Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

SKKN đổi mới toàn diện mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.1 MB, 62 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Theo xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nền giáo dục Việt
Nam cũng đang trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện. Nếu như trước đây
giáo dục nước ta chú trọng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh và giúp người
học hình thành hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ thì ngày nay, điều đó vẫn cịn
đúng, cịn cần nhưng chưa đủ.
Thật vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
những tác động tích cực của nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và
tiến bộ của thông tin, truyền thông, giáo dục cần phải giúp người học hình thành
một hệ thống phẩm chất, năng lực đáp ứng được với yêu cầu mới. Hệ thống phẩm
chất, năng lực đó được cụ thể hóa phù hợp với sự phát triển tâm lý, sinh lý của
người học, phù hợp với đặc điểm môn học và cấp học, lớp học. Theo đó, những
phát triển của phẩm chất, năng lực người học trong quá trình giáo dục cũng sẽ là
q trình hình thành, phát triển, hồn thiện nhân cách con người.
Giáo dục học sinh nói chung và giáo dục đạo đức, hình thành và phát triển
năng lực, phẩm chất HS nói riêng là một q trình tác động có mục đích, có kế
hoạch đến HS nhằm hình thành và bồi dưỡng những nét tính cách của con người
mới phù hợp mục đích giáo dục. Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học phải biết chú
trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng”. Giáo
dục đạo đức học sinh là công việc vô cùng quan trọng, đặc biệt chú trọng phát triển
năng lực và phẩm chất học sinh (đức, tài) để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới
được quan tâm nhấn mạnh. Q trình này cần có sự vào cuộc hành động của cả
một hệ thống giáo dục ở tất cả các cấp, các ngành. Trong đó có vai trị to lớn của
đội ngũ giáo viên làm cơng tác chủ nhiệm lớp.
Nghị quyết 88 của Quốc hội về đổi mới chương trình, Sách giáo khoa Giáo
dục phổ thơng xác định mục tiêu đổi mới là: “Đổi mới toàn diện mục tiêu, nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá chất
lượng giáo dục theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh”.
Là một giáo viên đang công tác tại trường THPT Anh Sơn 2 với hơn mười
năm làm chủ nhiệm lớp, tơi nhận thấy cơng tác chủ nhiệm có vai trò rất lớn đến


chất lượng dạy và học của nhà trường, nhất là đối với nhiệm vụ giáo dục đạo đức,
hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực cho HS. Trong giai đoạn hiện nay,
công tác chủ nhiệm lớp càng đỏi hỏi sự dày công của người giáo viên bởi yêu cầu
ngày càng cao của xã hội. Hơn nữa, trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT Anh
Sơn 2 nói riêng và cả nước nói chung, GVCN mới chỉ chú trọng đến việc xử lý kỷ
luật học sinh, nhắc nhở, bảo ban học sinh và tập trung vào các thủ tục hành chính
mà chưa chú ý đến việc hình thành và phát huy phẩm chất, năng lực cụ thể cho học
4


sinh lớp mình chủ nhiệm. Đứng trước thực trạng đó, tơi thiết nghĩ cần phải có
những giải pháp cụ thể để giáo dục, hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực
HS thông qua công tác chủ nhiệm lớp nhằm góp phần giúp cho các em HS có nhận
thức và hành động đúng đắn hơn, phát triển toàn diện hơn.
Xuất phát từ những lí do trên, trong hai năm học vừa qua chúng tôi đã triển
khai thực hiện đề tài: Một số giải pháp đổi mới công tác chủ nhiệm nhằm góp phần
hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực “người học sinh mới” tại trường
THPT Anh Sơn 2, tỉnh Nghệ An và thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Qua đề tài, tơi
mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc đổi mới phương pháp, cách
thức, nội dung trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT Anh Sơn 2 nói riêng và
các trường THPT lân cận cũng như trong phạm vi tỉnh nhà nói chung. Xin được
trao đổi kinh nghiệm này với các bạn đồng nghiệp và rất mong nhận được sự góp ý
để đề tài được áp dụng rộng rãi, thu được hiệu quả cao hơn.
2. Phạm vi áp dụng
Bản thân tôi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu, tiến hành thể nghiệm về cơng
tác chủ nhiệm ở các lớp tại trường THPT Anh Sơn 2 và một số lớp ở các trường
THPT lân cận (Trường THPT Anh Sơn 1, THPT Anh Sơn 3). Trong đó tập trung
bắt đầu thể nghiệm ở lớp 11D năm học 2017 – 2018 và 12D năm học 2018 – 2019
mà bản thân tôi chủ nhiệm ở trường THPT Anh Sơn 2.
3. Phương pháp tiến hành

