Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

SKKN phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội thông qua giảng dạy môn GDCD 10, phần đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.69 MB, 51 trang )

Phần một: ĐẶT VẤN ĐỀ
“Tôi là ai? Tôi có thể làm được điều gì? Tôi có những điểm mạnh, điểm yếu
như thế nào?” – Những câu hỏi được rất nhiều người từng đặt ra và luôn trăn trở để
đi tìm câu trả lời đúng cho mình. “Nhận thức về bản thân của một người là cơ sở
nhân cách của người đó. Nó ảnh hưởng đến mọi phương diện đời sống của con
người: khả năng học hỏi, khả năng trưởng thành và thay đổi, sự nghiệp và bạn đời.
Không quá đáng khi nói rằng, nhận thức đúng về bản thân là sự chuẩn bị khả dĩ và
tốt nhất cho những thành công trong cuộc sống”. (TS. Joyce Brothers).
Năng lực tự nhận thức là một năng lực sống cơ bản, là khả năng con người
có thể ý thức rõ ràng về cảm xúc, tính cách, quan điểm, giá trị và động cơ, hiểu biết
và chấp nhận những tố chất vốn có để phát huy điểm mạnh, hạn chế những điểm
yếu nhằm tổ chức tốt cuộc sống và cải thiện mối quan hệ của mình với mọi người.
Với vai trò quan trọng, môn GDCD không chỉ cung cấp hệ thống kiến thức
cho các em học sinh, mà còn hình thành và phát triển cho các em những năng lực
cơ bản như: Năng lực Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với
cộng đồng, đất nước; Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội.
Đặc biệt là năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và
chuẩn mực đạo đức xã hội.
Trong môn Giáo dục công dân 10 THPT, phát triển năng lực tự nhận thức và
điều chỉnh hành vi đạo đức cho học sinh là giúp học sinh nhận thức được các giá
trị đạo đức, truyền thống văn hóa. Nhận thức được các yếu tố tác động của bản
thân trong cuộc sống, học tập để từ đó có cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo
đức của xã hội.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình giảng dạy, với các phương pháp đã từng thể
hiện, tôi thấy việc học và tìm hiểu kiến thức Giáo dục công dân không gây được
hứng thú triệt để cho học sinh. Học sinh có vẻ “xem nhẹ” và chưa có ý thức cao
trong việc tìm hiểu các kiến thức của môn học, làm cho hoạt động dạy và học
không mang lại hiệu quả cao dẫn đến việc không phát huy được hết tính tích cực
của học sinh trong quá trình giảng dạy, và bài giảng Giáo dục công dân của giáo
viên chưa thể hiện được hết nội dung mà mình muốn truyền tải.
Nắm được những điểm yếu của học sinh, cũng như những tồn tại và hạn chế


trong phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân của bản thân nói riêng, với
mục đích hình thành cho học sinh thói quen tìm hiểu kiến thức khoa học, xã hội và
đời sống, hình thành cho các em cách ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức,
giúp các em có thể vận dụng thành thạo những kiến thức ấy để giải quyết các vấn
đề thực tiễn nên bản thân đã mạnh dạn nghiên cứu và thử nghiệm đề tài: Phát triển
năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức
xã hội thông qua giảng dạy môn GDCD 10, Phần Đạo đức.
1


Phần hai: NỘI DUNG
1. Lý luận chung về Phát triển năng lực; năng lực tự nhận thức và điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội
1.1. Lý luận chung về dạy học phát triển năng lực
1.1.1. Năng lực
- Năng lực: “ khả năng điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí sinh lí tạo cho con người khả năng
hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. (Từ điển Tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên. NXB Đà Nẵng.1998).
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực cho học sinh thì năng lực là: sự kết hợp một cách linh hoạt có
tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,...nhằm
đáp ứng hiệu quả một nhu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định.
Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể được Ban Chỉ đạo đổi
mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông thông qua ngày 28/7/2017,
bao gồm 10 năng lực sau:
Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp
phần hình thành, phát triển: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp
tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua

một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính
toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học,
năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục
phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt ( năng khiếu) của
học sinh.
Môn GDCD ở trường THPT có vai trò quan trọng trực tiếp trong quá trình
hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho học sinh.
Môn học này có đặc điểm là gần gũi, gắn bó mật thiết với đời thực tiễn sinh động
của gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc điểm này tạo cho môn GDCD có những
lợi thế để giáo viên có thể sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm
phát triển các năng lực cho học sinh. Bên cạnh các năng lực chung, môn GDCD
còn cung cấp các năng lựcc chuyên biệt sau:
- Tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực
đạo đức xã hội.
- Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất
nước.
- Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội.
2


1.1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình định hướng nội dung chúng ta muốn học sinh cần biết cái gì?
Chương trình định hướng năng lực chúng ta muốn học sinh biết và có thể làm
được những gì?
Sự khác nhau giữa chương trình định hướng nội dung và chương trình định
hướng năng lực:
Chương
trình
định Chương trình định hướng phát

Nội dung giáo
dục

hướng nội dung

triển năng lực

Việc lựa chọn nội dung
dựa vào các khoa học
chuyên môn, không gắn
với các tình huống thực
tiễn. Nội dung được quy
định chi tiết trong chương
trình.

Lựa chọn nội dung nhằm đạt được
kết quả đầu ra đã quy định, gắn với
các tình huống thực tiễn. Chương
trình chỉ quy định nội dung chính
không quy định chi tiết.

Mục tiêu giáo Mục tiêu dạy học được
dục
mô tả không chi tiết và
không nhất thiết phải
quan sát đánh giá được.

Kết quả học tập cần đạt được mô tả
chi tiết và có thể quan sát, đánh giá
được; thể hiện mức độ của học sinh

một cách liên tục.

Hình thức dạy
học

Chủ yếu dạy học lí thuyết
trên lớp học

Tổ chức hình thức học tập đa dạng;
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học, trải
nghiệm sáng tạo, đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học.

Điều kiện dạy
học

Chủ yếu khai thác điều
kiện dạy học trong phạm
vi nhà trường.

Sử dụng các điều kiện cơ sở vật chất
trong trường như: phòng máy chiếu,
thư viện, phòng thí nghiệm...
Khai thác các điều kiện bên ngoài
như: cơ sở văn hóa, di tích lịch sử,
internet, cơ sở nghiên cứu...

