Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành và định hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.29 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................2
B. NỘI DUNG.........................................................................................................3
1. Khái quát chung..............................................................................................3
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự.............................................................................................................3
1.2. Khái niệm của biện pháp thế chấp..........................................................4
1.3. Đặc điểm của biện pháp thế chấp...........................................................4
2. Đối tượng của biện pháp thế chấp.................................................................5
3. Hình thức và thời hạn thế chấp tài sản.........................................................6
4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp.............................8
4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản............................................8
4.1.1. Nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản.......................................................8
4.1.2. Quyền của bên thế chấp tài sản.........................................................10
4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp tài sản.................................12
4.2.1. Nghĩa vụ của bên nhận thế chấp tài sản...........................................12
4.2.2. Quyền của bên nhận thế chấp tài sản...............................................13
4.3. Quyền và nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp.................14
4.3.1. Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp..............................14
4.3.2. Quyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp...................................15
5. Xử lý tài sản thế chấp và chấm dứt quan hệ thế chấp...............................15
6. Định hướng hoàn thiện pháp luật...............................................................16
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................20
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................21

1


A. MỞ ĐẦU
Hiện nay các biện pháp thế chấp tài sản đang ngày càng phát huy được ưu


thế của nó trong nền kinh tế thị trường. Thế chấp tài sản được coi là một trong
những công cụ pháp lý hữu hiệu để hạn chế những rủi ro có thể nảy sinh từ các giao
dịch vay vốn, tín dụng. Trong quan hệ thế chấp thì tài sản thế chấp được coi là yếu
tố xuyên suốt toàn bộ quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng thế chấp, đảm bảo
quyền lợi cho các bên trong quan hê. Biện pháp bảo đảm có ưu điểm là khá đơn
giản, nhanh chóng, thuận tiện cho các bên trong quan hệ thế chấp tuy nhiên mức độ
rủi ro lại tương đối cao cho bên nhận thế chấp. Thêm vào đó, việc xác định tính xác
thực của các loại giấy tờ đó lại không đơn giản vì công nghệ làm giả các loại giấy
tờ hiện nay rất tinh vi mà không phải bất cứ ai cũng có thể phát hiện được nên
quyền của bên nhận thế chấp rất dễ rơi vào thế bị động. Vì vậy để hiểu rõ hơn về
quy đinh của pháp luật về thế chấp tài sản em xin lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thế
chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành và định hướng hoàn
thiện.”

2


B. NỘI DUNG
1. Khái quát chung
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự
“Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là các biện pháp dự
phòng do các bên chủ thể thỏa thuận để bảo đảm lợi ích của các bên có quyền bằng
các cho phép bên có quyền được xử lý những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa
vụ đó bị vi phạm.”1 Các bên ở đây bao gồm bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có những đặc điểm sau:
- Các biện pháp bảo đảm thựu hiện nghĩa vụ dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở
sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể.
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được coi là nghĩa vụ phụ,
phát sinh từ nghĩa vụ chính, nghĩa vụ được bảo đảm. Mối quan hệ giữ giao dịch bảo

đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vừa phụ thuộc vừa độc lập.
- Các biện pháp bảo đảm có đối tượng là tài sản, lợi ích vật chất vì các biện
pháp bảo đảm ra đời nhằm bảo đảm lợi ích cho bên có quyền, bên có lợi ích vật
chất.
- Các biện pháp bảo đảm có tính chất dự phòng và chỉ phát sinh khi có sự vi
phạm nghĩ vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền.
- Phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ chính.
- Biện pháp bao đảm cho từng nghĩa vụ luôn do các bên tự thỏa thuận.
- Các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiện của các bên
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự.
1 Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.

3


1.2.

