Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA EU VÀO VIỆT NAM.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.37 KB, 68 trang )

Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều thời cơ cũng như thách thức
lớn đối với quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của mình.Trong quá trình phát triển
này, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được khẳng định đối với nước
ta.Trước đây có một nguyên nhân chủ yếu là hầu hết các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam
thuộc các nước có nền kinh tế đang phát triển như Thái Lan, Indonesia. Hoặc các nước
thuộc NICs như Hàn Quốc, Đài Loan. Những nước bị cơn khủng hoảng làm chao đảo
nền kinh tế dẫn đến việc giảm đầu tư ra nước ngoài của họ. Chính những lúc này chúng
ta mới thấy việc cần thiết phải có một luồng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thật ổn
định, các luồng vốn này thường xuất phát từ những nước phát triển hàng đầu trên thế
giới - những nước có tiềm lực rất lớn về vốn và công nghệ, trong đó có các nước thuộc
liên minh châu Âu. Điều này dẫn đến việc chúng ta cần phải thúc đẩy tăng cường hơn
nữa sự hợp tác chặt chẽ vốn có, từ đó lôi kéo nguồn vốn FDI của khối này vào Việt
Nam, đồng thời quản lý chặt chẽ nguồn vốn thật hiệu quả, tránh những sai lầm đáng tiếc
trước đây mắc phải. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: “TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP CỦA EU VÀO VIỆT NAM”. Nội dung của đề tài bao gồm
2 phần :
Chương I:Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam
Chương II: Giải pháp tăng cường thu hút FDI của EU vào VN trong thời gian tới.
Trong bài viết không thể tránh khỏi những sai sót, tôi kính mong các Thày cô, và
các bạn đọc góp ý và chỉ dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Danh Hùng
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
1
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
MỤC LỤC
1.1.2. Cơ cấu của EU: .............................................................................................................. 6
1.1.3. Tiềm năng về kinh tế của EU: ...................................................................................... 7
2.1.1.3. Quan hệ hợp tác lâu năm giữa các nước EU và Việt Nam: ..................................... 45


2.1.2. Những khó khăn: ........................................................................................................ 46
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
2
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Chương I:Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của EU vào Việt N am
1.1 Khái quát về liên minh châu Âu EU
1.1.1. Quá trình lịch sử hình thành và phát triển của EU
Những ý tưởng về một Châu Âu thống nhất đã được bộc lộ từ trong lịch sử Châu
Âu xa xưa, kể cả ý đồ muốn thực hiện thống nhất bằng vũ lực. Hoàng đế Napoleon của
nước Pháp là một minh chứng điển hình. Ông đã từng nghĩ đến một Châu Âu thống nhất
với “một bộ luật Châu Âu một đồng tiền chung Châu Âu, các đơn vị đo lường, các qui
tắc Châu Âu” và ông ta đã thất bại trong việc thực hiện mơ ước chung lành mạnh đó
bằng ý đồ sử dụng vũ lực để có một Châu Âu liên kết dưới sự thống trị của người Pháp.
Cho đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất ngoại trưởng Pháp Aristide Briand
mới đề xuất trước Đại Hội đồng Hội Quốc Liên ý tưởng cụ thể về việc thành lập một
liên hiệp Châu Âu mang thể chế liên bang. Nhưng ý kiến này không gây được tiếng vang
và chưa kịp có những bàn bạc cụ thể thì thế chiến lần thứ hai ập đến như là hậu quả của
một ý tưởng ngông cuồng muốn thống nhất Châu Âu bằng bạo lực dưới sự cai quản của
một quốc gia - dân tộc tực coi mình là thượng đẳng - Đức quốc xã.
Phải đến những năm 40 của thế kỷ XX sau khi thế chiến kết thúc, mới xuất hiện
một phong trào lành mạnh ủng hộ việc tạo dựng một Châu Âu nhất thể hoá. Mặc dù vậy,
chỉ sau khi vấn đề nước Đức được đặt ra sau thế chiến thứ hai cùng với nguyện vọng gìn
giữ hoà bình Châu Âu và sự căng thẳng trong quan hệ Pháp - Đức về vùng Sarre gây trở
ngại cho tiến trình thống nhất Châu Âu thì ý tưởng liên kết hoá Châu Âu mới được thúc
đẩy để sau đó được thực hiện trong thực tế. “Cộng đồng than và thép Châu Âu” (ECSC)
ra đời ngày 18 tháng 4 năm 1951 với sáu nước thành viên là Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan,
Luxembourg, và Italia là cột mốc đầu tiên đánh dấu Châu Âu bắt đầu tập họp lại một
cách lành mạnh về tổ chức. Tuy nhiên tiến trình liên kết Châu Âu chỉ thực sự bắt đầu khi
đại diện sáu nước thành viên ECSC ký các hiệp định Roma chính thức thành lập “Cộng
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D

3
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
đồng kinh tế Châu Âu” (EEC) và “Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu”
(Euratom) với tư tưởng trung tâm là hình thành một thị trường rộng lớn ở Châu Âu coi
như một công cụ phối hợp và hoà nhập các chính sách kinh tế của các nước thành viên.
Đến cuộc họp thượng đỉnh giữa các vị nguyên thủ quốc gia các thành viên của châu Âu
năm 1972 tại Paris thì lần đầu tiên thuật ngữ EU được nhắc tới. Sự ra đời các cộng đồng
Châu Âu đã đáp ứng được nhu cầu tạo lập không gian không biên giới cho việc tự do lưu
chuyển các nguồn lực và sản phẩm trong toàn Châu Âu.
Bước tiến quan trọng tiếp theo tạo ra sự cải biến căn bản khuôn khổ thiết chế và
chính trị cho tiến trình nhất thể hoá Châu Âu là việc ký kết văn bản Định ước Châu Âu
duy nhất (the Single European Act) theo đuổi mục tiêu hình thành thị trường Châu Âu
đơn nhất (the Single European market) với mốc thời gian là ngày 31 tháng 12 năm 1992.
Tiếp đó việc ký kết Hiệp định về Liên hiệp Châu Âu (EU) tại Maastricht tháng 10 năm
1993 là một cuộc cải cách toàn diện nhất các hiệp định Roma thúc đẩy sự liên kết Châu
Âu trên cả ba trụ cột của EU là cộng đồng Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh
chung và hợp tác về tư pháp và nội vụ.
Liên hiệp Châu Âu đang thực hiện các chính sách tiếp tục thúc đẩy liên kết hoá
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI nhằm làm cho EU trở nên mạnh hơn và mở rộng. Bước
vào thiên niên kỷ mới Liên hiệp Châu Âu đã khẳng định:
- Các chính sách đối nội phải nhằm tới sự phát triển bền vững và việc làm, gắn
kết kinh tế - xã hội và phát triển nông nghiệp.
- Tiến trình liên kết hoá Châu Âu phải làm sao nâng cao được vai trò của EU trên
trường quốc tế.
- Trong quá trình thực hiện liên kết Châu Âu, EU không chỉ mạnh hơn mà còn
mở rộng hơn về lãnh thổ.
Thực hiện Hiệp định Amsterdam, tiến trình đi tới liên minh kinh tế và tiền tệ
(EU) như đỉnh cao mới của liên kết hoá Châu Âu đang tạo ra động lực thúc đẩy toàn bộ
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
4

Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
EU tiến lên. Mọi chuẩn bị về kỹ thuật đã được hoàn tất để ra đời đồng tiền chung Châu
Âu (đồng EURO) ra đời vào ngày 1 tháng 1 năm 1999. EU và đồng EURO sẽ tạo ra cái
neo giữ cho sự ổn định, hoàn thiện hiệu quả thị trường và khuyến khích đầu tư cũng như
mở ra những khả năng mới cho việc quản lý vĩ mô có hiệu quả hơn ở Châu Âu.
Hiệp ước về Liên minh, hay hiệp ước Maastrich, vào năm 1993 đặt các nước thành viên
vào một chương trình đầy tham vọng: liên minh tiền tệ vào năm 1999, các chính sách
chung mới, quốc tịch châu Âu, một chính sách ngoại giao và an ninh nội bộ. Hiện nay,
một hội nghị liên Chính phủ đang tranh luận về điều chỉnh các thể chế và các quá trình
ra quyết định của EU, nhằm tạo nền móng cho việc mở rộng Cộng đồng sang các nước
Trung và Đông Âu.
Tiến trình liên kết hoá Châu Âu đang được thực hiện thắng lợi, những thời cơ và
thách thức đang hiện diện trước một Liên hiệp Châu Âu sẽ bước vào thế kỷ XXI trong tư
cách một tổ chức mạnh hơn và mở rộng hơn. Hiệp định Amsterdam đã tăng cường một
bước đáng kể về các mặt tăng cường sức mạnh, hoàn thiện khả năng trong các hoạt động
đối ngoại và cải cách khuôn khổ thiết chế cho Liên hiệp Châu Âu trước khi bước vào
giai đoạn mới có ý nghĩa quyết định của tiến trình liên kết.
Gần nửa thế kỷ hội nhập của châu Âu đã có một tác động sâu sắc tới sự phát triển của
lục địa và cách suy nghĩ của người dân trên lục địa. Nó cũng thay đổi cán cân quyền lực.
Tất cả các Chính phủ, bất kể thuộc hình thái chính trị nào, ngày nay đều nhận thức được
rằng kỷ nguyên của chủ quyền quốc gia tuyệt đối đã qua đi. Chỉ có thông qua liên kết
lực lượng và nỗ lực hướng tới “một căn cước chung” - trích Hiệp ước về Cộng đồng
Than và Thép châu Âu - thì các quốc gia châu Âu cũ mới tiếp tục được hưởng tới sự
phát triển kinh tế xã hội và duy trì được ảnh hưởng của mình trên thế giới.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
5
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
1.1.2. Cơ cấu của EU:
EU là từ viết tắt tiếng Anh của European Union nghĩa là Liên minh châu Âu. Nó bao
gồm 15 nước thành viên là: Anh, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Luxembourg, Hà Lan,

Thụy Điển, Đan Mạch, Bỉ, Áo, Hy Lạp, Phần Lan, Ailen và Bồ Đào Nha. Cơ cấu của
EU được xây dựng trên ba thành phần cơ bản chính là Cộng đồng chung châu Âu
(European Community), chính sách chung về an ninh và đối ngoại (Common foreign and
security policy), đồng hợp tác trong vấn đề tư pháp và nội vụ (Cooperation in justice and
home affairs).
Các điều khoản chủ yếu trong hiệp ước của EU được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau
đây:
- Lương thực chung;
- Sửa đổi Hiệp ước EEC thành EC (European Community), bao gồm liên hiệp kinh tế và
tiền tệ, liên hiệp về thuế quan, thị trường đơn nhất, chính sách nông nghiệp chung, chính
sách hạ tầng và vấn đề công dân của Liên hiệp.
- Chính sách về an ninh và đối ngoại (CFSP).
- Hợp tác về các vấn đề pháp luật và nội vụ;
- Tài chính chung;
- Nghị định thư, trong đó quan trọng nhất là mối liên kết quan hệ về kinh tế và xã hội và
các chính sách xã hội để giải thích cho sự liên hệ tới CFSP và những văn bản của các
nước thành viên của Liên hiệp Tây Âu (WEU) về vai trò của họ.
Đồng thời Liên minh châu Âu được quản lý bởi một loạt các thể chế sau chung. Các thể
chế chính bao gồm:
- Một nghị viện được bầu thông qua bầu cử tự do, nó cung cấp một diễn đàn dân chủ cho
việc tranh luận, mang chức năng giám hộ và giữ vai trò giám hộ trong tiến trình lập
pháp;
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
6
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
- Hội Đồng châu Âu, bao gồm các bộ trưởng của 15 nước thành viên và là cơ quan chủ
yếu ra quyết định;
- Uỷ Ban châu Âu đại diện cho quyền lợi của Cộng Đồng và là cơ quan thi hành chính
sách của Cộng Đồng;
- Toà án Tư pháp được đặt tại Luxembourg và đảm bảo luật pháp của Cộng Đồng được

