GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ MỞ RỘNG TÍN DỤNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNOPTNT KIM ĐỘNG
3.1. Định hướng phát triển kinh tế hộ ở Kim Động trong thời gian tới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã đề ra mục tiêu phát triển
nghành nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn trong giai đoạn 2001-
2010 là:" Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị
trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề,
cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh
tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến
trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích;
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng tiêu thụ nông sản trong và
ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường
thế giới ".
Trên bình diện chung, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập với kinh tế thế giới. Vì vậy, nền kinh tế tỉnh Hưng Yên cũng chịu sự tác
động của nền kinh tế đất nước khi chuyển sang giai đoạn của Ngân hàng và xu
thế toàn cầu. Xuất phát từ những yêu cầu định ra trong quá trình phát triển
kinh tế, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên tập trung chỉ đạo khắc phục
nhược điểm, khai thác tối đa thế mạnh của tỉnh nhằm phát triển đồng bộ và
ổng định. Để thực hiện đường lối chủ chương chính sách của Đảng và Nhà
nước, cùng với quan điểm như trên huyện Kim Động đưa ra các mục tiêu phấn
đấu như sau:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 11-13% so với năm 2004, giá trị sản
xuất nông nghiệp tăng 5%, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
tăng 23% đồng thời giữ vững tình hình chính trị nhằm tạo mức tăng
trưởngthuận lợi cho thị trường đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2. Quan điểm và phương hướng mở rộng tín dụng phát triển kinh tế
hộ sản xuất của NHNo&PTNT Kim Động.
Đầu tư vốn phát triển kinh tế hộ sản xuất là con đường ngắn nhất để
tiến hành CNH_HĐH nông nghiệp nông thôn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, rút bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp. Đây là một trong những chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế
và trong tiến trình thực hiện đổi mới ấy NHNo&PTNT đóng vai trò hết sức
quan trọng. Là đơn vị cung cấp vốn để các thành phần kinh tế cá thể mở rộng
sản xuất kinh doanh, tăng gia sản xuất, khôi phục ngành nghề truyền thống,
phát triển ngành nghề mới. NHNo&PTNT đã và đang đóng góp tích cực vào sự
thay đổi diện mạo nông thôn trong thời gian qua. Đồng vốn của Ngân hàng đã
từng bước giúp nông dân xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống tiến tới làm
giàu, xây dựng một cuộc sống ám no hạnh phúc. Trình độ văn hoá, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Ở
khu vực kinh tế này, trong những năm gần đây, hoạt động có xu hướng phát
triển tốt, đã biết sản xuất kinh doanh với thị trường, sử dụng vốn có hiệu quả,
nhiều hộ qua tích luỹ đã thành lập được doanh nghiệp. Đây là khu vực có nhiều
tiềm năng để Ngân hàng mở rộng quan hệ trên nhiều lĩnh vực.
Quan điểm của NHNo&PTNT Kim Động trong thời gian tới là tiếp tục
mở rộng va phát triển tín dụng đối với thành phần kinh tế này. Mở rộng tín
dụng đối với kinh tế hộ sản xuất cũng là biện pháp mở rộng khách hàng, mở
rộng kinh doanh, tăng lợi nhuận và đa dạng hoá rủi ro, thực hiện kinh doanh
theo phương châm “An toàn - Phát triển - Hiệu quả”.
Thực hiện đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước, định hướng phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
huyện Kim Động đang ngày càng nỗ lực cố gắng góp phần vào sự nghiệp hiện
đại hoá và phát triển của đất nước. Nhận thức được vai trò của mình là ngân
hàng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực Nông nghiệp, làng nghề và tiểu thủ
công nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh Hưng Yên trở thành tỉnh có nền kinh tế đa dạng Công nghiệp, Nông
nghiệp và Dịch vụ. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kim Động, trong những năm
tới có những phương hướng hoạt động chính sau:
- Ổn định và tăng trưởng nguồn vốn đề ra mục tiêu cách làm cụ thể đến
từng địa bàn quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt chiến lược khách hàng, không
ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ cho khách hàng có chính sách lãi
suất linh hoạt phù hợp với thị trường.