Sử dụng linh hoạt các phương pháp sau: Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu,
thơng tin; phương pháp khảo sát thực tế trước và sau khi tác động; phương pháp so
sánh trước và sau khi tác động; phương pháp thống kê, xử lí số liệu, tranh ảnh,…
4. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm:
- Cơ sở lí luận
- Thực trạng về vấn đề hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của
“người học sinh mới” thông qua công tác chủ nhiệm tại trường THPT Anh Sơn 2,
Nghệ An
- Một vài giải pháp nhằm đổi mới công tác chủ nhiệm góp phần hình thành và
phát triển phẩm chất, năng lực của “người học sinh mới” tại trường THPT Anh
Sơn 2, Nghệ An
- Kết quả đạt được

5


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Giáo viên chủ nhiệm
GVCN là nhà quản lí, nhà sư phạm đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt
những chủ trương, yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường đến với HS và tập
thể học sinh. Bằng phương pháp thuyết phục, sự gương mẫu, kinh nghiệm sư phạm
và uy tín của mình, GVCN giúp cho mỗi học sinh và tập thể lớp có trách nhiệm
tuân thủ và tự giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu này.
GVCN là linh hồn của lớp học, là người góp phần khơng nhỏ hình thành và
ni dưỡng nhân cách học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước. Nói như
PGS.TS Đặng Quốc Bảo - Học viện quản lý giáo dục thì: GVCN lớp là nhà quản
lý khơng có dấu đỏ. Ngày nay, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc về
giáo dục, có thể coi GVCN như một nhà quản lý với các vai trò: Người lãnh đạo

lớp học; người điều khiển lớp học; người làm công tác phát triển lớp học; người
làm công tác tổ chức lớp học; người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; người giúp
hiệu trưởng thực hiện việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của học sinh; người
có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp. Một người GVCN giỏi sẽ góp phần xây
dựng nên một tập thể lớp giỏi, nhiều tập thể lớp giỏi sẽ xây dựng nên một nhà
trường vững mạnh. GVCN là cầu nối giữa nhà trường - gia đình và xã hội. Nếu
thực hiện thành cơng cơng tác chủ nhiệm sẽ góp phần giáo dục học sinh sau này trở
thành thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và tài năng.
Trong cơng trình nghiên cứu Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT, tác
giả Nguyễn Thanh Bình [3, 6] chỉ ra GVCN ở trường THPT có các chức năng sau:
- GVCN là người quản lí, giáo dục tồn diện học sinh một lớp học
- GVCN là cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh
- GVCN là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường
- GVCN là người đánh giá khách quan kết quả rèn luyện của mỗi học sinh và
phong trào chung của lớp.
Để trở thành một GVCN chân chính thì người GV đó cần hội tụ đủ những
yếu tố sau: Có hiểu biết rộng về văn hóa chung, có tri thức sâu sắc; vững vàng về
mơn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm; có khả năng sáng tạo trong cơng tác giáo dục,
dạy học; có khả năng thu thập tích lũy tri thức để ngày càng nâng cao hoặc mở
rộng tầm hiểu biết của mình; có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy
sự hứng thú và động cơ học tập, rèn luyện đạo đức ở học sinh; GVCN cần tự trang
bị cho mình nhiều kĩ năng sư phạm như: giao tiếp sư phạm trước đám đơng, biểu lộ
và kiềm chế tình cảm, cảm xúc khi cần thiết, ứng xử các tình huống sư phạm linh
hoạt,… Và trên hết, GVCN phải thực sự là một tấm gương sáng cho HS noi theo.
6


Như vậy, GVCN là người đóng vai trị quan trọng trong việc giáo dục để hình
thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Để thực hiện tốt chức trách,

nhiệm vụ của mình, việc học hỏi và khơng ngừng trau bản thân là yếu tố tiên quyết
của một GVCN.
1.2. Giới thuyết về Năng lực
Phạm trù năng lực thường được hiểu theo những cách khác nhau và mỗi cách
hiểu có những thuật ngữ tương ứng: (1) Năng lực (Capacity/Ability) hiểu theo
nghĩa chung nhất là khả năng (hoặc tiềm năng) mà cá nhân thể hiện khi tham gia
một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định; (2) Năng lực (Compentence)
thường gọi là năng lực hành động: là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ/
một hành động cụ thể, liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu
biết, kỹ năng, kỹ xảo và sự sẵn sàng hành động.
Từ các cách hiểu trên, có nhiều định nghĩa khác nhau về Năng lực. Ví dụ:
Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành
công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002). Năng lực được xây
dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là các khả năng, hình
thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí (John
Erpenbeck 1998). Năng lực là các khả năng và kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân
hay có thể học được… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực
cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã
hội để có thể sử dụng một cách thành cơng và có trách nhiệm các giải pháp… trong
những tình huống thay đổi (Weinert, 2001).
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1992), năng lực được giải
thích với hai nghĩa: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có
để thực hiện một loạt hành động nào đó; Năng lực là: Phẩm chất tâm lý và sinh lý
tạo cho con người khả năng hồn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao [7, tr.656].
Năng lực của HS là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố,
đa tầng bậc, hàm chứa trong nó khơng chỉ là kiến thức, kỹ năng,... mà cả niềm tin,
giá trị, trách nhiệm xã hội... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong
môi trường học tập phổ thông và những điều kiện thực tế đang thay đổi của xã hội.
Năng lực của học sinh là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái

độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực
hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho
chính các em trong cuộc sống.
Từ định nghĩa này, có ba dấu hiệu quan trọng cần được giáo viên, phụ huynh
lưu ý:
- Năng lực của học sinh phổ thông không chỉ là khả năng tái hiện tri thức,
thông hiểu tri thức, kỹ năng học được..., mà quan trọng là khả năng hành động,
7


ứng dụng/vận dụng tri thức, kỹ năng học được để giải quyết những vấn đề của
cuộc sống đang đặt ra với chính các em.
- Năng lực của học sinh khơng chỉ là vốn kiến thức, kỹ năng, thái độ sống
phù hợp với lứa tuổi mà là sự kết hợp hài hòa của cả 3 yếu tố này thể hiện ở khả
năng hành động (thực hiện) hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động đạt
mục đích đề ra (gồm động cơ, ý chí, tự tin, trách nhiệm xã hội...).
- Năng lực của học sinh được hình thành, phát triển trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ học tập ở trong lớp học và ngoài lớp học. Nhà trường được coi là mơi
trường giáo dục chính thống giúp học sinh hình thành những năng lực chung, năng
lực chuyên biệt phù hợp với lứa tuổi, song đó khơng phải là nơi duy nhất. Những
mơi trường khác như: gia đình, cộng đồng,... cùng góp phần bổ sung và hồn thiện
các năng lực của các em.
Người ta chia ra thành hai loại năng lực:
Năng lực chung: là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và
làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển do
nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Vì thế có nước gọi là năng lực xun
chương trình. Mỗi năng lực chung cần: a) Góp phần tạo nên kết quả có giá trị cho
xã hội và cộng đồng; b) Giúp cho các cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của một
bối cảnh rộng lớn và phức tạp; c) Chúng có thể khơng quan trọng với các chuyên
gia, nhưng rất quan trọng với tất cả mọi người.

Năng lực chuyên biệt: là những năng lực được hình thành và phát triển trên
cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại
hình hoạt động, cơng việc hoặc tình huống, mơi trường đặc thù, cần thiết cho
những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động như
toán học, âm nhạc, mĩ thuật, thể thao... Đó là những năng lực chun mơn được
hình thành, phát triển chủ yếu thơng qua một số môn học, hoạt động giáo dục nhất
định, bao gồm: Năng lực ngơn ngữ, năng lực tính tốn, năng lực tìm hiểu tự nhiên
và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể
chất,…
1.3. Giới thuyết về Phẩm chất
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Phẩm chất là cái làm nên
giá trị của người hay vật [7, 760]. Hoặc: Phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành
vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị cuộc sống; ý thức pháp luật của con người
được hình thành sau một quá trình giáo dục.
1.4. Học sinh THPT
Học sinh THPT ở lứa tuổi khoảng từ 15-18 tuổi, đây là lứa tuổi có nhiều biến
đổi về tâm sinh lí. Độ tuổi này tâm lí, tình cảm của các em đa dạng, phong phú và
cũng rất phức tạp. Điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, vui
buồn chuyển hố dễ dàng, tình cảm cịn mang tính bồng bột. Nhiều khi do hoạt
8


động hệ thần kinh khơng cân bằng, thường thì q trình hưng phấn mạnh hơn quá
trình ức chế, đã khiến các em không tự kiềm chế được. Học sinh THPT bước vào
thời kỳ đầu của tuổi thanh niên về sinh học, cấu trúc não đã phát triển tương đối
hoàn thiện, các khả năng tư duy, phân tích, đánh giá, cảm giác, tri giác,... cũng dần
phát triển. Ở lứa tuổi này, các em thích khẳng định cái tơi bản ngã, muốn được đối
xử như người lớn, được thoát ra khỏi sự ràng buộc của cha mẹ, thích được độc lập
suy nghĩ và hành động. Bên cạnh đó, nhiều em cũng có biểu hiện lệch lạc về nhân
cách, sống ích kỉ, thiếu đạo đức, bắt chước, đua đòi, sống bất cần,...

