuất hiện đại sẽ không
hoàn chỉnh và không hiệu quả, nếu chúng không có các doanh
nghiệp lớn lẫn những DNVVN. Trong cơ cấu sản xuất của mình,
các doanh nghiệp lớn ở nớc ta thờng hay đảm đơng hay tiến hành
luôn những hoạt động phụ thuộc. Chẳng hạn thành lập đội vận tải,
đội xây dựng cơ bản các hoạt động này làm tăng chi phí cố định,
do đó làm giảm hiệu quả kinh tế so với các doanh nghiệp tơng tửơ
các nớc phát triển. ở các nớc phát triển, các doanh nghiệp lớn sẽ sử
dụng dịch vụ do các DNVVN mang lại. Ngoài ra các DNVVN sẽ có
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể cung cấp các chi tiết hay phụ tùng với giá rẻ hơn là doanh
nghiệp lớn tự làm. Mối liên kết này diễn ra theo hai chiều, theo h-
ớng là, những doanh nghiệp lớn cung cấp nguyên liệu, nguyên liệu
sơ chế, thành phẩm để phân phối và lặp đặt, máy móc, công cụ, các
loại thiết bị. Các DNVVN có thể thầu xây dựng các cơ sở sản xuất
và trang bị, cung cấp thiết bị, chế tạo các bộ phận đơn giản hay chế
tạo các thiết bị gắn sẵn trong các sản phẩm công nghiệp, cung cấp
các dịch vụ côngt nghiệp nh lắp đặt, sửa chữa, bảo trì và các dịch vụ
khác hoặc cùng nhau hợp tác sản xuất : các doanh nghiệp lớn sản
xuất hàng tiêu dùng hay t liệu sản xuất đến một công đoạn nào đó,
các công đoạn còn lại sẽ dành cho các DNVVN(khâu hoàn thiện sản
phẩm, dị biến hoá sản phẩm theo yêu cầu riêng ) hay doinh nghiệp
lớn tập trung vào sản xuất hàng loạt giống nhau, còn các DNVVN
nhằm vào việc cá biệt hoá sản phẩm đáp ứng những nhu cầu riêng
biệt của những phần khúc thị trờng nhỏ.
Khi hoạt động tích cực, lành mạnh, một trong những đóng góp quan
trọng của khu vực DNVVN là phát triển nhân tố con ngời. Các
DNVVN chẳng những cung cấp sản phẩm cho nền kinh tế, mà còn
tác động nh một vờn ơm tài năng kinh doanh và tài năng quản trị,
một yếu tố đang thiếu thốn nghiêm trọng nơi các nớc đang phát
triển, đặc biệt là ở nớc ta. Một khi nhà nớc thiết lập đợc các khung
định chế hỗ trợ hữu hiệu t vấn kỹ thuật, vốn tín dụng, kỹ năng quản
trị để giúp các DNVVN phát triển vững chắc, và một khi tạo lập
đợc sân chơi cạnh tranh bình đẳng, khu vực DNVVN sẽ là nơi sản
sinh ra các nhà doanh nghiệp và nhà quản lý tài năng, nh lịch sử
phát triển kinh tế các nớc đã chứng tỏ. Các chủ DNVVN sẽ trở
thành những chủ doanh nghiệp hay nhà công nghiệp lớn và sẽ đảm
đơng những vị trí xã hội quan trọng. Họ đã đợc tôi luyện theo một
trình tự từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công hay bán thủ công sang
hiện đại, từ thị trờng trong nớc đên thị trờng nớc ngoài, do đó kinh
nghiệm và kiến thức kinh doanh của họ là vốn quý chop nền kinh tế
nói chung. Cố nhiên, trong thời hiện đại, có những ngành phải khởi
đầu ngay bằng quy mô lớn, nh luyện thép, xi măng, đóng tàu nh -
ng các nhà kinh doanh năng động và các nhà quản trị nhiều tài năng
của DNVVN vẫn là những nhân tố bổ sung cực kỳ quan trọng cho
toàn cảnh của bức tranh công nghiệp hoá và sự phát triển đất nớc.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DNVVN và vấn đề cấu tạo vốn. Trong khu vực các DNVVN hoạt
động mạnh mẽ từng bớc hiện đại hoá, và tăng trởng ta không nên
xem nhẹ yếu tố cấu tạo vốn con ngời. Đây là trờng học tinh thần
kinh doanh, giúp sản sinh ra những con ngời suy nghĩ cách đầu t
vốn sao cho có hiệu quả nhất. Các DNVVN có thể cung cấp kinh
nghiệm vừa học vừa làm cho nhiều ngời hơn, thuộc nhiều tầng lớp
xã hội hơn là các doanh nghiệp lớn. Do đó một trong những điểm
quan trọng của chính sách hỗ trợ DNVVN là tạo cho các nhà
DNVVN có cơ hội học tập. Ngoài ra các DNVVN cũng góp phần
hình thành nguồn vốn vật chất. Nguồn vốn này có thể là quỹ riêng
của chủ doanh nghiệp, các khoản thu nhập đợc dành để tái đầu t,
hay các khoản vay mợn từ ngời thân, bạn bè. Phần lớn vốn của các
DNVVN không phải là vốn huy động thông qua các định chế tiết
kiệm truyền thống, mà là những khoản tiết kiệm trực tiếp đợc chủ
doanh nghiệp đầu t trực tiếp. Nếu không có động lực kích thích đối
với chủ DNVVN nguồn vốn này không bao giờ biến thành nguồn
vốn sản xuất. Nơi các quốc gia có các định chế trung gian về tài
chính, tiền tệ phát triển ở mức cao. Vai trò của nguồn vốn này có thể
nhỏ bé. Nhng nơi những quốc gia mà các định chế này đang còn
non trẻ và yếu kém, nh ở nớc ta nguồn vốn vật chất này cực kỳ quan
trọng.