hiểu và thực hiện theo đúng các hiệp ước;
- Toà án Kiểm toán có vai trò kiểm tra để việc thu và chi được thực hiện “theo một cách
thức hợp pháp và đúng chuẩn mực” và các vấn đề tài chính của Cộng Đồng được quản
lý một cách thích hợp;
- Ngân Hàng Đầu tư Châu Âu (EIB), được thành lập để giúp thực hiện các dự án đóng
góp vào sự phát triển cân bằng của EU.
1.1.3. Tiềm năng về kinh tế của EU:
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, châu Âu luôn là đại lục
phát triển nhất về kinh tế cũng như khoa học kỹ thuật. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá
nặng nề sau thế chiến thứ 2 kéo lùi nền kinh tế đi vài chục năm, nhưng ngay sau đó châu
Âu đã có những bước hồi phục thần kỳ và cho đến nay thì châu Âu luôn là một lục địa
phát triển nhất trên thế giới nếu xét cả về tiềm năng kinh tế, kỹ thuật, quân sự vượt trên
cả Mỹ. Liên minh châu Âu (EU) chính là đại diện tiêu biểu cho lục địa này về khả năng
phát triển kinh tế, kỹ thuật. Hiện nay liên minh châu Âu là một trong ba cực về kinh tế,
khoa học kỹ thuật gồm Mỹ, EU, Nhật Bản, trong số 7 nước công nghiệp phát triển hàng
đầu trên thế giới thì EU đã góp mặt với 4 nước, điều này cho ta thấy được phần nào sức
mạnh kinh tế của tổ chức này. Về thương mại, với chỉ vẻn vẹn có khoảng hơn 370 triệu
người (6% dân số của thế giới), liên minh châu Âu đã chiếm tới một phần năm thương
mại của toàn thế giới, đặc biệt khi các nước được thống nhất bởi một quyết định về
thương mại thì lợi thế này chắc chắn sẽ tăng lên.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
7
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Ngoài ra các chỉ số phát triển khác đều rất cao, như mức sống thì quả thật EU là
miền đất hứa cho nhiều người, là một mô hình mà hầu hết các nước khác trên thế giới
đều hướng tới, với mức GDP/người là rất cao, có nước vượt cả Mỹ và Nhật Bản, tỷ lệ
thất nghiệp cũng đã giảm dần trong những năm gần đây. Một đặc điểm nổi bật nữa ở các
nước EU trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước của các nước đều tăng trưởng,
tuy cao thấp khác nhau, nhưng ổn định.
1.2 Tổng quan về FDI ở Việt Nam

1.2.1.Tình hình FDI từ năm 1988 đến 2006
Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ. Đến
năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên, con số
FDI đăng ký đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên
đến 8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân. Các nhà
đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong thời kỳ
chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà
đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loại các yếu tố tích cực khác như lực lượng
lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao.Bên cạnh những yếu tố bên
trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn
sóng vốn chảy dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm 90.
Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các
nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là
dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi
mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba, là các nước
mạnh trong vùng (cụ thể là Mã-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái-lan,…) đã bắt đầu xuất khẩu
vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có được
lợi thế từ các yếu tố này.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
8
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Trong khoảng thời gian 1991-1996, FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc
tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp
cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn 1997-1999, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của
nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một
phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều
từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc gia của mình.
Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải
huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các

nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng
đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy,
cũng trở nên kém hấp dẫn đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các
nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị
thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn.
Giai đoạn 2000-2002: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức
25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. FDI
đăng ký tăng vào năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn
(2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD-CG Phú Mỹ (2001)
với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn
khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001.
Trong gần 20 năm qua, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
đã trải qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1988 đã tăng liên tục và đạt đỉnh cao nhất vào năm
1996; trong 9 năm đó đã có 1.998 dự án với số vốn đăng ký đạt 30.395 triệu USD, chiếm
48,2% tổng vốn đăng ký trong hơn 17 năm đầu, bình quân 1 năm đạt 3.377,2 triệu USD.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
9
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Giai đoạn thứ hai từ năm 1997- 2002, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã gần như
liên tục bị sút giảm; trong 6 năm này đã có 2.695 dự án được cấp phép mới, với tổng vốn
đăng ký mới và bổ sung đạt 10.932,3 triệu USD, bình quân 1 năm đạt 1.822,1 triệu USD.
Giai đoạn thứ ba tính từ năm 2003 đến nay, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã
liên tục tăng lên; trong giai đoạn này đã có 1.890 dự án được cấp phép mới, với tổng vốn
đăng ký mới và bổ sung đạt 10.567,7 triệu USD, bằng 34,8% trong 9 năm đầu và đạt xấp
xỉ bằng tổng vốn trong 6 năm từ 1997-2002, bình quân 1 năm đạt hơn 4 tỷ USD, cao
nhất trong 3 giai đoạn.
Sự "khởi sắc" trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tính từ cuối năm 2003,
đặc biệt trong 7 tháng đầu năm 2005 được thể hiện ở nhiều mặt:
- Tổng số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD,

tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn số cả năm của 8 năm (1988, 1989, 1990,
1991, 1992, 1999, 2000, 2002).
- Sự tăng lên của vốn đầu tư đạt được cả ở 2 kênh. Tính từ đầu năm đến 20/7 đã
có 419 dự án mới được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 2.100 triệu USD, so với cùng
kỳ năm trước tăng 16,7% về số dự án và tăng tới 118,2% về số vốn đăng ký (7 tháng đầu
năm 2004 có 359 dự án với số vốn đăng ký 962,5 triệu USD).
Cũng trong thời gian này đã có 277 lượt dự án đang hoạt động bổ sung vốn với
tổng số vốn đăng ký tăng thêm 1,12 tỷ USD, tăng 40,6% về số lượt dự án và tăng 13,1%
về số vốn đăng ký bổ sung. Nếu tính cả số vốn của những dự án mới được cấp phép và
số vốn bổ sung của những dự án đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký mới trong 7
tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước.
- Bên cạnh những dự án có quy mô như những năm trước đã xuất hiện những dự
án mới có quy mô vốn khá lớn, trong đó có dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh điện
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
10
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
thoại di động CDMA với tổng số vốn đăng ký lên đến 665 triệu USD; nhiều dự án đang
hoạt động xin tăng vốn lên tới 50-70 triệu USD.
- Cơ cấu đầu tư theo nhóm ngành đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Nếu
trong thời kỳ 1988-2004, tỷ trọng vốn đăng ký đầu tư vào nhóm ngành công nghiệp xây
dựng lên đến 65,3%, vào nhóm ngành dịch vụ chỉ có 28,7% thì trong 7 tháng đầu năm
nay, các con số tương ứng đã có sự thay đổi đáng kể là 49,1% và 47,9%.
Đây là tín hiệu để có thể gia tăng tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP (đã bị
giảm liên tục trong thời kỳ 1995-2003, từ 44,06% xuống còn 37,99% đến năm 2004 mới
chặn lại được và chỉ tăng nhẹ lên mức 38,15%).
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006 cả nước thu hút
được gần 10 tỉ USD vốn đăng ký mới, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có
khoảng 800 dự án được cấp mới, với tổng vốn đăng ký trên 7,6 tỉ USD, tăng 60,8% so
với cùng kỳ năm trước và 490 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn
tăng thêm khoảng 2,4 tỉ USD. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong năm