Khái niệm của biện pháp thế chấp

Khái niệm của biện pháp thế chấp tài sản được quy định tại Điều 342 Bộ luật
dân sự năm 2005: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp)
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với
bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên
nhận thế chấp”.
Qua khái niệm này, ta có thể thấy trong quan hệ thế chấp thì bên thế chấp chỉ
dùng tài sản để bảo đảm mà không phải chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế
chấp khác với biện pháp cầm cố bởi khi cầm cố thì bên cầm cố có nghĩa vụ pải giao
tài sản cho bên nhận cầm cố. Như vậy, “biện pháp thế chấp tài sản được hiểu là sự
thỏa thuận của các bên mà bên thế chấp sẽ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự mà không phải chuyển giao tài sản đó thay

vì việc chuyển giao các giấy tờ chức nhận quyền sở hữu đối với tài sản thế chấp
cho bên nhận thế chấp giữ”.2
1.3.

Đặc điểm của biện pháp thế chấp

Biện pháp thế chấp tài sản có những đặc điểm chung của biện pháp bảo đảm
và còn có những đặc điểm riêng sau:
- Trong quan hệ thế chấp không có sự chuyển giao tài sản thế chấp từ bên thế
chấp sang bên nhận thế chấp. Đặc điểm này đã đáp ứng linh hoạt lợi ích của các
bên chủ thể, tạo điều kiện thuận tiện hơn có các bên.
- Tài sản thế chấp chỉ có tính ổn định tương đối trong thời thạn hợp đồng thế
chấp. Tài sản thế chấp thường có sự thay đổi trong thời hạn thế chấp và dẫn đến
việc xung đột về lợi ích giữa bên nhận thế chấp với những người khác có liên quan
đến tài sản thế chấp.

2 Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.

4


2. Đối tượng của biện pháp thế chấp
Điều kiện của tài sản thế chấp: - Là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, động
sản hay bất động sản, hiện có hoặc hình thành trong tương lai. – Thuộc sở hữu của
bên bảo đảm. – Thỏa mãn có điều kiện của pháp luật trong những trường hợp đặc
biệt.
Đối tượng của thế chấp chỉ có thể là tài sản. Pháp luật không hạn chế về tài
sản được dùng để thế chấp, có thể là động sản hay bất động sản, là tài sản hữu hình
hoặc vô hình, là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. ts thế chấp
phải đáp ứng được những điều kiện sau:

- Là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, động sản hay bất động sản, hiện có
hoặc hình thành trong tương lai.
- Thuộc sở hữu của bên bảo đảm.
- Thỏa mãn có điều kiện của pháp luật trong những trường hợp đặc biệt.
Đối tượng của thế chấp được quy định tại khoản 1 Điều 342 Bộ luật dân sự
năm 2005: “Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ
thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường
hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản
thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Tài sản thế chấp cũng có thể
là tài sản được hình thành trong tương lai” và tại khoản 3 của điều luật này: “Việc
thế chấp quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 715
đến Điều 721 của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Như vậy:
- Động sản, bất động sản: động sản hay bất động sản đều có thể trở thành đối
tượng của thế chấp nếu đáp ứng đủ các điều kiện của tài sản thế chấp. Điều 176 Bộ
luật dân sự năm 2005 quy định “Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác
5


công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, nhưng có thể tách rời vật
chính” nên:
+ “Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì
vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp”. Các bên không
thể có thỏa thuận khác trong trường hợp này mà đương nhiên vật phụ thuộc tài sản
thế chấp.
+ “Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ
thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”. Các
bên phải thỏa thuận rõ về việc xác định vật phụ đó không thuộc tài sản thế chấp khi
chỉ thế chấp một phần tài sản là động sản, bất động sản. Nếu các bên không thỏa
thuận khác thì sẽ áp dụng quy định này, vật phụ thuộc tài sản thế chấp.

- Quyền sử dụng đất: theo điều 715 Bộ luật dân sự năm 2005 thì có thể hiểu
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữ các bên, trong đó bên thế
chấp dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
với bên nhận thế chấp. Bên thế chấp được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế
chấp. Các vấn đề về thế chấp quyền sử dụng đất như phạm vi thế chấp quyền sử
dụng đất, quyền và nghĩa vụ của các bên và xử lý quyền sử dụng đất đã thế chấp
được quy định từ Điều 716 đến Điều 721 Bộ luật dân sự năm 2005.
- Tài sản được hình thành trong tương lai: khoản 1 Điều 342 Bộ luật dân sự
năm 2005 cũng quy định “tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành
trong tương lai”. Theo khoản 2 Điều 4 Nghị định số163/2006/NĐ-CP được sửa đổi
bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP thì tài sản hình thành trong tương lai bao
gồm: tài sản hình thành từ vốn vay; tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc
được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; tài sản đã hình
thành và thuộc đối tượng phải đăng kí quyền sở hữu nhưng sau thời điểm giao kết