Phương pháp Giáo viên chủ yếu là


Giáo viên chủ yếu là người tổ chức,

dạy học

hỗ trợ cho học sinh tự học. Chú
trọng phát triển khả năng giao tiếp,
giải quyết vấn đề. Sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực...

người truyền thụ kiến
thức, là trung tâm của quá
trình dạy học. Học sinh
tiếp thu thụ động những
tri thức được quy định
sẵn.

3


Đánh giá
quả học tập

Quản lý
học

kết Tiêu chí đánh giá được

Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực


xây dựng chủ yếu dựa
đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong
trên sự ghi nhớ và tái hiện quá trình học tập, chú trọng khả
nội dung đã học.
năng vận dụng trong các tình huống
thực tiễn.
dạy Cơ chế bao cấp áp đặt
mệnh lệnh. Chương trình
giáo dục được thực hiện
rập khuôn, máy móc của
quy định cấp trên.

Cơ chế phân quyền, tang cường sự
chủ động sáng tạo của cơ sở.
Giáo viên, tổ chuyên môn, nhà
trường chủ động phát triển chương
trình giáo dục nhà trường phổ thông;
xây dựng kế hoạch giáo dục; chủ
động thực hiện chương trình và kế
hoạch giáo dục.

1.1.3. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là dạy học theo chuẩn và định
hướng kết quả sản phẩm đầu ra. Kết quả đầu ra cuối cùng của quá trình dạy học là
học sinh vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học vào giải quyết tình huống trong
cuộc sống, nghề nghiệp.
Dạy học theo định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của
việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú
trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thục tiễn nhằm chuẩn bị
cho con người năng lực giải quyết những tình huống cuộc sống và nghề nghiệp.

Dạy học theo định hướng năng lực phải tổ chức các hoạt động đa dạng ,
phong phú, linh hoạt trong phương pháp và ứng xử sư phạm. Tổ chức các hoạt
động khám phá bằng cách đưa ra hệ thống câu hỏi bằng cách kích thích học sinh
tìm ra kết quả. Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng đạt được ở học sinh.
Lấy người học làm trung tâm, mục tiêu dạy học tập trung vào vận dụng kiến
thức kĩ năng có thể quan sát được, nội dung dạy học thiết thực, bổ ích, gắn với các
tình huống trong thực tiễn. Phương pháp dạy học định hướng hoạt động thực hành,
hình thức học tập đa dạng. Tăng cường dạy học vận dụng giải quyết các vấn đề
thực tiễn.
1.2. Định hướng phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi
cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội trong môn Giáo dục công dân
Năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực
đạo đức xã hội.
+ Nhận thức được các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa, các quy định
của pháp luật và nhận ra được yếu tố tác động của bản thân trong cuộc sống học
tập.
4


+ Nhận thức được các yếu tố tác động đến bản thân, có cách ứng xử phù hợp
với các tình huống trong cuộc sống, học tập.
+ Tự đánh giá, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo
đức xã hội.
Môn Giáo dục công dân là một môn học tích hợp khá nhiều kiến thức của
các môn học khác. Chính vì thế, giáo viên giảng dạy môn này phải chịu khó mày
mò, tìm hiểu và tích lũy kiến thức để có được những bài giảng hay và sâu.
Phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực Tự nhận thức, tự
điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội không chỉ
chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực
giải quyết vấn đề gắn với tình huống cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với

hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan
hệ giáo viên học sinh theo hướng cộng tác, nhằm phát triển Tự nhận thức, tự điều
chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội cho học sinh.
Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học
sinh khám phá điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức
được sắp đặt sẵn. Chú trọng rèn luyện cho học sinh những tri thức phương pháp để
các em biết cách tìm lại những kiến thức đã có, biết cách suy luận tìm tòi kiến thức
mới. Tăng cường học hợp tác trong nhóm để cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, tự
giác làm việc và có thảo luận bàn bạc trong nhóm. Cần sử dụng các tình huống,
trường hợp điển hình, hiện tượng thực tế, các vấn đề trong đời sống xã hội để phân
tích đối chiếu cho bài giảng. Khuyến khích học sinh liên hệ thực tiễn trong nhà
trường, địa phương, đất nước trong quá trình học tập. Đặc biệt, cần hướng dẫn học
sinh vận dụng kiến thức bài học để xây dựng dự án nhỏ.
2. Cơ sở thực tiễn cho dạy học Phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều
chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội thông qua giảng dạy
môn GDCD
2.1.Vai trò của môn GDCD hiện nay
Giáo dục công dân là bộ môn thuộc khoa học xã hội đang được giảng dạy
trong trường THPT. Đây là môn học tích hợp, tập trung khá nhiều phân môn, chứa
đựng nhiều kiến thức của các môn khoa học khác. Mặt khác, việc dạy môn học này
đòi hỏi gắn liền trực tiếp, cụ thể với đời sống, với việc rèn luyện và tu dưỡng đạo
đức học sinh. Nó trang bị cho học sinh THPT những kiến thức cơ bản về Triết học,
đạo đức, các vấn đề về thời đại ngày nay, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước. Qua đó, hình thành và bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan
khoa học và nhân sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy biện chứng trong việc
đánh giá hiện thực khách quan, đặc biệt góp phần hình thành con người xã hội chủ
nghĩa.
Hơn nữa, trong hai năm trở lại đây, môn GDCD đã được Bộ GDĐT chọn là
một trong ba môn thi của bài thi tổ hợp xã hội. Điều này khẳng định vai trò của
5



môn này ngày càng quan trọng trong chương trình giáo dục, trong lòng người học
và toàn xã hội.
2.2.Thực trạng phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội thông qua giảng dạy môn GDCD 10,
Phần Đạo đức tại các trường THPT hiện nay
* Khó khăn
+ Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác,
các kiến thức trong thực tiễn, lựa chọn các kiến thức phù hợp để hình thành và phát
triển năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi cho học sinh.
- Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo lối truyền thụ kiến thức nên dạy
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh, các giáo viên sẽ vất vả hơn, phải
xem xét rà soát nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ
những thông tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới, phù
hợp. Nội dung của phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho
học sinh cũng yêu cầu giáo viên cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong
chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên không
tránh khỏi làm cho giáo viên có cảm giác ngại thay đổi.
- Điều kiện cơ sở vật chất (thiết bị thông tin, truyền thông) phục vụ cho việc
dạy học trong nhà trường còn nhiều hạn chế nhất là các trường ở nông thôn.
- Ở một số trường nông thôn, một bộ phận học sinh còn khá nhút nhát nên
việc định hướng phát triển năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi đạo đức
cho học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
+ Đối với học sinh:
- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là cả một quá trình
từ tiểu học đến THPT nên giai đoạn đầu này, đặc biệt là thế hệ học sinh hiện tại
đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
- Do xu thế chọn nghành nghề theo thực tế xã hội nước ta hiện nay và việc quy