- Tăng cường công tác tiếp thị mở rộng và phát triển thị phần đầu tư tín
dụng, trong đó coi trọng khách hàng truyền thống mở rộng cho vay khách
hàng mới, trên cơ sở phân loại khách hàng thực hiện đầu tư trực tiếp vào mở
rộng và làm tốt cho vay thông qua tổ nhóm tín chấp khắc phục nhược điểm cho
vay từng lần, vận dụng linh hoạt cơ chế bảo đảm tiền vay mở rộng đối tượng
cho vay.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra - kiểm toán nội bộ, đảm bảo kinh doanh an
toàn, hiệu quả. Thực hiện đầu tư kinh doanh đúng hướng góp phần làm lành
mạnh hoá hoạt động tài chính tín dụng ngân hàng.
- Tăng cường đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đáp ứng yêu
cầu hội nhập khu vực và quốc tế tiếp tục đổi mới hệ thống thiết bị vi tính, tiếp
nhận và triển khai thực hiện mạng LAN và áp dụng chương trình giao dịch một
cửa, Mặt khác duy trì kênh phân phối truyền thống để khắc phục nhược điểm
của kênh phân phối này bằng cách phát triển và mở rộng kênh phân phối hiện
đại cung cấp cho khách hàng nhiều dịch vụ chính xác an toàn hiệu quả: Thẻ
thanh toán, máy rút tiền tự động(ATM), chuyển tiền điện tử quốc tế, dịch vụ
ngân hàng điện tử.....
- Cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho khách hàng giao dịch với
ngân hàng, đa dạng hoá các phương thức cho vay đáp ứng được nhu cầu vốn
tín dụng cho các khách hàng có như vậy việc triển khai các sản phẩm mới
thuận lợi và đạt kết quả cao.
- Thực hiện tốt 5 công cụ điều hành đó là: Kế hoạch, lãi suất, tài chính, kiểm
tra - kiểm soát và thi đuathực hiện tốt cơ chế khoán tài chính, xây dựng
phương án đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nâng cao kiến thức nghiệp vụ,
tin học, pháp luật nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực
thích ứng.
- Xây dựng và triển khai thực hiện phong trào "Văn minh giao tiếp" của cán
bộ ngân hàng trong quá trình giao dịch làm việc với khách hàng
Cụ thể trong năm 2004, mục tiêu của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Huyện Kim Động:
* Nguồn vốn huy động đạt 110000 triệu đồng, tăng 19192 triệu đồng so
với đầu năm, tốc độ tăng trưởng 21,1%
* Dư nợ cho vay đạt 105000 triệu đồng, tăng 19198 triệu đồng so với
đầu năm, tốc độ tăng trưởng 22,3%
* Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 0,1%/tổng dư nợ
* Doanh thu đảm bảo quỹ thu nhập, quỹ tiền lương theo chế độ quy định.
* Kinh doanh an toàn, giữ vững và phát triển các phong trào thi đua
3.3. Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng phát triển kinh tế hộ sản
xuất của NHNo&PTNT Kim Động
3.3.1. Giải pháp về quy trình nghiệp vụ.
3.3.1.1. Cải tiến thủ tục tín dụng
Trong điều kiện hiện nay, số hộ có đủ giấy tờ hợp lệ, đủ trình độ để kê
khai những giấy tờ trong quy định về thể lệ tín dụng của ngân hàng chưa
nhiều, song nhu cầu vốn lại rất lớn. Nếu Ngân hàng không cho họ vay thì sẽ
dẫn đến mất khách hàng, hoặc tổ chức tín dụng khác thu hút mất, cho nên cho
nên việc cải tiến thủ tục hồ sơ gọn nhẹ an toàn và thuận tiện là một yêu cầu tất
yếu, muốn vậy Ngân hàng cần phải:
Nên có thể lệ tín dụng chung mà trong đó chỉ quy định đối tượng không
cho vay còn biện pháp cho vay, điều kiện cho vay cần cụ thể cho một số đối
tượng, địa bàn đặc thù. ở những vùng hẻo lánh, vùng xa do hạn chế về trình độ
và điều kiện đi lại làm thủ tục khó khăn, vậy giấy tờ không thể dài dòng và
phức tạp.