6


giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật; tài
sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất.
3. Hình thức và thời hạn thế chấp tài sản
Theo Điều 343 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “Việc thế chấp tài sản phải được
lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.
Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công
chứng, chứng thực hoặc đăng ký”. Vì vậy, việc thế chấp thỏa thuận bằng miệng cho
dù có người làm chứng thì không thế là chứng cứ khi có tranh chấp. Ngoài ra, khi
pháp luật có quy định thì việc thế chấp phải được công chứng, chức thực hoặc đăng
kí tại cơ quan có thẩm quyền thì thế chấp đó mới có giá trị, nếu các bên không tuân
thủ quy định này thì hợp đồng thế chấp vô hiệu. Thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời
điểm giao kết trừ một số trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định

số 163/2006/NĐ-CP.
Các trường hợp đang ký thế chấp bao gồm:
- Thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở
hữu (quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu bay, tàu biển...). Việc đăng ký thế chấp
đối với những tài sản này giúp bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp khi một tài
sản mà đảm bảo nhiều nghĩa vụ trả nợ. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định
theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Thế chấp tài sản không thuộc trường hợp pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu nhưng các bên có thỏa thuận hoặc người thứ ba giữ tài sản. Việc đăng
ký trong trường hợp này giúp bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp khi có sự vi
phạm nghĩa vụ xảy ra.
- Thế chấp một tài sản đảm bảo thự hiện nhiều nghĩa vụ. Trong trường hợp
này việc đăng ký giúp xác định quyêng ưu tiên trong thanh toán và cũng nhằm
dùng một tài sản để thế chấp ở nhiều nơi với mục đích lừa đảo.
7


Về thời hạn thế chấp, thì “các bên thỏa thuận về thời hạn thế chấp tài sản;
nếu không có thỏa thuận thì việc thế chấp có thời hạn cho đến khi chấm dứt nghĩa
vụ được bảo đảm bằng thế chấp.”(Điều 344 Bộ luật dân sự năm 2005).
4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp
4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản
4.1.1. Nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản
Nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản được quy định tại Điều 348 Bộ luật dân sự
năm 2005 như sau:
Thứ nhất, bên thế chấp có nghĩa vụ phải bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp.
Vì tài sản đã được đem thế chấp nên bên thế chấp không còn toàn quyền định đoạt
tài sản đó nữa mà phải bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp sao cho nguyên vẹn để
đảm bảo giá trị của tài sản thế chấp được giữ nguyên trong thời gian thế chấp, trừ
trường hợp khách quan. Quy định này xuất phát từ việc tài sản thế chấp không

chuyển giao cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp vẫn có quyền giữ tài sản đó,
trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận giao tài sản thế chấp cho người thứ ba giữ.
Thứ hai, bên thế chấp phải áp dụng các biện pháp cần thiết dể khắc phục, kể
cả phải ngừng việc khai thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó
mà giá trị tài sản thế chấp có nguy cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị. Nghĩa vụ
này của bên thế chấp tài sản xuất hiện khi và chỉ khi xác định rõ nguy cơ làm giảm
sút hoặc làm mất giá trị tài sản thế chấp, nếu không áp dụng ngay các biện pháp cần
thiết thì việc giảm sút hoặc việc mất giá trị tài sản thế chấp chắc chắn có thể xảy ra.
Nếu bên thế chấp không áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phụ nguy cơ thì
bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên thế chấp thực hiện các biện pháp đó; nếu
bên thế chấp vẫn không thực hiện thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu Tòa án
buộc bên thế cháp thực hiện nghĩa vụ đó.
Thứ ba, bên thế chấp có nghĩa vụ phải thông báo cho bên nhận thế chấp về
quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp, nếu có; trong trường hợp không có
8