định các môn thi trong các kỳ thi tuyển sinh nên đa số các học sinh và phụ huynh
kém mặn mà với các môn không thi, ít thi.
*Thuận lợi
+ Đối với giáo viên:
- Trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên dạy
những kiến thức có liên quan đến việc hình thành năng lực tự nhận thức và điều
chỉnh hành vi con người cho học sinh, tuy nhiên chúng ta chưa đi sâu và chưa có
khái niệm, tên gọi cụ thể mà thôi.
- Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không
còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, đánh giá, định
hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học.Vì vậy, giáo viên
6


các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau
trong dạy học.
- Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến thức
mới về phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực: như phương pháp tình huống,
dạy học theo dự án...
- Môi trường ”Trường học kết nối ” rất thuận lợi để giáo viên đổi mới trong dạy
học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh.
- Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một phần đổi
mới phương pháp dạy học hiên nay.
- Sự phát triển của công nghệ thông tin (CNTT), sự hiểu biết của đội ngũ giáo
viên của nhà trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học theo định hướng
phát triển năng lực.
+ Đối với học sinh:
- SGK trình bày theo hướng “ mở ” nên cũng tạo điều kiện, cơ hội cũng như
môi trường thuận lợi cho học sinh phát huy tư duy sáng tạo, từ đó các em có hứng
thú tìm hiểu kiến thức môn học.

- Mặc dù, dạy học theo định hướng phát triển năng lực đã được vận dụng vào
giảng dạy bộ môn giáo dục công dân, song hiệu quả đạt được chưa cao. Do đó
phần lớn học sinh hiện nay có thái độ bình thường, chưa phát huy được tính tích
cực trong học tập.
Vì vậy với nội dung đề tài này, bản thân tôi chỉ muốn đưa ra một số kinh
nghiệm về dạy học phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp
với chuẩn mực đạo đức xã hội thông qua giảng dạy môn GDCD 10, Phần Đạo đức.
3. Kinh nghiệm về dạy học Phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều
chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội thông qua giảng dạy
môn GDCD 10, Phần Đạo đức
3.1. Nắm vững những yêu cầu, nội dung, chương trình GDCD 10, Phần
Đạo đức trong dạy học phát triển năng lực
- Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm
thông tin,...).
- Sử dụng một cách linh hoạt các PPDH và đảm bảo nguyên tắc “Học sinh tự
mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.

- Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những
hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở
ngoài lớp...
- Coi trọng thực hành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học môn học, tích cực vận dụng công
nghệ thông tin trong dạy học.
7


3.2. Kinh nghiệm sử dụng một số phương pháp để phát triển năng lực tự
nhận thức, tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong
môn Giáo dục công dân 10, Phần đạo đức

3.2.1. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình lên lớp
Trong những năm qua, nhận thức được việc đổi mới phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là vấn đề quan trọng. Đặc biệt
môn GDCD, với vị trí đặc thù của mình là giữ vai trò chủ chốt trong việc giáo dục
cho học sinh ý thức, hành vi của người công dân góp phần hình thành và phát triển
ở các em phẩm chất, năng lực cần thiết của người công dân. Môn GDCD có vai trò
quan trọng đặc biệt trong trong việc phát triển nhân cách học sinh, góp phần nâng
cao nguồn nhân lực, đào tạo học sinh thành người lao động mới đáp ứng yêu cầu
đòi hỏi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phương pháp dạy học
môn GDCD phải theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng
say mê học tập và ý chí vươn lên. Quá trình dạy học một bài GDCD phải là quá
trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên thiết kế hướng
dẫn. Trong quá trình dạy học giáo viên phải huy động tối đa vốn hiểu biết kinh
nghiệm sống của học sinh. Dạy môn GDCD phải gắn chặt chẽ với thực tiễn cuộc
sống. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học môn GDCD rất phong phú đa
dạng bao gồm các phương pháp truyền thống như: diễn giảng, đàm thoại...và các
phương pháp mới như: hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề, điều tra thực tiễn, dự
án, tình huống, ....
Nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho học sinh, giáo viên nói chung và giáo viên bộ môn
GDCD của trường THPT Nghi Lộc 5 nói riêng đã thay đổi và có nhiều biến
chuyển, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực đã thực hiện, trong đó
chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp dạy học sau:
- Phương pháp thảo luận nhóm
+ Phương pháp thảo luận nhóm: đây là phương pháp sử dụng rộng rãi nhằm
giúp học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho
học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm. Với phương pháp này phát huy được năng lực
tự học, hợp tác, biết tìm kiếm và xử lí thông tin, học sinh tự tin hơn trong trình bày
ý kiến của mình. Đồng thời, thông qua phương pháp này, học sinh tự nhận biết

được trách nhiệm của mình nên từ đó giúp các em điều chỉnh được hành vi của bản
thân, các em tự biết được mình nên làm gì khi tham gia vào hoạt động của cả
nhóm. Đây là phương pháp mà đa số giáo viên trong trường vận dụng trong quá
trình dạy học.
Ví dụ 1: Khi giảng mục 2(Bài 10: Quan niệm về đạo đức): Vai trò cuả đạo
đức trong sự phát triển của cá nhân, gia đình, xã hội, giáo viên có thể chia lớp
thành 6 nhóm với 3 nội dung:
8


Nhóm 1,3: Em có suy nghĩ gì về câu: “Tiên học lễ, hậu học văn”? Vai trò
của đạo đức đối với cá nhân?
Nhóm 2,4: Em hãy nêu một vài biểu hiện vi phạm đạo đức gia đình? Vai trò
của đạo đức đối với gia đình?
Nhóm 5,6: Trường em tổ chức hiến máu nhân đạo và vận động học sinh
tham gia. Em có suy nghĩ gì về việc này? Vai trò của đạo đức đối với xã hội?
Rút ra được các vai trò cơ bản của đạo đức đối với cá nhân, gia đình và xã
hội như sau:
* Đối với cá nhân
- Góp phần hoàn thiện nhân cách của con người.
- Có ý thức và năng lực sống thiện, sống có ích.
- Giáo dục lòng nhân ái, vị tha, bao dung cho con người…
* Đối với gia đình.
- Đạo đức là nền tảng của gia đình.
- Tạo sự ổn định và phát triển bền vững cho gia đình.
- Là nhân tố quan trong để xây dựng hạnh phúc gia đình.
* Đối với xã hội
- Xã hội sẽ phát triển bền vững nếu xã hội đó thực hiện đúng các quy tắc
chuẩn mực đạo đức của xã hội.
- Xã hội sẽ mất đi nếu đạo đức xuống cấp