2006 đạt 9,4 triệu USD/dự án, điều này chứng tỏ số lượng dự án có quy mô lớn đã tăng
lên.
Bức tranh về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong năm 2006 có màu sắc phong phú
hơn với sự xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên quốc
gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn đầu tư
1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án của Tập
đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1
triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD... Nhiều dự án được
cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya Glass
Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước tính vốn thực hiện trong
năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
11
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tiếp tục khả quan. Doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006
đạt 29,4 tỉ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá trị xuất khẩu (trừ
dầu thô) đạt 14,6 tỉ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ. Nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất
khẩu năm 2006 đạt 22,6 tỉ USD, chiếm 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Giá trị
sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5%, cao hơn mức
tăng sản xuất công nghiệp bình quân của cả nước (18,5%). Nhập khẩu của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006 đạt 16,35 tỉ USD, tăng 19,3% so với năm
2005. Trong năm 2006, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nộp ngân sách nhà nước đạt
1,26 tỉ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ và tạo việc làm cho trên 1,12 triệu lao động trực
tiếp, chưa kể hàng triệu lao động gián tiếp khác.
Thời gian gần đây, có nhiều yếu tố để đưa ra nhận định về khả năng xuất hiện
một làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào Việt Nam. Làn sóng này dường như âm ỉ từ
sau các động thái khi Việt Nam đàm phán vòng cuối để gia nhập WTO, khi các tập đoàn
lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ gửi các đoàn vào Việt Nam tìm hiểu môi trường đầu tư, kinh
doanh để tìm kiếm cơ hội đầu tư ... Rồi hàng loạt các sự kiện diễn ra tại Việt Nam trong

năm 2006 đã góp phần làm nổi lên làn sóng đầu tư mà đỉnh cao là vốn đăng ký và vốn
thực hiện của năm 2006 đều đạt mức đỉnh điểm kể từ khi nước ta thực thi Luật Đầu tư.
Rõ ràng nước ta đang đứng trước những cơ hội mới và cả những thách thức để có thể thu
hút mạnh mẽ hơn nguồn vốn FDI, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
1.2.2. Tình hình FDI từ 2006 đến năm 2009
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
12
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Cùng với việc gia nhập WTO và thực hiện các cam kết quốc tế, VN đã chứng
kiến một "làn sóng đầu tư thứ hai" hết sức mạnh mẽ kể từ năm 2006 đến nay, mà đỉnh
cao là 20,3 tỉ USD thu hút trực tiếp FDI trong năm 2007.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), tính đến cuối năm 2007, cả nước đã thu hút
được hơn 9.500 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỉ USD (gồm cả vốn cấp
mới và vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động hoặc giải thể trước thời
hạn, hiện còn khoảng 8.590 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 83,1 tỉ USD.
Trong số này, đã có khoảng 50% số dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỉ
USD, chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký.
Các dự án ĐTNN đi vào hoạt động đã tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, giá trị
XK, đóng góp cho ngân sách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Hiện
khu vực có vốn ĐTNN đã đóng góp trên 17% GDP, chiếm 16% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, đạt giá trị doanh thu trong 2 năm 2006-2007: 69 tỉ USD, trong đó giá trị XK (trừ dầu
thô) đạt 28,6 tỉ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể
(32,3 tỉ USD), với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu vào những
lĩnh vực chúng ta chủ trương thu hút đầu tư như công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản
phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du
lịch-dịch vụ cao cấp v.v...).
Trong quý I năm 2008, các doanh nghiệp ĐTNN đã góp vốn đầu tư thực hiện trên
1,68 tỷ USD, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Doanh thu của các

doanh nghiệp ĐTNN trong qúy I năm 2008 ước tính đạt 7.600 triệu USD, tăng 27% so
với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 5.398 triệu USD, tăng 20% so
với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 6100 triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước, nộp
ngân sách 355 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ. Năm 2008 thu hút 64 tỷ USD, cao
gấp gần 3 lần so với năm 2007, giải ngân 11,5 tỷ USD và quy mô vốn đạt tới 60 triệu
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
13
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
USD/dự án. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước nhiều biến động trong
năm thì con số hơn 64 tỷ USD FDI cho thấy, Việt Nam vẫn là điểm đến của các nhà đầu
tư quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính đã lan rộng toàn cầu nhưng các tập đoàn xuyên
quốc gia vẫn chọn Việt Nam là điểm đến an toàn. Ấn tượng của Việt Nam trong mắt các
nhà đầu tư không chỉ là một đất nước ổn định, vị trí địa lý thuận lợi, mà còn là tính trách
nhiệm cao của Chính phủ, các ngành trong việc giải quyết các vướng mắc của nhà đầu
tư, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong thời gian qua. Thời gian
đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án đã được rút ngắn nhiều so với trước đây; việc phân
cấp quản lý đầu tư cũng đã tạo cho nhà đầu tư dễ dàng, thuận tiện hơn trong việc nhận
cấp phép đầu tư. Điểm mới trong thu hút FDI là số dự án lớn và tính đồng đều của vốn
FDI trong các vùng miền cao hơn so với các năm các dự án quy mô lớn, lên tới vài tỷ
USD ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Bên cạnh đó, thay vì đầu tư chủ yếu vào các tỉnh,
thành phố lớn, có lợi thế về địa lý, hạ tầng, FDI đã được lan toả rộng hơn, dàn đều hơn
trong các vùng, miền.
Ngày 23/11/2008, khởi động dự án Khu liên hợp Thép Cà Ná tại tỉnh Ninh
Thuận, có công suất 14,42 triệu tấn thép/năm, tổng vốn đầu tư gần 9,8 tỷ USD, đã được
báo chí dành cho sự quan tâm khá đặc biệt.Bởi, số vốn đăng ký của riêng dự án này đã
gần bằng tổng số vốn đăng ký của cả năm 2006 (trên 10 tỷ USD), và xấp xỉ một nửa con
số của năm 2007 (20,3 tỷ USD).Nhưng Thép Cà Ná không phải là cá biệt. Trong vòng
một năm qua, rất nhiều siêu dự án FDI quy mô vốn hàng tỷ USD đã “đổ” vào Việt Nam,
khiến cho tổng số vốn đăng ký tăng cao kỷ lục.
Với một con số quan trọng hơn - vốn giải ngân, thì năm 2008 cũng xác lập kỷ lục.