Cải tiến bộ hồ sơ cho vay của hộ loại II, rút bớt hoặc gộp một số loại giấy
tờ còn chồng chéo, trùng lặp để tạo điều kiện đơn giản hoá trong quá trình lập
hồ sơ và theo dõi thực hiện cả đối với ngân hàng và khách hàng như: nên tìm
cách gộp tờ khai tài sản thế chấp, biên bản định giá tài sản, giấy uỷ quyền phát
mại tài sản vào cùng hợp đồng thế chấp vì các thông tin ở các giấy tờ này có
tính trùng lắp ở nhiều điều khoản. Trong hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản
của các khoản vay đối với hộ sản xuất có thể không cần dấu và chữ ký của cơ
quan công chứng. Trên thực tế theo các cán bộ tín dụng dày dạn kinh nghiệm
thì không có một mối liên quan có ý nghĩa nào giữa có hay không có thủ tục
công chứng trong hồ sơ vay đối với dư nợ quá hạn đối với dư nợ hộ sản xuất.
3.3.1.2. Xác định mức cho vay và thời hạn cho vay hợp lý.
* Về mức cho vay:
Trong thực tế Ngân hàng thường chỉ cho vay khoảng 70- 80% số vốn cần
thiết mà khách hàng yêu cầu để tiến hành sản xuất kinh doanh. Chính cái tiền
lệ này đã dẫn đến việc lập hồ sơ khi vay vốn Ngân hàng các khách hàng
thường nâng cao qui mô nguồn vốn lên để có thể vay được đủ số tiền cần thiết.
Điều này gây khó khăn hơn cho Ngân hàng trong công tác thẩm định dự án,
khó khăn trong công tác quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích, của dự án. Vì
vậy Ngân hàng nên đáp ứng 100% số vốn theo yêu cầu của khách hàng nếu xét
thấy dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Sô vốn Ngân hàng cho vay = Tổng vốn dự án – Vốn tự có.
Nên cho vay bằng 100% giá trị tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất bởi
vì trong thực tế khung giá đất theo qui định của Chính phủ thấp hơn nhiều so
với giá thị trường. Hơn nữa thức tế cho thấy giá đất hầu như có xu hướng biến
động lên, và nếu khi biến động xuống thì thực tế giá thị trường vẫn cao hơn
giá theo khung giá qui định.
* Về thời hạn cho vay:
Một thực tế hiện nay là có khá nhiều các khoản vay của hộ sản xuất phải
ra hạn nợ và điều chỉnh kì hạn nợ, nhất là các món vay của hộ nghèo. Qua kiểm
tra thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp hộ xin gia hạn nợ và Ngân hàng
đồng ý phê duyệt cho gia hạn nợ không phải do nguyên nhân khách quan như
chế độ quy định, mà thực chất là do thời hạn cho vay của Ngân hàng chưa phù
hợp với chu kì sản xuất kinh doanh, thời hạn sinh trưởng, phát triển thực tế
của cây trồng vật nuôi. Do đó điều kiện tiên quyết để cho đồng vốn Ngân hàng
thực sự phát huy hiệu quả thì cần phải xác định cho được một thời hạn cho vay
hợp lý và khoa học. Đặc thù của các hộ là sản xuất kinh doanh ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, nhiều ngành nghề khác nhau và chính sự khác nhau về chu kì sản
xuất kinh doanh của các hộ gia đình đòi hỏi Ngân hàng phải có những kì hạn
cho vay phù hợp với từng hộ.