Thông qua bài học, năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với chuẩn mực đạo đức được hình thành là: học sinh nhận thức được các giá trị
đạo đức, các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta, từ đó các em sẽ tham
gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh có thể chia
sẻ kinh nghiệm, hiểu biết của mình. Thông qua những hiểu biết, học sinh tự suy
nghĩ liên hệ thực tiễn để rút ra được vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình
và xã hội là gì? Học sinh tự trình bày suy nghĩ, hiểu biết của bản thân thông qua
các nội dung đó. Phát huy được năng lực tự học, hợp tác, biết tìm kiếm và xử lí
thông tin, học sinh tự tin hơn trong trình bày ý kiến của mình. Đặc biệt là, học biết
điều chỉnh các hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức khi các
em là thành viên của gia đình, của tập thể và của cả cộng đồng quốc gia, dân tộc .
Ví dụ 2: Khi dạy bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, mục 1b, phần: “biểu hiện lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam” giáo viên có
thể sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để giảng dạy nội dung này. Giáo viên
chia lớp thành 4 nhóm:

9


Nhóm 1:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”.
Qua những câu ca dao trên, người lao động muốn gửi gắm điều gì?
Nhóm 2:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Qua câu ca dao trên, ông cha ta muốn nói lên điều gì?
Nhóm 3:

Kể một số danh lam thắng cảnh, danh nhân văn hoá, những sản vật nổi tiếng
của quê hương mà em biết?Khi nhắc đến những điều đó, em có cảm xúc gì?

Nhóm 4:
Theo em, một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam tại sao lại có thể chiến
thắng những thế lực hùng mạnh như vậy?
Để phát triển nền văn hoá, xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay,
người lao động cần có những phẩm chất nào?
- HS sau 5 phút yêu cầu đại diện các nhóm lên trình bày nội dung đã thảo
luận
Các nhóm bổ sung, Gv nhận xét và rút ra kết luận ( 5 phút )
- HS rút ra được các biểu hiện cơ bản của truyền thống yêu
nước: + Tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước.
+ Tình thương yêu đối với đồng bào, dân tộc, giống
nòi. + Lòng tự hào dân tộc chính đáng.
+ Đoàn kết, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại
xâm. + Cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất.
Qua các nội dung thảo luận đó, năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi
cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức của học sinh được hình thành như: các em
nhận thức được về chủ quyền biển đảo của đất nước; về các sự kiện lịch sử; ý thức
được lòng tự tôn dân tộc, bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ quốc gia, đấu tranh, cảnh giác
trước những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; - đây chính là nhiệm vụ
thường xuyên và lâu dài của nhân dân ta nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.Qua quá trình đó, học sinh tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong thời kỳ mới.
1
0


- Phương pháp tình huống.

+ Phương pháp tình huống hay còn gọi là phương pháp nghiên cứu trường
hợp điển hình, trong đó học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải
quyết vấn đề của tình huống đặt ra. Tình huống là một vấn đề thực tế, trong đó
chứa đụng những mâu thuẫn. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân
nhắc phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh
gắn với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật có chứa đựng xung đột, có tính phức
hợp được viết ra để chứng minh một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực
tế. Với phương pháp giải quyết tình huống học sinh phải tự suy nghĩ điều gì sẽ xảy
ra hay mình sẽ làm gì nếu là nhân vật trong tình huống đó, đưa ra cách giải quyết
vấn đề . Học sinh phải huy động kiến thức để giải quyết tình huống, phát huy được
năng lực tự học, năng lực tư duy, tìm kiếm và xử lí thông tin, năng lực sáng
tạo...Phương pháp này bộ môn GDCD thường hay sử dụng trong giảng dạy để phát
huy tính sáng tạo và biết liên hệ thực tiễn của học sinh.
Ví dụ 1: Khi giảng dạy Mục 2: Trách nhiệm xây dựng Tổ quốc, bài 14:
Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giáo viên có thể sử dụng các
tình huống sau:
Tình huống 1: Sau khi tan buổi học T nói với H : chúng ta phải về nhanh để
tập văn nghệ chào mừng quốc khánh 2/9 với mọi người trong xóm, vì hôm nay là
thứ 7 theo kế hoạch của xóm là tập trung diễn lại các tiết mục văn nghệ.
- H nói: Thôi việc này liên quan gì đến bọn mình ! Đó là việc của người
lớn !
Câu hỏi
1. Em có đồng ý với ý kiến của H không ? Vì sao ?
2. Em sẽ giải thích như thế nào để bạn H hiểu được trách nhiệm của mình
và mọi người đối với việc tham gia các hoạt động của địa phương?
Tình huống 2: Trên đường đi học, A và B phát hiện một thanh niên đang rải
truyền đơn nói xấu chế độ và Nhà nước. Thấy vậy, A định chạy lại ngăn cản thì B
kéo A đi và nói :
- Thôi việc này liên quan gì đến bọn mình ! Đi đi kẻo muộn
học ! Câu hỏi:

1. Em có đồng ý với ý kiến và việc làm của B không ? Vì sao ?
2. Nếu là B, em sẽ ứng xử như thế nào ? Vì sao em lại ứng xử như vậy ?
Để giải quyết tình huống trên, học sinh có thể trao đổi thảo luận theo nhóm
và đưa ra cách giải quyết tình huống và các giải pháp tình huống đưa ra.
Với các tình huống này học sinh phải huy động kiến thức hay cách giải
quyết của cả nhóm và lựa ra phương án giải quyết tốt nhất. Thông qua đó hình
11