thông báo thì bên nhận thế chấp có quyền ủy hợp đồng thế chấp tài sản và yêu cầu
bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba
đối với tài sản thế chấp.
Thứ tư, bên thế chấp không được mua bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế
chấp, trừ trường hợp tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản
xuất, kinh doanh hoặc bên nhận thế chấp đồng ý cho bên thế chấp bán tài sản thế
chấp. Quy định này nhằm bảo vệ quyền của bên nhận thế chấp bởi nếu tài sản thế
chấp được phép chuyển dịch cho người thứ ba thì tài sản thế chấp không còn sẽ làm
chấn dứt việc thế chấp khi nghĩa vụ của bên thế chấp chưa hoàn thành. Tuy nhiên,
nếu bên nhận thế chấp đồng ý và người mua, người trao đổi, người được tặng cho
đồng ý trở thành người bảo lãnh bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp đối
với tài sản thế chấp thì cho phép bên thế chấp được mua bán, trao đổi, tặng cho tài
sản thế chấp. Điều 20 Nghị định số163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi

Nghị định số 11/2012/NĐ-CP quy định: “Trong trường hợp bên thế chấp bán, trao
đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hoá luân chuyển trong quá trình
sản xuất, kinh doanh mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp thì bên nhận
thế chấp có quyền thu hồi tài sản thế chấp, trừ các trường hợp sau đây:
a) Việc mua, trao đổi tài sản được thực hiện trước thời điểm đăng ký thế chấp và
bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình;
b) Bên mua, bên nhận trao đổi phương tiện giao thông cơ giới đã được đăng ký
thế chấp, nhưng nội dung đăng ký thế chấp không mô tả chính xác số khung của
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện thủy nội địa, phương tiện
giao thông đường sắt và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình.”
Ngoài các quy định thuộc Điều 348 Bộ luật dân sự năm 2005 thì các bên có
thể thỏa thuận bên thế chấp phải thực hiện các nghĩa vụ khác như nghĩa vụ chuyển
giao toàn bộ giấy tờ về tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp; nghĩa vụ phải
9


chuyển đăng ký việc thế chấp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và một số nghĩa
vụ khác được quy định tại Điều 25, Điều 26, Điều 28 Nghị định số163/2006/NĐCP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP.
4.1.2. Quyền của bên thế chấp tài sản
Các quyền của bên thế chấp tài sản được quy định tại Điều 349 Bộ luật dân
sự năm 2005 như sau:
Thứ nhất, bên thế chấp tài sản được khái thác công dụng, hương hoa lợi, lợi
tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thỏa
thuận.
Thứ hai, bên thế chấp có quyền được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản
thế chấp. Việc đầu tư này có thể do bên thế chấp trược tiếp hoặc cho phép người
thứ ba thực hiện việc đầu tư để là tăng giá trị tài sản thế chấp, bên nhận thế chấp
không được hạn chế quyền này của bên thế chấp. Trong trường hợp bên thế chấp
đầu tư vào tài sản thế chấp và dùng phẩn tài sản tăng thêm để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ khác, hoặc người thứ ba đầu tư vào tài sản thế chấp và nhận thế chấp bằng

chính phần tài sản tăng thêm do đầu tư thì được giải quyết theo quy định tại Điều
27 Nghị định số163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số
11/2012/NĐ-CP như sau:
Trường hợp phần tài sản tăng thêm có thể tách rời khỏi tài sản thế chấp mà không
làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp so với giá trị của tài sản đó
trước khi đầu tư thì các bên nhận bảo đảm có quyền tách phần tài sản mà mình
nhận bảo đảm để xử lý.
b) Trường hợp phần tài sản tăng thêm do đầu tư không thể tách rời khỏi tài sản thế
chấp thì tài sản thế chấp được xử lý toàn bộ để thực hiện nghĩa vụ. Thứ tự ưu tiên
thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định theo thời điểm đăng ký.
10