Năm qua, các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã giải ngân số vốn lên tới 11,5 tỷ USD,
tăng 43,2% so với năm 2007.Nếu trong giai đoạn 20 năm trước đó (1988-2007), vốn FDI
thực hiện đạt 43 tỷ USD, tức là tính trung bình chỉ giải ngân được 2,15 tỷ USD/năm, thì
giải ngân trong năm 2008 đã bằng 26,7% tổng số vốn giải ngân 20 năm trước đó. Năm
2008, khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 1,982tỷ USD, tăng
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
14
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
25,8% so với năm 2007.Cũng trong năm nay, khối doanh nghiệp này đã tạo ra trên 200
nghìn việc làm mới trong tổng số 1,615 triệu việc làm mới tạo được của cả nước, nâng
tổng số lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người, góp phần giải quyết
vấn đề công ăn việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt Nam hiện nay.
* Năm dự án có vốn đầu tư lớn nhất trong năm 2008:
- Dự án Công ty TNHH Thép Vinashin - Lion (Malaysia) có số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD;
- Dự án Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa của Đài Loan 7,9 tỷ USD;
- Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) của Nhật Bản và Kuwait liên doanh
6,2 tỷ USD;
- Dự án Công ty TNHH New City Việt Nam 4,3 tỷ USD;
- Dự án Hồ Tràm của Canada trên 4,2 tỷ USD.
* Chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 được dự kiến từ đầu năm:
- Vốn thực hiện: đạt 10 tỷ USD vượt 25% năm 2007 (8 tỷ USD).
- Lao động: 160.000 người, tăng 6,7% so với năm 2007;
- Nộp ngân sách Nhà nước: 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
15
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Năm 2009, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đổ vào Việt Nam thu hút
được 1.504 dự án FDI cả cấp mới và tăng vốn đạt trên 21,4 tỷ USD, bằng chưa đến 30%
so với năm 2008 nhưng vẫn vượt mức kế hoạch đề ra. Đây vẫn được xem là kết quả lạc
quan trong bối cảnh nguồn vốn FDI trên toàn thế giới năm qua suy giảm gần 40% do ảnh

hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Nếu so với mục tiêu 20 tỷ USD đặt ra từ đầu năm,
việc thu hút FDI của Việt Nam trong năm nay không phải là quá tệ, nếu không nói là kết
quả khá, nhất là trong xu thế vốn FDI đổ vào các nước và khu vực trên thế giới giảm do
khủng hoảng. Vốn đăng ký cấp mới giảm mạnh tới 70% so với năm trước, song số vốn
giải ngân chỉ giảm 13%, ước đạt 10 tỷ USD. Cụ thể, trong năm 2009, Việt Nam thu hút
được 839 dự án FDI đăng ký mới với tổng vốn đầu tư 16,345 tỷ USD, bằng 24,6% so
với cùng kỳ năm 2008. Cùng trong năm này, có 215 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn
tăng thêm 5,137 tỷ USD, bằng 98,3% so với con số tương ứng của năm ngoái. Việc các
nhà đầu tư tăng vốn cho các dự án FDI cho thấy cái nhìn tích cực đối với môi trường đầu
tư ở Việt Nam.
1.3. Thực trạng đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam
1.3.1. Đầu tư FDI của EU vào Việt Nam.
Ngay từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào cuối năm 1997,các nhà
đầu tư EU đã trở thành những người đi tiên phong trong hoạt động đầu tư vào Việt
Nam,mở đầu bằng việc công ty dầu khí BP của Vương quốc Anh cùng với hai công ty
của Ấn Độ và Na Uy được cấp giấy phép thăm dò,khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt
Nam. Trong những năm đầu từ năm 1988 đến 1996, EU đã ký 207 dự án với Việt Nam
(chiếm 11,8% số dự án các nước đầu tư vào Việt Nam, trong đó Pháp với 98 dự án, Hà
Lan với 33 dự án, Đức 23 dự án và Anh là 22 dự án. Tổng số vốn đăng ký là2765,3 triệu
USD bằng 10,2% tổng số vốn đăng ký của các dự án đầu tư vào Việt Nam. Vốn pháp
định của 207 dự án này lên 1799,7 triệu USD chiếm 65,3% trong tổng số vốn đăng ký.
Các dự án đầu tư của EU tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực như khai thác dầu khí,
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
16
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
bưu chính viễn thông, khách sạn, du lịch. Trong số các nước đầu tư vào Việt Nam thì
Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển được xếp vào những quốc gia có số vốn đầu tư lớn.
Anh và Pháp nằm trong 10 nước đứng đầu vềđầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Cụ thể là:
Tính đến năm 1999 với gần 30 dự án có tổng số vốn đầu tư khoảng 1,2 tỷ USD, trong
khi đó Pháp được coi là 1 trong những nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và tính đến