thành cho các em năng lực hợp tác, tìm kiếm và xử lí thông tin, biết liên hệ thực
tiễn, tham gia tích cực các hoạt động văn hóa tại địa phương. Từ đó nêu và hiểu
được trách nhiệm của học sinh trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống yêu
nước của dân tộc, góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, giúp các em
có các hành vi phù hợp..
Thông qua giải quyết tình huống, năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành
vi được hình thành: Các em nhận thức được các giá trị đạo đức, truyền thống văn
hóa, các quy định của pháp luật và nhận ra được các yếu tố tác động đến bản thân
mình trong quá trình học tập. Ngoài ra, giúp các em nhận thức được các yếu tố tác
động đến bản thân, có cách ứng xử phù hợp với các tình huống trong thực tế. Mặt
khác, thông qua cách giải quyết tình huống, học sinh tự đánh giá và điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, đặc biệt là trong
vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 10: Quan niệm về đạo đức, Phần đạo đức là gì, giáo
viên có thể sử dụng tình huống sau để cho các em học sinh thảo luận:
Đang trên đường đi học về, K gặp một bà cụ đã già đang muốn đi qua ngã
tư, nhưng có rất nhiều xe cộ đi lại và tại đó lại chưa có biển hiệu đèn xanh đèn đỏ.
Câu hỏi:
1. Nếu là K, trong trường hợp trên, em sẽ làm gì?
2. Thế nào là hành vi đạo đức? Đạo đức là gì?
Học sinh sẽ lựa chọn cách giải quyết khác nhau. Tuy nhiên, thông qua tình

huống đó, học sinh sẽ biết mình nên tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Khi cá nhân biết tự điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với lợi ích chung của xã hội, của người khác được coi là người
có đạo đức. Đó chính là năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi đạo đức đã
được hình thành.
- Phương pháp giải quyết vấn đề :
+ Phương pháp giải quyết vấn đề: học sinh vạch ra những cách giải quyết
vấn đề, tình huống cụ thể gặp phải trong đời sống hàng ngày thông qua đó phát
triển tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Ví dụ 1:
Khi giảng dạy bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại,
mục 1b: Trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ môi trường, giáo viên có thể
đưa ra vấn đề sau:
Hiện nay việc sản xuất nông nghiệp của các xã vùng Tây Nghi Lộc, đặc biệt
là trên các cánh đồng lúa người nông dân sau khi phun thuốc trừ sâu đã vứt vỏ,
chai lọ thuốc trên các bờ kênh mương rất nhiều gây ô nhiễm môi trường .
1
2


Hỏi: 1 Là một đoàn viên thanh niên chúng ta cần có các chương trình giải
pháp như thế nào để giải quyết tình trạng trên để không gây ô nhiễm môi trường?
2.Công dân có trách nhiệm như thế nào trong việc bảo vệ môi trường?
Để giải quyết vấn đề trên học sinh phải xem xét, phân tích những vấn đề
đang tồn tại và xác định các bước nhằm cải thiện tình hình như:
+ Thực tế chai lọ túi đựng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trên các cánh
đồng rất nhiều và đây là loại rác độc hại rất khó phận hủy, gây ô nhiễm môi trường.
+ Đưa ra các cách giải quyết như: tuyên truyền cho người dân không nên vứt
vỏ thuốc trừ sâu bừa bãi, mỗi cánh đồng cần xây các thùng đựng rác để bỏ các vỏ
thuốc trù sâu và xử lí hàng tuần, kiên quyết xử phạt nghiêm minh đối với các

trường hợp cố tình vi phạm....
Năng lực tự nhận thức và điều chình hành vi được hình thành: nhận thức
được các truyền thống, các giá trị đạo đức của nhân dân ta và các quy định của
pháp luật về vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường. Thông qua đó, giúp các em
có cách ứng xử phù hợp với các quy định đó và có thể tự tin giải quyết các tình
huống trong thực tế, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
tại nơi mình sinh sống và học tập.

Các em học sinh tham gia tổng dọn vệ sinh tại xã Nghi Kiều 3/2019
Ví dụ 2:
Khi giảng dạy mục 2: Hôn nhân, bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và
gia đình, giáo viên có thể nêu lên vấn đề sau:
Anh A và chị B tự ý chung sống với nhau. Sau một thời gian, giữa họ có một
đứa con, một căn nhà và một số tài sản khác.
Hỏi: Quan hệ giữa họ về mặt pháp lý có được coi là vợ chồng không? Tại sao?
1
3


Đối với vấn đề này, học sinh có thể dựa vào các quy định của pháp luật để
nhận xét, đánh giá. Tại điều 11, Khoản 1 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định:
“Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không
được pháp luật công nhận là vợ chồng”. Trong trường hợp trên, anh A và chị B
không được gọi là vợ chồng, Việc hai người ấy chung sống với nhau là trái với quy
định của pháp luật.
Năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực
đạo đức xã hội được hình thành: Học sinh tự nhận thức được các giá trị đạo đức,
các truyền thống văn hóa tốt đẹp của gia đình Việt Nam xưa và nay. Đồng thời,
cũng thông qua tình huống đó, học sinh nắm được các quy định của pháp luật về
Hôn nhân và gia đình ở nước ta. Từ đó, bản thân mỗi em sẽ biết được mình nên

làm gì và không nên làm gì cho phù hợp với những quy định của pháp luật và đạo
đức trong hôn nhân và gia đình.
Ví dụ 3: Khi giảng bài 13: Công dân với cộng đồng, phần Nhân nghĩa, giáo
viên có thể kể hoặc trình chiếu câu chuyện về tình bạn đẹp đẽ và trong sáng giữa
Vi Văn Khanh và Vi Nhật Cảnh ( cậu bé ở Quỳ Châu – Nghệ An, 5 năm liền cõng
bạn đến trường).
Câu hỏi:
Em có suy nghĩ gì về câu chuyện cậu bé Vi Văn Khanh(Quỳ Châu, Nghệ An)
5 năm liền cõng người bạn tật nguyền Vi Nhật Cảnh đến trường mặc cho trời nắng
hay mưa. Khanh tình nguyện là đôi chân thực hiện ước mơ đến trường của Cảnh.
Học sinh nghe (quan sát) câu chuyện đó, sau đó từng em có thể cảm nhận riêng
biệt nhưng về cơ bản các em thấy được tình bạn trong sáng, đẹp đẽ giữa hai người
bạn, cao hơn đó là tình người với nhau khi trong cuộc sống này các giá trị đạo
đức đã dần phai nhạt.
Qua câu chuyện đó, năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi được hình
thành:Học sinh nhận thức các giá trị đạo đức, truyền thống nhân nghĩa và sự yêu
thương, sẻ chia giữa con người với nhau trong cuộc sống. Và một điều chắc chắn
rằng, hình ảnh một cậu bé với thân hình nhỏ nhắn, tự nguyện làm đôi chân cho
bạn sẽ tác động rất lớn đến suy nghĩ và hành động của các em học sinh, giúp các
em hiểu và suy nghĩ được về những giá trị trong cuộc sống. Từ đó, các em sẽ tự tin
giải quyết các tình huống thực tiễn và tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp
với chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là một phương pháp mà trong quá trình dạy học
chúng tôi thường sử dụng để tạo sự hứng thú của học sinh. Đây là phương pháp
giúp học sinh rèn luyện được tính tự tin, năng lực ngôn ngữ của bản thân.
Thông qua phương pháp này sẽ giúp các em học sinh nhận thấy được mình
có những điểm mạnh và điểm yếu nào, từ đó sẽ điều chỉnh hợp lý hơn. Phương
1
4



