Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.73 KB, 25 trang )

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường.
1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Hiện nay, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ
phát triển nhất là các chính sách về tài chính, tín dụng đang được thực hiện
rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam vấn đề này đã và đang được
đặt ra, thể hiện ở việc xây dựng và thực hiên các chính sách, chương trình
nhằm khuyến khích và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát
triển.
Song việc xây dựng các chính sách đối với sự phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn gặp không ít khó khăn. Vì cho đến nay, chúng ta chưa có
một định nghĩa tương đối đầy đủ về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhìn một cách tổng quát việc định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ có
thể có hai cách tiếp cận chủ yếu sau đây: định nghĩa theo chức năng và định
nghĩa theo tính ứng dụng.
Khi định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chức năng, người ta dựa
vào những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ như trình độ
chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương pháp tổ chức
quản lý, quan hệ giữa chủ và thợ, giữa người quản lý và người làm công trong
hoạt động kinh doanh.v.v... cách tiếp cận này còn có nhiều hạn chế vì nó mới chỉ
nêu được mặt định tính, còn mặt định lượng rất cần thiết nó chưa thể hiện
được. Nếu dựa vào định nghĩa này thì chúng ta không có cơ sở để phân loại
Ở Pháp người ta còn đưa ra tiêu chuẩn để xếp loại những doanh nghiệp
siêu nhỏ. Doanh nghiệp siêu nhỏ chủ yếu là những doanh nghiệp cá nhân
(doanh nghiệp gia đình). Tài sản của doanh nghiệp là tài sản của cá nhân - chủ
gia đình. Ở Pháp, tiêu chí phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ là những doanh
nghiệp có số công nhân dưới 20 người.
Hiện nay ở nước ta chưa có một định nghĩa chính xác về doanh nghiệp


vừa và nhỏ; Có ý kiến cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là doanh
nghiệp sử dụng dưới 500 lao động. Nhưng họ chưa đưa ra được luận cứ vì sao
lại chọn con số này làm mốc.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng: Những doanh nghiệp trong các lĩnh
vực sản xuất và xây dựng được coi là doanh nghiệp nhỏ. Nếu chúng có số vốn
từ 100 - 300 triệu đồng và số công nhân từ 5 - 10 người; còn các doanh nghiệp
có số vốn lớn hơn 300 triệu đồng và số công nhân lớn hơn 50 người là doanh
nghiệp vừa. Nhưng theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế khác thì doanh
nghiệp nhỏ là loại doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng và số công nhân dưới
100 người; còn doanh nghiệp vừa là những doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến
10 tỷ và số công nhân từ 100 đến 500 người.(1tr1)
Qua nghiên cứu ở một số nước trong khu vực, qua kinh nghiệm triển
khai cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta từ nguồn vốn tài
trợ của Đài Loan, chúng tôi thấy không cần thiết phân thành ba loại doanh
nghiệp: vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Xuất phát từ thực trạng, các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay: vốn ít,
thiết bị kỹthuật lạc hậu, nên theo chúng tôi tiêu chí đặt ra để phân loại doanh
nghiệp là vốn và lao động. Những doanh nghiệp có số vốn 30 tỷ đồng và 500
lao động trở xuống thì gọi là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo định nghĩa và cách đánh giá này thì ở nước ta hiện nay có tới 80%
doanh nghiệp Nhà nước và hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bao
gồm: hợp tác xã, xí nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công
ty cổ phần đều thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, bên cạnh những doanh
nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đang chi phối nền kinh
tế; còn có những doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một tỷ lệ rất lớn trong
tổng số doanh nghiệp của cả nước.
Ví dụ: 100 năm trước đây, ở Mỹ có 300 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ,
thì năm 1980 lên tới 13 triệu và năm 1993 là 19 triệu, tăng gấp 3,8 lần so với