Trường hợp bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư vào tài sản thế chấp (sau đây
gọi là người đã đầu tư vào tài sản thế chấp), nhưng không dùng phần tài sản tăng
thêm do đầu tư để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì giải quyết như sau:
a) Trường hợp phần tài sản tăng thêm do đầu tư có thể tách rời khỏi tài sản thế chấp
mà không làm mất hoặc giảm giá trị của tài sản thế chấp thì khi xử lý tài sản bảo
đảm người đã đầu tư vào tài sản thế chấp có quyền tách phần tài sản tăng thêm do
đầu tư ra khỏi tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
b) Trường hợp phần tài sản tăng thêm do đầu tư không thể tách rời khỏi tài sản thế
chấp hoặc nếu tách rời sẽ làm mất hoặc giảm giá trị của tài sản thế chấp thì người
đã đầu tư vào tài sản thế chấp không được tách phần tài sản tăng thêm do đầu tư ra
khỏi tài sản thế chấp, nhưng khi xử lý tài sản thế chấp thì người đã đầu tư vào tài
sản thế chấp được ưu tiên thanh toán phần giá trị tăng thêm, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác”
Thứ ba, bên thế chấp có quyền được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài
sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Sở dĩ có quy
định này vì hành hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh là động sản
dùng để trao đổi mua bá, cho thuê trong phạm vi hoạt động sản xuất, kinh doanh

của bên bảo đảm. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển
trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số
tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp
thay thế cho số tài sản đã bán.
Thứ tư, bên thế chấp được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải
là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận
thế chấp đồng ý.
Thứ năm, bên thế chấp có quyền được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp
nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho
11


mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.
Vì vậy, nếu bên thế chấp cho thuê hoặc cho mược tài sản thế chấp mà k thông báo
cho bên thuê hoặc bên mượn biết về việc tài sản đó đang được dùng để thế chấp và
gây ra thiệt hay, thì phải bồi thường cho bên thuê hoặc bên mượn. khi tài sản thế
chấp bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ thì hợp đồng cho thuê, cho mượn tài sản đang
thế chấp chấm dứt và bên thuê, bên mượn phải giao lại tài sản cho bên nhận thế
chấp để xử lý, trừ trường hợp bên nhận thế chấp và bên thuê, bên mượn có thỏa
thuận khác.
Thứ sáu, bên thế chấp cố quyền nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ,
khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện
pháp bảo đảm khác. Trong trường hợp các bên có tranh chấp về việc nghĩa vụ đã
được thực hiện hay chưa hoặc đã được thực hiện nhưng không đúng thỏa thuận, thì
bên nhận thế chấp có thể chưa giao lại tài sản thế chấp hoặc giấy tờ về tài sản thế
chấp cho bên thế chấp cho đến khi hai bên đạt được thương lượng hoặc khi có
quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, bên nhận thế chấp
phải chịu trách nhiệm về việc đó, thậm chí phải bồi thường thiệt hại nếu có nếu
việc giữ lại tài sản đó là sai. Nếu các bên có thỏa thuận về việc bên thế chấp phải
giao giấy tờ về tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp giữ thì sau khi bên thế chấp

hoàn thành nghĩa vụ thì bên thế chấp có quyền yêu cầu bên bận thế chấp giao lại
giấy tờ vè tài sản thế chấp cho mình. Quyền này của bên thế chấp tưỡng ứng với
nghĩa vụ của bên nhận thế chấp được quy định tại khoản 1 Điều 350 Bộ luật dân sự
năm 2005.
4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp tài sản
4.2.1. Nghĩa vụ của bên nhận thế chấp tài sản
Điều 350 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định bên nhận thế chấp có cá
nghĩa vụ sau:
12