pháp mà trong quá trình dạy học chúng tôi thường sử dụng để tạo sự hứng thú của
học sinh hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộ lộ cảm xúc. Đây là phương
pháp giúp học sinh rèn luyện được tính tự tin, năng lực ngôn ngữ của bản thân, rèn
luyện thực hành kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước
khi thực hành trong thực tiễn. Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh
theo hướng tích cực.
Ví dụ 1: Khi giảng Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân
loại, phần “Ô nhiễm môi trường và trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ
môi trường”, giáo viên có thể sử dụng phương pháp đóng vai:
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm và nêu chủ đề thời gian để các nhóm
chuẩn bị 1 tuần và thời gian để nhóm đóng vai tình huống đó trên lớp là 5 phút
( thời gian chuẩn bị bài ở nhà và các nhóm tự sắp xếp lập kế hoạch để đóng vai cho
tình huống):
+ Nhóm 1: ( Tình trạng vứt rác bừa bãi)
+ Nhóm 2: ( Nạn săn bắt động vật quý hiếm)
Học sinh trình bày suy nghĩ cảm nhận và ứng xử theo một vai giả định, giúp
học suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề từ chỗ đứng góc nhìn của người trong cuộc, tập
trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình.
Năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực
đạo đức được hình thành, đó là: Các em học sinh sẽ tự nhận thức được các hành
vi như thế nào thì sẽ đe dọa đến tài nguyên, môi trường và kể cả đe dọa con người.
Vậy nên, thông qua các vai diễn các em sẽ làm toát lên được vai trò, trách nhiệm
của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ sự sống
của cả loài người. Đồng thời, các em sẽ tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của
mình một cách phù hợp.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình,
phần: “chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay”, giáo viên có thể sử dụng phương pháp
đống vai.

Giáo viên chia lớp thành hai nhóm, giao chủ đề cho mỗi nhóm, các nhón
chuẩn bị trong vòng 1 tuần và sau đó, thời gian diễn trên lớp là 7 phút.( thời gian
chuẩn bị ở nhà thì các nhóm tự sắp xếp và bố trí cho phù hợp)
+ Nhóm 1: Nạn tảo hôn.
+ Nhóm 2: Nạn bạo lực gia đình.
Học sinh sắp xếp nội dung và các vai diễn, sau đó trình bày cảm nhận và
ứng xử theo một vai giả định. Từ đó, giúp các em suy nghĩ sâu sắc hơn về một vấn
đề của xã hội dưới góc nhìn trong của người trong cuộc, các em tập trung vào giải
quyết, ứng xử phù hợp.
Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi đạo đức cho phù hợp với
chuẩn mực đạo đức được hình thành: Học sinh nhận thức được các giá trị của đạo
1
5


đức gia đình, các truyền thống tốt đẹp của hôn nhân, gia đình Việt Nam xưa và
nay. Từ đó, các em sẽ tự thấy được những giá trị nào còn phù hợp và những hủ tục
nào cần loại bỏ trong việc xây dựng hôn nhân và gia đình. Thông qua đó, các em
học sinh sẽ tự nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc đồng gia
đình, giúp các em điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp. Đồng thời, vấn
đề tuyên truyền bình đẳng giới, hay hôn nhân đúng pháp luật sẽ được các em ý
thức hơn ngay cả trong gia đình mình.
- Phương pháp dạy học theo dự án
+ Phương pháp dự án được hiểu là một phương pháp trong đó người học
thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp giữa lí luận và thực
hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả. Phương pháp này kích
thích động cơ, hứng thú học tập của học sinh, phát huy tính tự lực, tinh thần trách
nhiệm, phát triển khả năng sáng tạo, rèn luyện tính bền bỉ kiên nhẫn, kĩ năng hợp
tác, năng lực nhận thức, điều chỉnh hành vi, năng lực đánh giá.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân

loại, giáo viên có thể sử dụng phương pháp này.
Đây là phương pháp mà người học thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, gắn
với thực tiễn, kết hợp giữa lí thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện
và đánh giá kết quả. Với nội dung tìm hiểu các vấn đề về môi trường, dân số, dịch
bệnh tại địa phương, giáo viên chia học sinh thành 3 nhóm, hình thức làm việc
ngoài giờ học trên lớp, thời gian 1 tuần, sản phẩm có thể là một bài thu hoạch hoặc
là video, tranh ảnh:
+ Nhóm 1: Tình trạng ô nhiễm môi trường và trách nhiệm của công dân.
+ Nhóm 2: Vấn đề dân số tại địa phương em hiện nay.
+ Nhóm 3: Vấn đề phòng chống dịch bệnh ở địa phương em hiện nay như
thế nào?
Với nội dung đó, học sinh sẽ xây dựng đề cương, kế hoạch, phân công
nhiệm vụ trong quá trình thực hiện dự án, cả nhóm cùng nhau tìm hiểu, thu thập
kết quả, công bố sản phẩm.

1
6


Học sinhh trình bày sản phẩm của mình sau khi đã hoàn thành dự án
Ví dụ 2: Khi giảng dạy bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, giáo viên có thể sử dụng phương pháp dự án.
Đây là phương pháp người học thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, gắn với
thực tiễn, kết hợp giữa lí thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và
đánh giá kết quả. Với nội dung tìm hiểu quá trình xây dựng quê hương, làng xóm
của mình, giáo viên chia học sinh thành 4 nhóm, hình thức làm việc ngoài giờ học
trên lớp, thời gian 1 tuần, sản phẩm có thể là một bài thu hoạch hoặc là video, tranh
ảnh:
Nhóm 1,2. Công ty gạch ngói Tuynen Hoàng Nguyên
Nhóm 3,4. Trại bò xóm 5 Xã Nghi Lâm

Sau khi vận dụng phương pháp này sẽ phát huy được tính tự lực tinh thần trách
nhiệm, phát triển khả năng sáng tạo, rèn luyện tính kiên trì, bền bỉ, kĩ năng hợp tác
năng lực đánh giá. Đặc biệt, thông qua quá trình tìm hiểu, học sinh sẽ tự nhận thức
và điều chỉnh hành vi phù hợp hơn.