năm 1998 có 79 dự án đang được thực hiện, với tổng số vốn đầu tư là 633,5 triệu
USD.Đầu tư là lĩnh vực được hai bên khuyến khích thông qua việc tạo môi trường thuận
lợi cho đầu tư tư nhân bao gồm những điều kiện tốt hơn về chuyển vốn và trao đổi
thông tin về các cơ hội đầu tư, được thể hiện là: EU giúp Việt Nam cải thiện môi trường
kinh tế bằng cách tạo thuận lợi cho việc tiếp cận công nghệ của EU; bên cạnh đó phía
EU cũng tạo thuận lợi cho việc tiếp xúc giữa các nhà kinh doanh tiến hành các biện pháp
nhằm khuyến khích, trao đổi, buôn bán và đầu tư trực tiếp và việc tăng cường hiểu biết
lẫn nhau trong lĩnh vực môi trường kinh tế, xã hội của mình.Nhận rõ tiềm năng to lớn và
chính sách quan hệ quốc tế của EU (các nước châu Âu thường quan tâm đến nội bộ châu
Âu hơn), Việt Nam cần xúc tiến, khai thông quan hệ với EU, phải tìm mọi cách để hoà
nhập vào thị trường EU mặc dù việc hoà nhập vào thị trường này không phải dễ dàng
nhưng đó cũng là một thị trường mà Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận.FDI của EU
liên tục gia tăng về quy mô và nhịp độ,EU hiện có hàng trăm dự án với tổng vốn đầu tư
lên đến hàng tỷ USD.Trong đó Anh, Pháp, Hà Lan, Thụy Điển và CHLB Đức là 5 nước
đầu tư vào Việt Nam nhiều nhất trong khối EU.
Đặc biệt khi Vệt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).Ông Oliver
Massman, thành viên ban quản trị Phòng thương mại Châu Âu (Eurocham) tại Việt Nam
cho biết, các nhà đầu tư châu Âu ngày càng tin tưởng hơn vào các cơ hội kinh doanh tại
Việt Nam; đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư từ châu Âu,ở châu Âu, mối quan tâm
đến làm ăn tại Việt Nam đang ngày càng lớn hơn.Các tập đoàn viễn thông chẳng hạn sẽ
chắc chắn có mặt ngày càng đông vì Việt Nam có thị trường viễn thông rất hấp dẫn, đối
với các nhà đầu tư, lợi thế lớn của Việt Nam là một trong những quốc gia có “ổn định
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
17
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
chính trị tốt nhất trong thập kỷ qua ở châu Á” và một lợi thế lớn nữa là Việt Nam có
nhân công tay nghề cao, học hỏi nhanh và lương tương đối thấp. Đánh giá cao cố gắng
của Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư, cơ quan hữu trách thật sự
cầu thị và lắng nghe lời khuyên từ các nhà đầu tư. So với các nước khác khá bảo thủ
trong việc này ,Việt Nam là một nước rất tích cực.Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng có

nghĩa là Việt Nam sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới và để giữ vững khả năng
cạnh tranh và mức tăng trưởng cao, Việt Nam sẽ cần tái cơ cấu nền kinh tế và cải thiện
cơ sở hạ tầng, hướng tới sự tăng trưởng bền vững.Sau khi gia nhập WTO, mức lương
cho công nhân trong ngành sản xuất sẽ tăng. Điều này có lợi cho lao động nhưng đối với
nhà sản xuất, họ sẽ cân nhắc về điều này. Chính vì vậy, Việt Nam cũng cần cẩn trọng khi
tăng lương quá nhanh bởi như thế có thể đánh mất lợi thế cạnh tranh so sánh với các
nước trong khu vực.Ngoài ra để thu hút nhiều đầu tư, Việt Nam cần có hệ thống luật
pháp và thương mại ổn định và có trách nhiệm giải trình, và ban hành các hướng dẫn thi
hành thật rõ ràng. Các vấn đề về tranh chấp lao động hoặc các hướng dẫn rõ ràng về việc
mở văn phòng đại diện của các Công ty thương mại cũng cần được giải quyết thấu đáo
và triệt để để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Hiện nay xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ
dựa chủ yếu vào các mặt hàng sơ chế và nguyên liệu và còn thiếu cơ sở cho tăng trưởng
bền vững, do đó Việt Nam cần thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực chế biến để làm sao
thêm giá trị gia tăng tại Việt Nam vào các mặt hàng rồi mới xuất khẩu. Việt Nam sẽ
thành công hơn trong thu hút đầu tư so với các nước trong khu vực nếu “biết cách tăng
trưởng bền vững và gửi thông điệp đến các nhà đầu tư về môi trường luật pháp ổn định
và các cơ hội kinh doanh sẵn có.
1.3.2.Vốn và cơ cầu vốn đầu tư theo ngành
Đầu tư của EU có mặt hầu khắp trong các lĩnh vực của nền kinh tế và đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế Việt Nam.EU có ưu thế về công nghệ cao nên các dự án
đầu tư trực tiếp chủ yếu tập trung vào giao thông vận tải, bưu điện, lĩnh vực thẳm dò và
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
18
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
khai thác dầu khí,kinh doanh khác sạn,du lịch, công nghiệp nặng, may mặc, rượu bia,
nước giải khát…
Trong những buổi đầu đầu tư của EU vào Việt Nam,các nhà đầu tư của EU vẫn
còn e ngại nên chỉ quan tâm đến các hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí.Tiêu biểu là
hợp đồng khai thác dầu khí BP, Statoil, EnterpriseOil…là những dự án đầu tiên của EU
đầu tư vào Việt Nam.Đến nay các lĩnh vực đặc biệt thu hút đầu tư của EU đã mở rộng ra