Một điều đáng lưu ý là trong thực tế có thể thời hạn sản xuất ngắn song
thời gian tiêu thụ lại kéo dài. Chính vì vậy Ngân hàng cần nhìn nhận chu kì sản
xuất kinh doanh của hộ sản xuất một cách toàn diện và chi tiết, áp dụng thời
hạn cho vay đối với từng hộ một cách linh hoạt và phù hợp.
Bên cạnh việc xác định một thời hạn cho vay linh hoạt, Ngân hàng cần
xem xét đến kế hoạch thu nợ một cách phù hợp. Kế hoạch thu nợ này không
những dựa vào chu kì sản xuất kinh doanh của từng khách hàng mà còn căn cứ
vào tình hình tài chính và ngân quĩ của từng khách hàng. Tuỳ từng đối tượng
mà Ngân hàng có thể xác định kế hoạch thu nợ một lân hay nhiều lần. Trong
thực tế với những món vay lớn Ngân hàng thường áp dụng hình thức thu nợ
nhiều lần để giảm bớt áp lực trả nợ cho khách hàng. Đối với các món vay nhỏ
thì áp dụng thu nợ một lần để giảm thiểu chi phí đi lại, giấy tờ, thời gian.
Thời hạn cho vay phù hợp nhất đối với các hộ sản xuất là phải lớn hơn
hoặc bằng chu kì sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế
cho thấy đồng vốn của Ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả thì việc xác định
khoản thời gian ân hạn của khoản tín dụng một cách phù hợp là một điều vô
cùng quan trọng
Cách 1: Thời gian ân hạn được tính từ lúc Ngân hàng giải ngân món vay
cho đến khi khách hàng tiêu thụ được sản phẩm, có tiền trả Ngân hàng, tức là
khi khách hàng kết thúc chu kì sản xuất kinh doanh. Thời gian ân hạn này nên
áp dụng đối với các khoản tín dụng nhỏ hoặc đối với các khách hàng có tiền sử
tín dụng tốt.
Cách 2: Thời gian ân hạn được tính từ lúc bắt đầu tiến hành giải ngân
cho đến khi khách hàng thu được kết quả sản xuất (có doanh thu). Ngân hàng
áp dụng cách này đối với các khoản vay lớn và Ngân hàng thường tiến hành thu
nợ nhiều lần.
Như vậy để có thời gian ân hạn hợp lý nhất Ngân hàng nên vận dụng linh
hoạt cả hai cách trên.
Thời hạn cho vay của khoản tín dụng phải dựa trên chu kì sản xuất kinh
doanh của khách hàng và Ngân hàng chỉ thu nợ khi khách hàng bắt đầu có thu
nhập hình thành từ vốn vay. Nếu đối tượng sử dụng vốn vay chỉ tham gia vào
một chu kì thì Ngân hàng có thể áp dụng cách thứ nhất. Còn nếu khách hàng
hoạt động trong nhiều chu kì gối nhau thì nên áp dụng cách thứ hai.
Thông qua việc xác định thời hạn cho vay linh hoạt và hợp lý đồng vốn
Ngân hàng sẽ phát huy tác dụng đối với khách hàng và điều đó đảm bảo Ngân
hàng có thể thu hồi được nợ và mở rộng được dư nợ tín dụng đối với khách
hàng và điều đó đảm bảo Ngân hàng có thể thu hồi được dư nợ và mở rộng
được tín dụng, đặc biệt là dư nợ trung dài hạn.
3.3.1.3. Xác định mức lãi suât cho vay linh hoạt
Trong thực tế một món vay hàm chứa một mức độ rủi ro tín dụng khác
nhau, do đó Ngân hàng không nên áp dụng một mức lãi suất cứng nhắc cho
mọi đối tượng mà nên áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau dựa trên đánh
giá về mức độ rủi ro của các món vay. Ngân hàng chỉ nên qui định một khung
lãi suất dao động trong một khoảng nào đó đối với một nhóm khách hàng, giao
cho cán bộ tín dụng quyết định mức lãi suất nhưng phải phù hợp với khung lãi
suất đã qui định.