1
7


Tham quan thực tế tại Nhà máy gạch vàTrại bò ở xã Nghi Lâm, Huyện Nghi
Lộc, Nghệ An
Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực
đạo đức được hình thành: Học sinh sẽ nhận thức được giá trị của lao động, chỉ có
lao động mới giúp con người có cuộc sống ấm no, giúp xã hội giàu mạnh. Truyền
thống hăng say lao động là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt nam nói
chung và của quê hương Nghi Lộc nói riêng. Chính điều này sẽ giúp cho các em tự
điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của mình khi bản thân là lực lượng lao động trong
tương lai. Giúp các em hiểu được rằng, chỉ có lao động mới giúp thay đổi cuộc
sống mình, quê hương làng xóm mình, từ đó các em sẽ sống tích cực hơn.
3.2.2. Phát triển năng lực tự nhận thức , tự điều chỉnh hành vi phù hợp
với chuẩn mực đạo đức thông qua hoạt động trải nghiệm, sáng tạo
Trong quá trình giảng dạy, vai trò của người thầy không chỉ dừng lại ở việc
dạy học sinh những kiến thức trên lớp, điều quan trọng là làm sao để các em vận
dụng những kiến thức ấy vào giải quyết vấn đề thực tiễn. Chính vì thế, việc lựa
chọn các hình thức tổ chức dạy học phù hợp sẽ mang lại kết quả học tập tích cực
cho học sinh, rèn luyện cho các em các kỹ năng cơ bản trong cuộc sống.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực
tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng
như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực

thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học.
3.2.2.1. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục
phổ thông mới của Việt Nam
1
8


Hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) là những hoạt động có chủ đích, có kế
hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua những
cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục.
+ Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành của Việt Nam, kế hoạch
giáo dục bao gồm các môn học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Khái niệm
hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) dùng để chỉ các hoạt động giáo dục được tổ
chức ngoài giờ dạy học các môn học và được sử dụng cùng với khái niệm hoạt
động dạy học các môn học. Như vậy, hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao
gồm hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp).
Các hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) gồm:
- Hoạt động tập thể (sinh hoạt lớp, sinh hoạt trường, sinh hoạt Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh, sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh).
- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tổ chức theo các chủ đề giáo
dục.
- Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (cấp Trung học cơ sở và cấp Trung học
phổ thông) giúp học sinh tìm hiểu để định hướng tiếp tục học tập và định hướng
nghề nghiệp.
- Hoạt động giáo dục nghề phổ thông (cấp Trung học phổ thông) giúp học
sinh hiểu được một số kiến thức cơ bản về công cụ, kĩ thuật, quy trình công nghệ,
an toàn lao động, vệ sinh môi trường đối với một số nghề phổ thông đã học; hình

thành và phát triển kĩ năng vận dụng những kiến thức vào thực tiễn; có một số kĩ
năng sử dụng công cụ, thực hành kĩ thuật theo quy trình công nghệ để lảm ra sản
phẩm đơn giản.
+ Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, kế hoạch giáo dục bao gồm
các môn học, chuyên đề học tập (gọi chung là môn học) và hoạt động trải nghiệm
sáng tạo; hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt
động trải nghiệm sáng tạo.
3.2.2.2. Nguyên tắc xây dựng thành công bài học trải nghiệm sáng tạo
- Gắn với các tình huống từ thực tiễn đời sống
Học tập trải nghiệm sáng tạo mang ý nghĩa rộng là các tình huống hay bối
cảnh có ý nghĩa vận dụng kiến thức vào giải quyết và nó mang ý nghĩa một hoạt
động xã hội.
Học tập trải nghiệm gắn với các tình huống từ thực tiễn cuộc sống đòi hỏi
học sinh phải hòa mình vào thực tiễn để giải quyết vấn đề đó. Hơn nữa các nội
dung học tập trải nghiệm phải mang tính xã hội có nghĩa là nói tới quy mô rộng lớn
của học tập trải nghiệm hướng tới.
1
9


Với mục tiêu đào tạo ra những con người mới, thế hệ mới làm chủ nhân
tương lai đất nước thì việc đưa học sinh gần hơn tới thực tế cuộc sống, xã hội sẽ
làm nâng cao vốn hiểu biết từ đó có được kĩ năng sống và vốn kiến thức cần thiết.
- Gắn với những vấn đề cần giải quyết ở địa phương
Cần đảm bảo chủ đề học tập trải nghiệm phải gắn với những vấn đề cần giải
quyết ở địa phương nơi tập thể sinh sống và học tập, hoặc những điểm nổi bật.
Như các lĩnh vực: Ngành nghề sản xuất cơ bản đang tồn tại trong xã hội, lĩnh vực
phục vụ cộng đồng, lĩnh vực khoa học – công nghệ, lĩnh vực thủ công nghiệp, gia
đình…
Căn cứ vào đó, giáo viên có thể xây dựng các chương trình học tập trải

nghiệm như là: công nghiệp, nông nghiệp, nghề thủ công, công nghiệp – lâm
nghiệp – ngư nghiệp, khoa học công nghệ- giáo dục – y tế, văn hóa nghệ thuật – du
lịch , kinh tế, giao thông vận tải..
- Chủ đề trải nghiệm không không ngoài “tầm với” kiến thức của học sinh
không nên xây dựng các chủ đề trải nghiệm vượt quá xa nội dung kiến thức của
học sinh. Nội dung kiến thức phải trong khuôn khổ kiến thức học sinh đã được
học, những
kiến thức liên quan có thể tham khảo và kiến thức trong chương trình SGK.
Như thế mới tạo cho học sinh được lòng tin với chính bản thân mình trong
việc giải quyết vấn đề, từ đó năng lực người học sẽ dần được nâng cao.
- Giáo viên chỉ là người hỗ trợ, hướng dẫn
Trong các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, giáo viên chỉ là người hỗ trợ,
hướng dẫn, nâng đỡ học sinh còn sự tham gia hoạt động, giải quyết vấn đề và nâng
cao kĩ năng sống lại đòi hỏi ở người học. Giáo viên khi này đóng vai trò là một cố
vấn, dàn xếp nhắc nhở và giúp học sinh phát triển, đánh giá một cách hiểu biết về
việc học của mình.
Cả giáo viên và học sinh không chỉ xem kiến thức là một thứ để nhớ mà còn
xem việc khám phá kiến thức là một niềm vui trong quá trình học tập. Đặc biệt với
học sinh thì việc khám phá kiến thức thông qua việc học trải nghiệm giống như mở
một hộp quà mà chính học sinh là người tự tìm ra nó.
3.2.2.3. Kinh nghiệm sử dụng các hình thức tổ chức hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông
HĐTNST được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu
lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội
thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động
cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa
rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,...), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,... Mỗi hình
thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là một số
2
0