DNVVN trong vấn đề tiết kiệm vốn, trong các nớc đang phát triển,
vốn là nguồn lực khan hiếm nghiêm trọng. Do đó yêu cầu tiết kiệm
vốn là một trong những yêu cầu hàng đầu. Trong quá trình góp phần
tiến lên công nghiệp hoá đất nớc, các DNVVN có thể hoàn thành
nhiệm vụ của mình với việc tiết kiệm vốn, nghĩa là phát triển lên.
sản xuất đợc nhiều hàng hoá hơn, và tạo ra nhiều công ăn việc làm
hơn. Không phải tất cả các DNVVN đều tiết kiệm đợc vốn. Một số
DNVVN sử dụng nhiều lao động đồng thời lại trang bị nhiều máy
móc do việc sản xuất sản phẩm và quy trình kỹ thuật bắt buộc, do
đó không tiết kiệm đợc vốn. Một số doanh nghiệp khác trang bị
những máy móc thiết bị không hoạt động đồng đều, không hiệu quả,
kiến cho chi phí về máy móc trong giá thành sản phẩm cao, cũng
không phải là doanh nghiệp tiết kiệm đợc vốn. Ngợc lại những
DNVVN có những nhà máy nhỏ, có thời gian hoạt động gắn hơn
những doanh nghiệp lớn, có thể đa vào sản xuất sớm hơn, không để
xảy ra tình trạng máy móc thiết bị nhàn rỗi. Ngoài ra những
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DNVVN có thể sử dụng máy móc thiết bị không đồng bộ, hay mua
lại máy móc đã qua sử dụng, do đó chúng có khả năng tiết kiệm
vốn. Thêm vào đó nếu các DNVVN có lỡ ra quyết định sai lầm về
mục đích sản xuất, thời điểm và địa điểm sản xuất, phơng thức sản
xuất thì sai lầm này cũng không trả giá đắt nh các doanh nghiệp lớn.
Một doanh nghiệp lớn quyết định sai lầm tronng các lĩnh vực trên có
thể dẫn đến lãng phí hàng trăm tỉ, thậm trí hàng nghìn tỉ đồng vốn.
Trong khi đó các DNVVN do chỉ đầu t vốn tăng dần từng bớc, nên
dễ phát hiện sớm các sai lầm, không phải trả giá đắt.
DNVVN trong vấn đề giải quyết công ăn việc làm. trong thập niên
vừa qua, các số thống kê của nớc ta cho thấy các doanh nghiệp lớn
đã không thu hút thêm đợc lao động, do hậu quả của việc giải thể,
xác nhập của quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nớc. Chỉ khu
vực t nhân (tuyệt đại đa số là các DNVVN) đã thu hút thêm lao
động xã hội, góp phần giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp đang ở mức cao ở
nớc ta.
Phân bố quá trình phát triển công nghiệp rộng khắp về mặt địa lý.
Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc phân bố giữa các
vùng với nhau, cũng nh bên trong vùng. Tuy nhiên các DNVVN chỉ
là một trong những thành tố chiến lợc phân bố công nghiệp theo địa
bàn, lãnh thổ, và thờng chúng không phải là thành tố quan trọng.
Trong quá trình phát triển công nghiệp hoá nông thôn của nớc ta sẽ
là thoát ly thực tế nếu chỉ nhấn mạnh đến những địa bàn thuần tuý
nông thôn để bắt đầu xây dựng các DNVVN vì ở đấy cha đủ các
điều kiện cơ bản về hạ tầng cơ sở. Do đó trong điều kiện hiện tại của
nớc ta, nên chú ý phân bố các DNVVN ở các khu thị trấn nằm ở vị
trí trung gian giữa các khu đô thị lớn và các khu nông nghiệp kém
phát triển, sau đó theo thời gian mới phát triển loang dần sang các
khu nông thôn và vùng sâu vùng xa.