Thứ nhất, trong trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ
về tài sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ
về tài sản thế chấp. Tại quy định này thì nghĩa vụ của bên nhận thế chấp được quy
định đơn giản hơn vì bên nhận thế chấp không được giữ tài sản thế chấp mà chỉ
được giữ giấy tờ về tài sản thế chấp nếu các bên có thỏa thuận. Như vậy, khi có
thoản thuận giữa các bên thì bên thì bên nhận thế chấp phải hoàn trả giấy tờ cho
bên thế chấp khi chấm dứt thế chấp theo các trường hợp được quy định tại Điều
357 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thứ hai, bên nhận thế chấp có nghĩa vụ yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xoá đăng ký trong các trường hợp tài sản thế
chấp đã được xử lý hoặc việc thế chấp đã được hủy bỏ hoặc tài sản thế chấp đã
được thay thế bởi tài sản khác hoặc khi chấm dứt thế chấp tài sản. Tuy nhiên, việc
xóa đăng ký chỉ được đặt ra trong trường hợp trước đó giao dịch thế chấp tài sản đã
được các bên thỏa thuận đăng ký hoặc pháp luật quy định buộc phải đăng ký.
4.2.2. Quyền của bên nhận thế chấp tài sản
Các quyền của bên nhận thế chấp tài sản được quy định tại Điều 351 Bộ luật
dân sự năm 2005, bao gồm:
Thứ nhất, bên nhận thế chấp cơ quyền yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản
thế chấp từ bên thế chấp phải chấm dứt việc sử dụng tài sản thế chấp, nếu việc sử

dụng làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản đó.
Thứ hai, bên nhận thế chấp được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp,
nhưng không được cản trở hoặc gây khó khăn cho việc sử dụng, khai thác tài sản
thế chấp. Quyền này nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng giá trị tài sản, công dụng
tài sản cũng như xem xét khả năng tài sản thế chấp có bị mất hoặc giảm sút giá trị
không và khi thực hiện quyền này thì bên nhận thế chấp khong được cản trở việc sử
13


dụng, khai thác công dụng tài sản nếu tài sản thế chấp vẫn trong trạng thái bình
thường như khi các bên giao kết.
Thứ ba, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp
thông tin về thực trạng tài sản thế chấp. Các thông tin này không phải chỉ có thông
tin về người thứ ba đối với tài sản thế chấp mà còn là các thông tin về việc tài sản
thế chấp có được bảo hiểm không, người kí kết hợp đồng mua hàng hóa luân
chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh là ai...
Thứ tư, bên nhận thế chấp có quyên yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện
pháp cần thiết để bảo toàn tài sản, giá trị tài sản trong trường hợp có nguy cơ làm
mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản do việc khai thác, sử dụng.
Thứ năm, yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao
tài sản đó cho mình để xử lý trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Để thực hiện
quyền này thi Nghị định số163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định
số 11/2012/NĐ-CP đã quy định chi tiết tại các điều Điều 63, 64, 64a, 64b.
Thứ sáu, bên nhận thế chấp tài sản có quyền giám sát, kiểm tra quá trình hình
thành tài sản trong trường hợp nhận thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương
lai.
Thứ bảy, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo quy
định tại Điều 355 hoặc khoản 3 Điều 324 của Bộ luật dân sự năm 2005 và được ưu
tiên thanh toán.

4.3. Quyền và nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
4.3.1. Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp tuân theo sự thỏa thuận của
các bên trong giao dịch. Ở Điều 352 Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định một số
nghĩa vụ cơ bản như sau:
14


“1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp; nếu làm mất tài sản thế chấp, làm mất
giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp thì phải bồi thường;
2. Không được tiếp tục khai thác công dụng tài sản thế chấp, trong trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 353 của Bộ luật này, nếu việc tiếp tục khai thác có
nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp;
3. Giao lại tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp hoặc bên thế chấp theo
thoả thuận.”
Trường hợp người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải bồi thường thiệt hại do
làm mất tài sản thế chấp, làm mất hoặc giảm sút giát trị của tài sản thế chấp thì số
tiền bồi thường trở thành tài sản bảo đảm. Trong trường hợp vật thế chấp bị hao
mòn tự nhiên thì người thứ ba giữ tài sản thế chấp không phải bồi thường thiệt hại.
4.3.2. Quyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
Điều 353 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định quyền của người thứ ba giữ tài
sản thế chấp gồm:
“1. Được khai thác công dụng tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản thế chấp, nếu có thoả thuận;
2. Được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế
chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Như vậy, quy định tại khoản 1 trên đã cho phép người thứ ba được hưởng lợi
tức từ tài sản thế chấp chứ không hạn chế quyền này như quy định tại Điều 356 Bộ
luật dân sự năm 1995 là chỉ cho người thứ ba được khai thác công dụng và hưởng
lợi tức từ tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận. Ngoài ra người thứ ba được trả thù lao