năm 1960.(2 tr208)
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban tổng hợp Nhật Bản năm 1995 ở Nhật
có 6.500 doanh nghiệp, trong số đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng
99,1% và số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp này là 43,3 triệu người
chiếm 79% số người làm việc trong các doanh nghiệp.(3)
Ở Mỹ doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 90% trong tổng số các doanh
nghiệp thuộc các ngành tin học, điện tử, chất dẻo. Đây là những doanh nghiệp
vệ tinh làm gia công lắp ráp cho các doanh nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện
đại.
Việc phát triển nhanh chóng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước tư
bản chủ nghĩa nói trên, trong những thập kỷ gần đây, là do nhiều nguyên nhân:
Một là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó kịp thời tình hình biến
động của thị trường.
Hai là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chấp nhận mọi sự
rủi ro, mạo hiểm có thể xảy ra, nên chủ doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư
vào những ngành mới, những ngành mà lúc đầu đem lại lợi nhuận ít và những
ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu cá biệt.
Ba là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thực hiện sự đổi mới
thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh nghiệp lớn, vì yêu cầu vốn bổ xung
không nhiều; và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi
có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác.
Ngày nay do sự phát triển hết sức nhanh chóng của khoa học và công
nghệ nên nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn
tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để
chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị và công nghệ mới.
Bốn là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng những kỹ
thuật tiên tiến, có thể kết hợp giữa tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ
công, có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện cơ sở hạ
tầng kêm.

Hiện nay, có người cho rằng: Sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở các nước tư bản phát triển là hiện tượng “phi tập trung hoá” và học đi đến
kết luận rằng: Luận điểm của Lênin về tích tụ tập trung tư bản dẫn tới độc
quyền ngày nay không còn đúng nữa. Nghiên cứu sâu bản chất kinh tế của hiện
tượng này chúng ta thấy rằng: Đó chẳng qua là sự biển hiện của độc quyền
dưới dạng mới mà thôi.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu vốn, thiếu cán bộ khoa học
kỹ thuật có trình độ cao, thiếu thông tin và tình hình thị trường, về tiến bộ
khoa học và công nghệ, nên buộc phải lệ thuộc vào các công ty độc quyền thông
qua hình thức hợp tác kinh doanh giữa tư bản độc quyền với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, thực chất của quan hệ hợp tác này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
là những cơ sở làm gia công cho các tổ chức độc quyền mà thôi.
Trong quan hệ hợp tác, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở trong thế phụ
thuộc về tài chính và kỹ thuật, còn các công ty độc quyền có khả năng lực chọn
bạn hàng phù hợp với mục tiêu chiến lược, nhờ vậy mở rộng khả năng kiểm
soát sản xuất nói chung và tiến bộ khoa học kỹ thuật nói riêng.
Tóm lại dưới tác động của khoa học và công nghệ, sự tích tụ và tập
trung tư bản của các tổ chức độc quyền chẳng những không giảm mà còn tăng
nhanh chưa từng thấy. Sự phát triển của các ngành công nghiệp mới, sự
chuyên môn hoá ngày càng cao, quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp sản
xuất khác nhau ngày càng gắn bó, đã xuất hiện một hệ thống kiểu “kim tự
tháp”. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ. Trong
hệ thống kim tự tháp này, độc quyền lớn ở đỉnh chóp cung cấp vốn và chỉ đạo
kỹ thuật đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; còn các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở dưới đáy có nhiệm vụ cung cấp trở lại các linh kiện, dịch vụ giá rẻ theo
đơn đặt hàng của các độc quyền lớn.
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
thị trường.
Nói đến sự phát triển kinh tế ở các nước, chúng ta thường nghe và nghĩ
đến các doanh nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn khi nói đến sự phát

triển kinh tế của Nhật Bản, thì người ta thường nghĩ tới Toyota, Mitsubishi;
cũng như thế, khi nói đến Hàn Quốc, thì người ta nghĩ ngay đến hãng
Samsung.v.v.... Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng có vị trí và
vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, thì ít người quan tâm
nghiên cứu.
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút
lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước.
Theo số liệu thống kê của nhiều nước cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm 95% tổng số các doanh nghiệp, thu hút từ 75 đến 90% số nhân viên làm
việc trong các doanh nghiệp và đóng góp từ 40 đến 50% thu nhập quốc dân ở
mỗi nước. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới” số 1(9) tháng 1,2 năm 1995
cho biết: Ở Mỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ về số người lao động chiếm
78,5%, về thu nhập quốc dân chiếm 34% so với toàn bộ doanh nghiệp nước
Mỹ; Ở Cộng hoà liên bang Đức (không kể Đông Đức) con số đó là 75% và 45%;
Ở Nhật Bản con số đó là 92,8% và 56%; Ở Pháp số nhân việc làm việc trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 83,5% trong toàn bộ các doanh nghiệp nước
này.
Do có lợi thế là: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công
ty, nhà xưởng; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với chi phí
quản lý thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với
nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng v.v.... nên số doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong những năm qua phát triển khá nhanh. Đặc biệt là loại doanh
nghiệp mang tính chất gia đình, cá thể chiếm một tỷ lệ lớn.
Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nửa cơ giới,
lao động sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến
nông, lâm, hải sản; xây dựng và giao thông vận tải v.v... nên nó có khả năng thu
hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập bảo
đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn kỹ thuật
sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá

sản xuất và sử dụng công nghệ người máy đã làm cho số người thất nghiệp
ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực xã hội.
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội
ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Hiện nay, ở nhiều nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và phong
phú. Trong cơ cấu các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì doanh nghiệp siêu nhỏ, sản
xuất kinh doanh mang tính chất cá thể, gia đình chiếm tỷ lệ khá lớn. Ở Pháp,
doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp và có gần 50%
trong số này chỉ sử dụng lao động trong gia đình, không cần thuê ngoài một
nhân viên nào.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người
tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu
cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn
không thể đáp ứng được; trái lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ do qui mô sản
xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng những nhu cầu
nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có
những hàng hoá người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh
nghiệp có qui mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động
thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình.
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân
phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu
tiêu dùng phải qua khâu trung gian.
Đó là khâu lưu thông do mạng lưới các cửa hàng thương nghiệp dịch vụ
bán buôn và bán lẻ đảm nhận.
Do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với lĩnh
vực kinh doanh thương nghiệp - dịch vụ bán lẻ. Vì rằng các doanh nghiệp vừa
và nhỏ chỉ cần một số vốn ban đầu nhỏ cũng có thể hoạt động được; còn nơi
làm cửa hàng và kho hàng có thể sử dụng ngay nhà mình; nhân viên bán hàng

thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu thông hàng hoá thấp.
Các doanh nghiệp lớn không thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ để
tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy hệ thống cửa hàng kinh doanh thương
mại - dịch vụ vừa và nhỏ đặt khắp các đường phố khu công nghiệp, các tụ
điểm dân cư, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng và
thuận tiện.
Ở Nhật năm 1995, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 51% trong các ngành
sản xuất, 62% đối với ngành buôn bán, 80% đối với ngành bán lẻ.
Ở Việt Nam, chúng ta có thể đánh giá vai trò của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh thương mại - dịch vụ qua tỷ trọng bán lẻ của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh so với
tổng mức bán lẻ của toàn xã hội qua các năm:
Năm 1980: 70,8%.
Năm 1989: 57,3%.
Năm 1994: 67,6%.
Năm 1998: 76%.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm
cho lực lượng sản xuất phát triển có tính nhảy vọt, vượt ra khỏi biên giới quốc
gia và đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới.
Cho nên bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp
cũng đều phải thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là: Tận
dụng lợi thế so sánh tích cực tham gia vào việc phân công lao động quốc tế,
chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh
nghiệm tốt của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Đặc
trưng cơ bản của chiến lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp, khuyến khích xuất
khẩu (hướng ngoại).
Thực tiễn cho thấy rằng hàng chục năm qua, ở các nước đang phát
triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong việc sản
xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu. Nhất là những mặt hàng được sản xuất

ra bằng những nguyên liệu do các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản
cung cấp.
Ở Đài Loan, từ năm 1978 đến năm 1993 kim ngạch xuất khẩu của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 64,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước
này. Đến năm 1998, con số trên tuy có giảm xuống, nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ
lớn: 52,57%.(4 tr14)
Việt Nam đang là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ đang
ở trình độ thấp kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nên việc
tích cực tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để khai thác có hiệu quả các lợi thế
bên trong là vấn đề đặc biệt có ý nghĩa quan trọng.
Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng và
Nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, coi xuất
khẩu là trọng tâm; đồng thời ra sức sản xuất những sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả để thay thế nhập khẩu.
Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng
truyền thống do các doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả kinh tế hộ gia đình sản
xuất chế biến chiếm tỷ trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản, thực
phẩm, hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre, sơn mài,
hàng thêu dệt, hàng may mặc...
4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh
tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn
phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ của từng
nước; ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như ở vùng núi cao, hải
đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của
từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt đất thuộc các ngành nông, lâm,
hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn
rất lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, cần tập trung đẩy nhanh sự
phát triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nông nghiệp, lâm

nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản v.v...
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn
và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng ta chủ
trương: “Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh theo
phương châm “lấy ngắn nuôi dài” .(5 tr 15)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên
tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn rất thích
hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến thuỷ sản đông
lạnh, may mặc, da giầy, công nghiệp chế biến.
Theo số liệu của Tổng cục thống kế ở thời điểm cuối năm 1998, số doanh
nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh phân theo ngành nghể như sau:(6)
Số doanh nghiệp Số vốn đăng ký (tỷ đ)
Tổng số 26.282 56.331
- Nông lâm nghiệp 1.004 2.810
- Thuỷ sản 2.189 610
- Công nghiệp chế biến 8.886 18.314
- Xây dựng 2.407 2.924
- Thương nghiệp 5.535 6.677
Như vậy ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp phát triển
nhất của Việt Nam nhằm khai thác các khả năng về tài nguyên, về sức lao động
của từng địa phương, về từng vùng kinh tế, ngành công nghiệp này chủ yếu
thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Trong điểm 1.1.3, chúng tôi đã trình bày vị trí và vai trò của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên lao
động, tạo ra nhiều việc làm. sản xuất ra nhiều hàng hoá, tăng thu nhập cho
Nhà nước và cho người lao động. Nhưng hiện nay, ở các nước cũng như ở
nước ta, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp một số khó khăn và hạn chế:
1. Khó khăn về vốn.

Tình trạng chung ở các nước là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi mới
thành lập vốn đầu tư ban đầu hay còn gọi là vốn pháp định thường rất ít. Vì ở
các nước tư bản phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời trong các thập
kỷ qua chủ yếu là của những người sản xuất hàng hoá nhỏ (công nhân, nông
dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ) hoặc của một số trí thức mới
tốt nghiệp ra trường bắt đầu lập nghiệp nên họ gặp rất nhiều khó khăn về vốn.
Ở nước ta, sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1990), Đảng và Nhà nước chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
các doanh nghiệp phát triển rất nhanh, chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh như các hợp tác xã, xí nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần v.v.... Những doanh nghiệp này cũng đang trong tình
trạng thiếu vốn nghiêm trọng, họ phải dựa vào vốn vay của các ngân hàng
thương mại hoặc của những người thân quen.
Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho việc sản
xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp bị động lúng túng khi cần mua vật
tư, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng - không có tiền để mua, và do đó khi có điều
kiện bán được hàng lại không có hàng để mà bán.
Hiện nay không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm
dụng vốn lẫn nhau, tức là sản xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn của
người khác. Nguy cơ thiếu khả năng thanh toán, vỡ nợ đã xảy ra.
2. Khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào sản xuất ra hàng hoá có
chất lượng cao, giá thành hạ thì doanh nghiệp đó sẽ giành được thắng lợi
trong cạnh tranh. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, doanh nghiệp phải thường
xuyên đổi mới thiết bị và công nghệ, nhằm tăng năng suất lao động nâng cao
số lượng, chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Song muốn đổi mới thiết bị và công nghệ, doanh nghiệp phải có một
nguồn vốn lớn.
Như vậy là khó khăn về thiếu vốn nói trên dẫn đến khó khăn trong việc

ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do thiếu vốn, nên mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ rất thấp so với các doanh nghiệp lớn: mức trang bị kỹ thuật được biểu
hiện bằng số vốn cố định bình quân cho một công nhân trong doanh nghiệp. Nó
được tính theo công thức:
i)(dång/ng­ê
nghiÖp doanhcña nhan c«ng sè Tæng
nghiÖp doanhcña dÞnh cè vèn sè Tæng
thuËt kübÞ trang Møc
=
Hàng năm, vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ, nói chung có tăng lên. Nhưng
mức trang bị kỹ thuật của nó so với mức trang bị kỹ thuật của các doanh
nghiệp lớn lại giảm xuống một cách tương đối.
Chẳng hạn, ở Nhật Bản nếu năm 1963 mức trang bị kỹ thuật của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng 35% mức trang bị kỹ thuật của các doanh
nghiệp lớn, thì sau 30 năm tức là năm 1997 con số đó đã tụt xuống, chỉ còn 5%.
Nguyên nhân của tình hình trên là do mấy thập kỷ qua, dưới tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới, các doanh nghiệp
lớn phải thích ứng bằng cách ra sức tích cực và tập trung tư bản để nâng cao
cấu tạo kỹ thuật tư bản, nhằm tăng cao năng suất lao động để giành ưu thế
trên thị trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Trong nước năm tới, nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ không giải quyết
được tình trạng lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ thì sự lệ thuộc vào doanh

×