các lĩnh vực cơ sở hạ tầng như bưu chính viễn thông, điện nước, dịch vụ, tài chính, ngân
hàng,…chiếm hàng tỷ USD và chiếm số lượng lớn trong tổng vốn đầu tư của EU vào
Việt Nam.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
19
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Những lĩnh vực nổi bật của đầu tư EU tại Việt Nam:
Công nghiệp dầu khí.
Đây là lĩnh vực được các nhà đầu tư EU đặc biệt quan tâm.Nếu không tính đến
những hợp đồng đã hết hạn hoặc giải thể, hơn một nửa số dự án thăm dò khai thác dầu
khí ở Việt Nam đã thuộc về các nhà đầu tư EU , với số vốn đầu tư 1724 triệu USD với
các đối tác lừng danh thế giới như tập đoàn BP ( Vương Quốc Anh), Shell (Hà Lan),
Total (Pháp), Fina ( Bỉ), OMV (Áo). . Ngày 7/3/2007, BP Việt Nam cho biết, tập đoàn
này cùng các đối tác dự định đầu tư trên 2 tỷ USD cho dự án tổng thể tương tự dự án
khí - điện - đạm đã thực hiện tại Việt Nam là dự án Nam Côn Sơn. Theo đó, một đường
ống dẫn khí sẽ được xây dựng để chuyển khí từ 2 mỏ Mộc Tinh và Hải Thạch .Năm
2009, tập đoàn BP, tập đoàn dầu châu Âu đã kí thỏa thuận với hai chi nhánh của Tập
đoàn xăng dầu và khí đốt Việt Nam (PetroVietnam) về việc cung cấp dầu thô đến nhà
máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam ở Dung Quất.Tập đoàn BP và Castrol (Vương Quốc
Anh) liên doanh sản xuất dầu nhờn và mỡ bôi trơn cho các loại động cơ.
Giao thông vận tải – bưu điện
Trong lĩnh vực này, các tên tuổi nổi tiếng như Siemens(Đức), Alcatel(Pháp),
Kinevik, Comvik(Thụy Điển) cũng đã trở nên quen thuộc với thị trường Việt
Nam.Những hãng này ngay từ đầu đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực còn nhiều mới mẻ ở
Việt Nam, trong khi các hãng vienx thông khác chỉ thực hiện các hợp đồng thương mại
khai thác dịch vụ viễn thông. Những dự án lớn đáng chú ý là các hợp đồng hợp tác kinh
doanh của tổng công ty Bưu Chính Viễn thông Việt Nam với France telecom(Pháp) về
mạng viễn thông nội hạt với gia 615 triệu USD.Dự án BCC về thông tin di động giữa
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông và Comvik, tổng vốn đầu tư 341 triệu USD,chiếm
92% vốn đăng ký của Thụy Điện tại Việt Nam.

Công nghiệp nặng.
Mặc dù chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đầu tư (17,5%), tỷ lệ vốn thực hiện/ vốn đầu
tư trong ngành công nghiệp nặng vẫn còn thấp (21,62%).Với thế mạnh về công nghiệp
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
20
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
hiện đại và kĩ thuật quản lí tiên tiến,các nhà đầu tư của EU chủ yếu tập trung vào các
lĩnh vực như điện tử, tin học, ôtô, xe máy, hóa chất…Đáng kể nhất là dự án mía đường
Bourbon của Pháp ở Tây Ninh với vốn đầu tư 111 triệu USD được coi là dự án mía
đường lớn nhất của nước ta.Dự án sữa Foremost của Hà Lan ở Bình Dương trị giá 49,5
triệu USD , các dự án chế biến hạt điều, chè xuất khẩu, chế biến cà phê ở Đắc Lắc…
Khách sạn- Du lịch
Các nhà đầu tư Pháp tỏ rõ thế mạnh trong lĩnh vực này với 15 dự án(6,14%) và
vốn đầu tư 287,3 triệu USD(7,1%).Sớm nhất và thành công nhất cho đến này phải kể
đến Liên doanh khách sạn Sofitel Metropole giữa công ty Feal International ( Pháp) và
Societe de Development de Metropole BV(Hà Lan)
Nông lâm nghiệp
Đây là lĩnh vực rất cần thu hút đầu tư nước ngoài nhưng do lợi nhuận thấp,rủi ro
cao nên đầu tư vào lĩnh vực này nói chung còn hạn chế,nhưng điều đáng chú ý là đầu tư
của EU trong lĩnh vực này lại khá cao so với các nước khác.Riêng đầu tư EU cho lĩnh
vực nông nghieepjchieems tỷ lệ trên 3% tổng nguồn vốn đầu tư.Trong tương lai, phát
triển lâm nghiệp sẽ coi là “bệ phóng” để đẩy tới một chuyển dịch cơ ccaafu đầu tư theo
hướng ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho phát triển nông nghiệp là một dấu hiệu đáng mừng
của đầu tư từ các nước Liên minh Châu Âu.
Xây dựng văn phòng – căn hộ
Hiện nay EU số dự án đầu tư của EU vào lĩnh vực này ngày càng tăng.Dự án lớn
nhất là Liên doanh giữa công ty Badaco Wego ( Đức) và Thành phố hồ Chí Minh trị giá
104,9 triệu USD.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
21

Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phân theo đối tác (15/12/2009)
(Nguồn số liệu cục đầu tư nước ngoài)
TT Đối tác
Số dự
án
Tổng vốn đầu
tư đăng ký
(USD)
Vốn điều lệ
(USD)
1 Đài Loan 2,023
21,344,405,8
07
8,628,729,3
42
2 Hàn Quốc 2,327
20,572,892,3
16
6,933,403,4
50
3 Malaysia 341
18,064,514,6
01
3,871,213,0
32
4 Nhật Bản 1,160
17,816,524,0
80
5,157,821,2

24
5 Singapore 776
17,003,489,9
11
5,448,066,2
82
6 Hoa Kỳ 495
14,539,123,3
13
2,627,224,7
10
7 BritishVirginIslands 453
13,194,840,6
49
4,345,974,9
36
8 Hồng Kông 564
7,718,774,7
19
2,660,042,6
06
9 Cayman Islands 44
6,630,072,8
51
1,226,052,6
18
10 Thái Lan 220
5,773,990,7
08
2,471,157,6

22
11 Canada 93
4,798,138,1
25
1,009,504,6
56
12 Brunei 99
4,693,831,4
21
949,146,4
21
13 Pháp 274
3,040,302,2
68
1,543,273,5
34
14 Hà Lan 124
2,933,914,3
13
1,577,891,4
44
15 Trung Quốc 676
2,741,323,6
31
1,303,360,1
96
16 Samoa 80
2,627,109,1
68
375,027,5

00
17 Síp 6
2,209,065,5
00
751,681,5
00
18 Vương quốc Anh 120 2,151,477,5 1,319,856,7
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
22
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
01 09
19 Thụy Sỹ 71
1,434,503,8
49
1,012,760,8
04
20 Australia 226
1,214,725,5
36
522,625,5
88
21 Luxembourg 17
987,034,3
93
772,108,4
69
22 CHLB Đức 139
777,611,4
09
367,773,4

53
23 Liên bang Nga 64
765,761,3
48
582,731,5
94
24 Đan Mạch 81
583,829,8
48
220,512,8
47
25 British West Indies 6
511,231,0
90
146,939,3
27
26 Philippines 44
300,942,9
10
148,662,3
36
27 Mauritius 32
215,803,6
00
147,756,5
19
28 Bermuda 5
211,572,8
67
128,452,0