hình thức tổ chức của HĐTNST trong nhà trường phổ thông mà chúng tôi đã thực
hiện:
* Hoạt động câu lạc bộ (CLB)
Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng
sở thích, nhu cầu, năng khiếu,... dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm
tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học
sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của CLB tạo cơ hội để
học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các
em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết
bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và
giải quyết vấn đề,... CLB là nơi để học sinh được thực hành các quyền trẻ em của
mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ
biến thông tin,... Thông qua hoạt động của các CLB, nhà giáo dục hiểu và quan
tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em. CLB hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể
được tổ chức với nhiều lĩnh vực khác nhau như: CLB học thuật; CLB thể dục thể
thao; CLB văn hóa nghệ thuật; CLB võ thuật; CLB hoạt động thực tế; CLB trò
chơi dân gian...
Ví dụ: Để rèn luyện sức khỏe, chống lại các dịch bệnh, các em học sinh
trường THPT Nghi lộc 5 đã lập nên Câu lạc bộ Võ thuật do em Nguyễn Quốc Đạt
lớp 12 A5 đứng đầu.

2
1



Một tiết mục biểu diễn võ thuật nhân ngày 20/11/2018
Chính hoạt động này đã giúp các em nhận thức được vai trò của việc rèn
luyện sức khỏe, vai trò của cá nhân trong cộng đồng. Từ đó, các em sẽ điều chỉnh
hành vi của mình một cách phù hợp.
* Tổ chức diễn đàn
Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự
tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của
mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn
khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu
quả giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý
kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó có liên
quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là dịp để các em
biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một sân chơi tạo điều
kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực tiếp với đông đảo
bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức rất linh hoạt, phong
phú và đa dạng với những hình thức hoạt động cụ thể, phù hợp với từng lứa tuổi
học sinh.
Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo cơ hội, môi trường cho học
sinh được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các em khẳng định
vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng
định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để
khẳng định mình. Qua các diễn đàn, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và những người
22


lớn có liên quan nắm bắt được những băn khoăn, lo lắng và mong đợi của các em
về bạn bè, thầy cô, nhà trường và gia đình,... tăng cường cơ hội giao lưu giữa
người lớn và trẻ em, giữa trẻ em với trẻ em và thúc đẩy quyền trẻ em trong trường
học. Giúp học sinh thực hành quyền được bày tỏ ý kiến, quyền được lắng nghe và
quyền được tham gia, và phát triển năng lực tự nhận thức, tự điều chinhhr hành vi

cho phù hợp với đạo đức.
Ví dụ: Để viết về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, nhân ngày 20/11,
giáo viên có thể phát động học sinh viết lời tri ân. Thông qua diễn đàn này học sinh
tự nhận thức được các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc như truyền
thống “uống nước nhớ nguồn”, truyền thống “tôn sư trọng đạo”, từ đó giúp các em
hành xử đúng với các chuẩn mực đạo đức.

Tình cảm học sinh giành tặng giáo viên nhân ngày 20/11
* Tổ chức các buổi ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa đóng một vai trò quan trọng trong việc bổ trợ kiến
thức, bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm sống cho học sinh, giúp học sinh trở
thành những con người toàn diện.
Hoạt động ngoại khóa là những hoạt động được thực hiện ngoài giờ học, tuỳ
thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi học sinh trong khuôn khổ khả
năng và điều kiện tổ chức có được của nhà trường.
Ví dụ: Để học sinh tự nhận thức vấn đề bảo vệ Tổ quốc, giáo viên và nhà
trường có thể tổ chức buổi ngoại khóa với chủ đề “Biển đảo quê hương”. Các em
học sinh được trải nghiệm trong thực tế, giúp các em hiểu thêm giá trị của vấn đề
bảo vệ biển đảo, từ đó các em sẽ ứng xử một cách phù hợp hơn, biết lên án, tố cáo
các hành vi đe dọa an ninh biển đảo, đồng thời sẽ tuyên truyền mọi người nâng cao
vai trò trách nhiệm trong việc bảo vệ quê hương làng xóm.
2
3


Ví dụ: Với chủ đề, “công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”, giáo
viên cũng có thể tổ chức buổi ngoại khóa nhằm giáo dục cho các em vấn đề cơ bản
của giới tính, sức khỏe, sinh sản vị thành niên. Chẳng hạn, trong đợt tháng
11/2018, Tổ Xã hội trường THPT Nghi Lộc 5, đã tổ chức ngoại khóa với chủ đề “
Sức khỏa, sinh sản vị thành niên”, bằng hình thức thi Rung chuông vàng.

Qua buổi đó, các em tự nhận thấy được các kiến thức cơ bản về giới tính,
tình yêu, hôn nhân. Từ đó, giúp các em điều chỉnh hành vi phù hợp, tránh được
những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra trong tình yêu và hôn nhân.

24


* Tham quan, dã ngoại
Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối
với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi
thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, công
trình, nhà máy... ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những
kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em.
Nội dung tham quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học sinh
như: giáo dục lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, giáo dục truyền thống
cách mạng, truyền thống lịch sử, truyền thống của Đảng, của Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực tham quan, dã ngoại có thể được tổ chức ở nhà
trường phổ thông là: Tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa;
Tham quan các công trình công cộng, nhà máy, xí nghiệp; Tham quan các cơ sở
sản xuất, làng nghề; Tham quan các Viện bảo tàng; Dã ngoại theo các chủ đề học
tập; Dã ngoại theo các hoạt động nhân đạo...
Ví dụ 1: Giáo dục lòng thương yêu con người, giáo viên và nhà trường có
thể tổ chức các cuộc tham quan tới các vùng xa xôi, khó khăn để tặng quà cho các
em học sinh nơi ấy. Thông qua các học động từ thiện như thế, các em học sinh lại
càng nhận thấy được các giá trị cao đẹp trong con người, giúp các em sống tốt hơn,
đẹp hơn và thiện hơn.
25



×