Thực tế cho thấy đối với khách hàng là các hộ sản xuất trên địa bàn Kim
Động thì nhu cầu về dịch vụ kèm theo như thanh toán, ngân quĩ, chuyển tiền...
là rất ít. Chính vì vậy đối với nhóm khách hàng là các hộ sản xuất, lãi suất là
nhân tố có sức cạnh tranh rất lớn và là nhân tố mang tính quyết định trong
chiến lược mở rộng thị phần của Ngân hàng đối với khách hàng là các hộ sản
xuất. Các hộ sản xuất quan tâm đến mức lãi suất nhiều hơn là các dịch vụ tiện
ích. Do đó Ngân hàng cần xây dựng và vận hành một cơ chế chính sách lãi suất
phù hợp và có tính cạnh tranh. Để thực thi được điều này ngoài việc tiết kiệm
các chi phí hoạt động Ngân hàng còn phải có các chính sách thu hút những
nguồn vốn có chi phí thấp để tài trợ cho việc hạ lãi suất. Những nguồn vốn này
gồm tiền gửi không kì hạn, tiền gửi thanh toán, các nguồn vốn uỷ thác, vốn từ
các chương trình của Chính phủ, của tỉnh.
* Dựa trên phân loại khách hàng vay vốn:
+ Với khách hàng có tiền sử tốt, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu
quả cao Ngân hàng cho vay với mức lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay trung
bình do hiệu quả kinh doanh cao, rủi ro tín dụng thấp.
+ Với các khách hàng khác đủ điều kiện vay vốn thì cho vay với lãi suất
cao hơn do khả năng rủi ro tín dụng lớn hơn.
Như vậy điểm mấu chốt của căn cứ này là dựa trên phân loại khách
hàng, lựa chọn khách hàng vay vốn của Ngân hàng. Ngân hàng cần xây dựng
được các tiêu chí phân loại khách hàng khoa học, hợp lý, phù hợp với tình hình
thực tiễn.
* Dựa vào nguồn huy động để cho vay
+ Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước theo các chương trình tín dụng chỉ
định:
Do không mất phí huy động, Ngân hàng có thể cho vay với lãi suất ưu đãi
cho các đối tượng theo yêu cầu của bên cung cấp vốn.
+ Nguồn vốn uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước:
Đối với nguồn vốn này Ngân hàng phải cho vay đúng đối tượng theo lãi
suất được uỷ thác để giữ uy tín với đối tác cho vay. Mức lãi suất uỷ thác thường
thấp hơn so với lãi suất huy động của Ngân hàng. Tuy khó có thể hạ quá thấp
mức lãi suất cho vay từ nguồn vốn này vì thực chất Ngân hàng cũng phải trả
phí cho nguồn vốn này nhưng nhìn chung đây là một nguồn vốn tốt, chi phí thấp
và qui mô khá lớn.
+ Nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Nguồn vốn này Ngân hàng phải trả lãi suất huy động bằng lãi suất huy
động trên thị trường, nhìn chung khó có thể dùng nguồn vốn này để cho vay với
lãi suất ưu đãi. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn huy động này để cho vay
các hộ sản xuất với lãi suất thương mại nhưng nên thấp hơn lãi suất cho vay
của các Ngân hàng khác cùng cho vay hộ sản xuất nếu có thể. Do đó Ngân hàng
cần tiết kiệm chi phí hoạt động để có thể thực hiện được mục tiêu hạ lãi suất.
* Sử dụng lãi suất cho vay biến đổi
Lãi suất cho vay đối với các khoản tín dụng trung và dài hạn Ngân hàng
nên áp dụng mức lãi suất biến đổi. Do giá cả thị trường có những biến đổi khó
có thể lường trước được và lãi suất cũng dao động và thay đổi theo. Bên cạnh
đó hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với nguy cơ của lạm phát và thực tế
cho thấy lạm phát có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển nếu lạm phát dừng ở
mức vừa phải. Do đó lạm phát là điều tất yếu sẽ xảy ra đối với bất kỳ NKT nào