IV. Sự cần thiết khách quan phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá ở việt nam.
Các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ có những lợi thế. Chúng
gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu lối giữa công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại. Qui mô nhỏ có tính năng
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh. Các DNVVN dễ
dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Chỉ cần lợng vốn đầu t ban
đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh. DNVVN có tỷ suất vốn đầu
t trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn, cho nen
chúng có hiệu suất lao động cao hơn. hệ thống tổ chức sản xuất và
quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang
tính trực tiếp. Quan hệ giữa những ngời lao độngvà ngời quản lý
trong các DNVVN khá chặt chẽ, sự đình trễ, thua lỗ, phá sản của
các DNVVN có ảnh hởng rất ít hoặc không gây lên khủng khoảng
kinh tế-xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hởng bởi các cuộc khủng
khoảng kinh tế dây chuyền.
Bên cạnh những lợi thế quan trọng, DNVVN cũng có những bất lợi
so với doanh nghiệp lớn, nh nguồn vốn hạn chế, cơ sở vật chất kỹ
thuật, trình độ thiết bị công nghệ thờng yếu kém, lạc hậu. Khả năng
tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNVVN bị hạn chế rất nhiều,
trình độ quản lý bị hạn chế. Các DNVVN có năng suất lao động và
sức cạnh tranh kinh tế thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn.
Vai trò và tác động kinh tế-xã hội của DNVVN rất lớn. Có vị trí
quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số về mặt số lợng trong tổng số
các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. ở hầu
hết các nớc, số lợng các DNVVN chiếm khoảng trên dới 90% tổng
số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lợng các DNVVN nhanh
hơn các doanh nghiệp lớn. ở nớc ta hiện cha có số liệu thống kê về
số lợng các doanh nghiệp Việt Nam một cách chính thức, nhng hầu
hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, các DNVVN Việt Nam cũng
chiếm khoảng 80-90% tổng số doanh nghiệp.
Các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trởng của nền kinh
tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc
dân của các nớc trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dới 50%
GDP ở mỗi nớc, ở Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu
quản lý kinh tế TW, thì hiện nay, khu vực DNVVN của cả nớc
chiếm khoảng 29-30% GDP.
Tác động lớn nhất đến kinh tế-xã hội của các DNVVN là giải quyết
một số lợng lớn chỗ việc làm cho dân c, làm tăng thu nhập cho ngời
lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo
công ăn việc làm và thu nhập cho ngời lao động, thì khu vực này vợt
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trội hơn hẳn các khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã
hội bức xúc. ở hầu hết các nớc, DNVVN tạo việc làm cho khoảng từ
70-80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt
trong nhiều thời kỳ, các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thi khu
vực DNVVN lại thu hút thêm lao động mới cao hơn khu vực doanh
nghiệp lớn. ở Việt Nam, cũng theo đánh giá của viện nghiên cứu
quản lý kinh tế TW, thì số lao động của các DNVVN trong các lĩnh
vực phi nông nghiệp hiện có khoảng hơn 9 triệu ngời, chiếm tới
khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng
22,5% lực lợng lao động trong cả nớc.
DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị tr-
ờng. Do lợi thế của qui mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo
trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết
hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mền dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi
uyển chuyển của nền kinh tế thị trờng, cho nên các DNVVN có vai
trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị tr-
ờng. Khu vực DNVVN thu hút đợc khá nhiều vốn ở trong dân, do
tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách, bản làng và
yêu cầu vốn ban đầu số lợng không nhiều, cho nên các DNVVN có
vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ,
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân c đầu t vào sản xuất kinh doanh.
Chúng tạo lập dần tập quán đầu t vào sản xuất kinh doanh và hình
thành khu vực mồi cho việc thực hiện có kết quả vấn đề huy động
vốn của dân c theo luật khuyến khích đầu t trong nớc.
Các DNVVN có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đặc biệt đối với khu vực nông thôn. sự phát triển của các DNVVN ở
nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành
thơng mại-dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở thành
thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ
và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh
tế quốc dân. Các DNVVN góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô
thị hoá phi tập trung và thực hiện đợc phơng châm ly nông bất ly h-
ơng. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút những
ngời lao động thiếu hoặc cha có việc làm và có thể thu hút số lợng
lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoặt động sản xuất
kinh doanh, rút dần lực lợng lao động làm nông nghiệp chuyển sang
13