và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp cho dù trong hợp
đồng giữa họ không đề cập đến việc này, chỉ trừ khi họ thỏa thuận rõ ràng hoặc bên
15


thứ ba không yêu cầu thah toán một hoặc toàn bộ các chi phí trên thì mới không
phải thanh toán khoản này cho bên thứ ba giữ tài sản thế chấp.
5. Xử lý tài sản thế chấp và chấm dứt quan hệ thế chấp
Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận
khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thì tài sản thế chấp được xử lý để tiến hành thực
hiện nghĩa vụ. Việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện tương tự như xử lý tài sản
cầm cố theo quy định tại Điều 336 và 338 Bộ luật dân sự năm 2005 tức là thực hiện
theo phương thức do các bên thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của
pháp luật. Bên nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản thế chấp
sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết có liên quan đến tài sản thế chấp.
Trường hợp một tài sản được dùng để thế chấp bảo đảm nhiều nghĩa vụ khác
nhau, khi phải xử lý tài sản thế chấp để thự hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa
vụ khác dù chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. Khi này, thứ tự ưu tiên thanh
toán của những người nhận thế chấp được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp.
Ngoài ra, pháp luật cũng đã quy định cụ thể việc xử lý tài sản bảo đảm trong
một số trường hợp như: xử lý tài sản bảo đảm là động sản trong trường hợp không
có thoả thuận về phương thức xử lý; xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ; Xử lý
tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, vận đơn, thẻ tiết kiệm; xử lý tài sản bảo đảm là
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp không có thoả thuận về
phương thức xử lý hay việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai tại Điều 65 đến Điều 69 Nghị định
số163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP.
Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định việc thế chấp tài sản chấm khi:
nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt; việc thế chấp tài sản được huỷ bỏ
hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; tài sản thế chấp đã được xử lý

hoặc theo thoả thuận của các bên.
16


6. Định hướng hoàn thiện pháp luật
Hiện nay, các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản vẫn đang còn nhiều
bất cập, một số bất cập đó là:
- Quy định "giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận thế
chấp"(Khoản 1 Điều 717 Bộ luật Dân sự năm 2005) không có ý nghĩa nhiều khi đã
phải đăng ký bắt buộc đối với thế chấp quyền sử dụng đất và còn gây ra những hệ
lụy không cần thiết liên quan đến việc kiện đòi bên nhận thế chấp trả lại giấychứng
nhận quyền sử dụng đất khi nghĩa vụ được bảo đảm đã hoàn thành.
- Tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất
kinhdoanh. Quy định "quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được
hoặc tài sản đã hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế
cho số tài sản đã bán" đã làm giảm độ an toàn của biện pháp bảo đảm đãđược xác
lập giữa các bên.
- Tài sản thế chấp là tài sản hình thành trong tương lai. Việc ghi nhận tài sản
hình thành trong tương lai là tài sản thế chấp là một điểm tiến bộ của pháp luật hiện
hành nhưng để chúng phát huy tối đa ưu thế trong thực tế thì cần phải có các quy
định hướng dẫn cụ thể hơn và phải có một cơ chế vận hành chúng một cách phù
hợp.
Chính vì còn nhiều bất cập do các quy định liên quan trong Bộ luật dân sự
năm 2005 còn chưa đầy đủ khiến việc thực thi gặp khó khăn ngay từ những ngày
đầu BLDS có hiệu lực nên cơ quan hành pháp đã can thiệp bằng cách ban hành một
Nghị định riêng về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006, để giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc, bao gồm xác định đối tượng
của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ và đặc biệt là xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ
trong trường hợp người mắc nợ không chịu tự nguyện trả nợ. Sau hơn 5 năm được
áp dụng, Nghị định này được hoàn thiện thêm một bước bằng Nghị định số