00
29 ấn Độ 38
201,404,2
10
124,640,3
91
30 Indonesia 22
197,992,0
00
95,505,60
0
1.3.3. Đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam
Trong mối quan hệ hợp tác về kinh tế với Việt Nam, Pháp có một mối quan hệ rất
đặc biệt, bởi vì Việt Nam từng là nước thuộc địa của Pháp và đã đánh thắng Pháp. Pháp
đã để lại đây rất nhiều dấu ấn về văn hoá, về các cơ sở hạ tầng, kiến trúc. Do vậy trong
số các nước EU đầu tư vào Việt Nam thì họ là nước quan tâm đến Việt Nam nhiều nhất.
Hiện Pháp là nước đứng đầu trong các nước EU đầu tư vào Việt Nam. Ngay khi có chủ
trương “mở cửa” của Nhà nước đi kèm với Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các
nhà đầu tư Pháp đã có mặt ngay tại Việt Nam sau đó vào đầu năm 1988. Tính đến
15/12/2009 Pháp có 274 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
23
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
3,040,302,268 USD,vốn điều lệ 1,543,273,534 triệu USD đứng thứ 13 trong số các nước
đầu tư vào Việt Nam và đứng thứ 1 trong số các nước EU đầu tư vào Việt Nam. Theo
đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, các dự án của Pháp hoạt động tại Việt Nam khá
hiệu quả. Nhiều DN và thương hiệu của Pháp đã gây dựng được ấn tượng tốt tại thị
trường Việt Nam như France Telecom (viễn thông), Sanofi-Synthelabo, Aventis (dược
phẩm), Bourbon (siêu thị và nông nghiệp), Big C Việt Nam…
Tính đến hết năm 2009 có khoảng 250 doanh nghiệp Pháp đang hoạt động tại

Việt Nam (một số doanh nghiệp có nhiều cơ sở trên khắp cả nước).Thị trường phát triển
mạnh mẽ của Việt Nam hấp dẫn đông đảo nhiều tập đoàn lớn của Pháp. Còn ngành công
nghiệp dược đang tận dụng được sự hiện diện của mình từ trong suốt quá trình lịch sử tại
thị trường này và một số hãng dược phẩm còn được sở hữu địa điểm sản xuất tại Việt
Nam.Ngoài ra, cũng phải kể đến sự tăng trưởng nhanh trong lĩnh vực điện thoại và công
nghệ truyền thông. Hơn nữa, việc Việt Nam gia nhập WTO đã có những tác động đáng
kể trong lĩnh vực dịch vụ.
Theo những cam kết gia nhập, Việt Nam đã mở cửa cho các doanh nghiệp nước
ngoài trong đó có các doanh nghiệp Pháp, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và bảo hiểm
gia tăng sự hiện diện tại Việt Nam. Ngay trong trung tuần tháng 9 vừa qua, tập đoàn bảo
hiểm AXA của Pháp đã hợp tác chiến lược với Tổng công ty Cổ phần Bảo Minh bằng
việc sở hữu 16,6% cổ phần của Bảo Minh.Pháp sẽ tài trợ cho Việt Nam trong những dự
án chiến lược tăng trưởng xanh như dự án vệ tinh nhỏ quan sát tài nguyên - môi trường,
thiên tai (55,8 triệu euro), tăng vốn cho tuyến đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội (30
triệu euro), cấp vốn cho nhà máy thủy điện Huội Quảng (80 triệu euro) để giải quyết tình
trạng thiếu điện giờ cao điểm...
Tháng 9/2001, EDF - Công ty Điện lực Pháp - đứng đầu một tổ hợp (cùng với
công ty của Nhật và Công ty Điện lực EVN) đã đạt được quyền quản lý BOT của Nhà
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
24
Đầu tư trực tiếp EU vào Việt Nam
máy điện Phú Mỹ 2.2. Năm 1997, Tập đoàn France Telecom thực hiện hợp đồng hợp tác
trị giá 467 triệu USD xây dựng 540.000 đường dây điện thoại tại phía Tây Tp.HCM.
Tháng 7/2005, Công ty TNHH Alcatel Việt Nam 100% vốn nước ngoài đã được cấp
phép thành lập, đánh dấu một bước phát triển mới của Alcatel tại Việt Nam. Hiện nay,
Alcatel đang chiếm hơn 30% thị phần thiết bị mạng cố định nội hạt và 30% thị phần
thiết bị băng thông rộng (DSL).
Ngoài ra, trong số các nhà đầu tư chính của Pháp tại Việt Nam có thể kể đến tập
đoàn Bourbon với số vốn đầu tư lên tới 270 triệu USD thông qua 7 giấy phép đầu tư
trong các lĩnh vực khác nhau.

Về hình thức đầu tư: Pháp đầu tư chủ yếu theo hình thức liên doanh, chiếm 55%
số dự án và 48% vốn đầu tư. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 36,5% số dự án
nhưng đa phần là các dự án nhỏ, chiếm 5,9% về vốn. Pháp có dự án BOT cấp nước tại
Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh với tổng vốn đầu tư 120 triệu USD, vốn pháp định 36
triệu USD, thời hạn 25 năm, do Công ty Sues Leonaise Des Eaux và Pilecon Engine
Berhard. Dự án đã đi vào hoạt động, công suất thiết kế là 300.000 m
3
/ngày.
Các nhà đầu tư Pháp có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân
tới 11 lĩnh vực (nhiều nhất trong EU cùng với Hà Lan), nhưng vốn đầu tư tập trung lớn
nhất vào ngành Giao thông vận tải - Bưu điện với 658,6 triệu USD, chiếm 37% vốn đầu
tư; công nghiệp nặng thu hút 22 dự án với 279 triệu USD, chiếm 15% vốn đầu tư. Có
một điều đặc biệt là các nhà đầu tư của Pháp có các dự án trong lĩnh vực như nông
nghiệp với 17 dự án (nhiều nhất EU) với số vốn tương đối lớn tới 223.954.710 USD và
có tới 6 dự án trong lĩnh vực về văn hoá - y tế - giáo dục (nhiều nhất EU) với số vốn
52.449.487 USD.
Nguyễn Danh Hùng-Đầu Tư 48D
25

×