17


11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012. Việc thực hiện hai nghị định này được hướng
dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày
06/6/2014 của Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên&môi trường và Ngân hàng Nhà nước. Vì
vậy việc sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005 hiện nay là cơ hội tốt để khắc phụ tình
trạng này, nhằm hoàn thiện pháp luật hơn.
Ở Dự thảo Bộ luật dân sự hiện nay, có một số thay đổi cơ bản trong quy định
về thế chấp tài sản như sau:
Về mặt nội dung:
- Hiện nay Điều 332 và ĐIều 333 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định ghi nhận
đầy đủ, rõ ràng và hợp lý hơn về những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo
hướng, bên cầm cố, bên thế chấp có quyền bán, trao đổi, tặng cho, thay thế tài sản
cầm cố, thế chấp nếu có thỏa thuận với bên nhận cầm cố, nhận thế chấp hoặc tài
sản cầm cố, thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh
hoặc thuộc trường hợp khác theo quy định của luật. Trường hợp tài sản cầm cố, thế
chấp được bán, trao đổi, tặng cho, thay thế thì bên mua, bên nhận trao đổi, bên
nhận tặng cho tài sản có nghĩa vụ phải giao tài sản theo yêu cầu của bên nhận cầm
cố, bên nhận thế chấp. Trường hợp bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho,
bên thuê, bên mượn không giao tài sản thì bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng
cho, bên thuê, bên mượn phải giao tài sản theo thủ tục tố tụng rút gọn.
- Bổ sung quy định về Thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài
sản gắn liền với đất và Thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền
sử dụng đất tại Điều 352 và 353 dự thảo này nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề về
thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất bởi trên thực tế, đây là vấn đề
khá phức tạp.

18



- Sửa đổi một số nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp
và bên nhận thế chấp, bỏ quy định về quyền và nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài
sản thế chấp.
Về mặt hình thức:
Dự thảo cũng đã sửa đổi về hình thức của bộ luật như: sửa lại điều 342 theo
hướng bỏ việc liệt kê các tài sản được thế chấp và đưa quy định về hình thức thế
chấp tài sản tại điều 343 vào thành một điều luật quy định chung về thế chấp tài
sản. Những trường hợp được liệt kê về tài sản thế chấp ở điều 342 cùng với quy
định cụ thể về thế chấp tài sản đang cho thuê và thế chấp tài sản được bảo hiểm về
cùng một điều luật quy định về phạm vi hiệu lực về đối tượng của quyền thế chấp
(điều 345 Dự thảo)...
Như vậy, Dự thảo Bộ luật dân sự hiện nay đã có những thay đổi nhất định về
thế chấp tài sản theo hướng hoàn thiện hơn các quy định về vấn đề này nhằm giúp
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn được tốt hơn, giúp giải quyết các vấn đề thực
tế đang phát sinh hiện nay. Ngoài ra, cũng có những sửa đổi về mặt hình thức theo
hướng tích cực, cho thấy kĩ thuật lập pháp ngày càng chặt chẽ và hoàn thiện hơn.

19


C. KẾT LUẬN
Hiện nay khi mà các giao dịch dân sự, thương mại được xác lập ngày càng
nhiều thì các tranh chấp kiện tụng cũng ngày càng gia tăng thì sự nhận thức đúng
đắn và đầy đủ về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và biện
pháp thế chấp nói riêng trở nên cần thiết. Biện pháp thế chấp tài sản là biện pháp có
rất nhiều ưu thế so với các biện pháp bảo đảm khác tuy nhiên biện pháp này cũng
có một số nhược điểm và là này là loại biện pháp dễ phát sinh tranh chấp trong
quan hệ dân sự. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp thế

chấp tài sản là điều cần thiết đối với thực tiễn hiện nay. Dự thảo Bộ luật dân sự hiện
nay đã có khá nhiều điểm mới và hoàn thiện hơn về vấn đề này hy vọng sẽ được áp
dụng hiệu quả trong thực tiễn .

20


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Luật dân sự 2005.
2. Bộ Luật dân sự 1995.
3. Nghị định sô 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch
bảo đảm.
4. Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm
2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
5. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2,
6. PGS.TS. Hoàng Thế Liên, Bình luận khoa học Bộ Luật dân sự năm 2005,
tập II, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
7. Các trang web:
- duthaoonline.quochoi.vn
- moj.gov.vn
- thuvienphapluat.vn
- baodientu.chinhphu.vn

21




×