Việc nắm bắt đầy đủ cả về yếu tố bên trong và yếu tố khách quan là rất cần
thiết, điều đó giúp GVCN lựa chọn được giải pháp phù hợp cho việc hình thành và
phát triển phẩm chất, năng lực của HS.
1.5. Chân dung “người học sinh mới”
Đây là một khái niệm mới ra đời trong thời gian gần đây cùng với q trình
xây dựng dự thảo và hồn thiện, cơng bố chính thức Chương trình giáo dục phổ
thơng tổng thể về đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thơng. Theo
đó, chân dung “người học sinh mới” sẽ hội tụ đầy đủ “5 phẩm chất và 10 năng lực”
do chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể nêu ra (chính thức thơng qua ngày
28/7/2018).
5 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học sinh là: Yêu nước;
Nhân ái (Yêu quý mọi người, tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người ); Chăm chỉ
(Ham học, chăm làm ); Trung thực; Trách nhiệm (Có trách nhiệm với bản thân; Có
trách nhiệm với gia đình; Có trách nhiệm với nhà trường và xã hội; Có trách nhiệm
với mơi trường sống).
Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
góp phần hình thành, phát triển:
Năng lực tự chủ và tự học: Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu
chính đáng; Tự kiểm sốt tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Tự định hướng; Tự
học, tự hoàn thiện.
Năng lực giao tiếp và hợp tác: Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và
thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội, điều chỉnh và hóa giải
các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác; Xác định trách nhiệm
và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác; Tổ
chức và thuyết phục người khác; Đánh giá hoạt động hợp tác; Hội nhập quốc tế.
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện và
làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải pháp;
Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; Tư duy độc lập.
Những năng lực chun mơn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua
một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định. Đó là:

- Năng lực tính tốn: Hiểu biết kiến thức tốn học phổ thơng cơ bản; Biết
cách vận dụng các thao tác tư duy, suy luận, tính toán, ước lượng, sử dụng các
9


cơng cụ tính tốn và dụng cụ đo,…; đọc hiểu, diễn giải, phân tích, đánh giá tình
huống có ý nghĩa tốn học.
- Năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội: Hiểu biết kiến thức khoa học; Tìm
tịi và khám phá thế giới tự nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn, ứng xử với tự
nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Nắm được
những tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã hội; Hiểu và vận dụng
được những cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội;
Nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người; Vận dụng được những tri
thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống.
- Năng lực ngôn ngữ: là khả năng làm một việc gì đó bằng cách sử dụng
ngơn ngữ (sử dụng ngơn ngữ nói và viết, cũng như đọc những gì những khác viết
ra hoặc nghe những gì người khác sẽ nói).
- Năng lực Công nghệ: Thiết kế; Sử dụng; Giao tiếp; Đánh giá.
- Năng lực Tin học: Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ, các hệ
thống tự động hóa của cơng nghệ thơng tin và truyền thơng; Hiểu biết và ứng xử
phù hợp chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật trong xã hội thơng tin và nền
kinh tế tri thức; Nhận biết và giải quyết vấn đề trong môi trường xã hội và nền
kinh tế tri thức; Học tập, tự học với sự hỗ trợ của các hệ thống ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thơng; Giao tiếp, hịa nhập, hợp tác phù hợp với thời đại xã hội
thông tin và nền kinh tế tri thức.
- Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,
cái chân, cái thiện, cái cao cả); Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái hiện,
sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ.
- Năng lực thể chất: Sống thích ứng và hài hịa với mơi trường; Nhận biết và
có các kỹ năng vận động cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và hình thành các tố

chất thể lực cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và tham gia hoạt động thể dục thể
thao; Đánh giá hoạt động vận động.
Những năng lực này nhằm mục đích xây dựng “chân dung” mới của người
học: “Trên cơ sở đó, các em tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát
hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân. Các em được rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, phát huy tiềm năng và kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được để phát
triển” (GS.Nguyễn Minh Thuyết).
Mặc dù đây là khái niệm mới ra đời nhưng từ hai năm nay trong q trình
thực hiện đề tài, bản thân chúng tơi đã chú ý, quan tâm đến việc hình thành và phát
triển 5 phẩm chất và 10 năng lực như trên. Vì thế, một số giải pháp về cơng tác chủ
nhiệm được đề xuất ở phần sau chúng tơi trình bày về vấn đề hình thành và phát
triển phẩm chất, năng lực người học sinh chính là vấn đề liên quan đến hình thành
và phát triển phẩm chất, năng lực của một “người học sinh mới” mà gần đây chúng
ta nhắc đến. Nghĩa là ở đề tài này, chúng tôi dùng khái niệm “người học sinh mới”
để thay thế cho khái niệm 5 phẩm chất và 10 năng lực như đã trình bày ở trên.
10


2. Thực trạng về vấn đề hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của
“người học sinh mới” thông qua công tác chủ nhiệm tại trường THPT Anh
Sơn 2

2.1. Thực trạng chung về công tác chủ nhiệm ở các trường THPT
hiện nay
2.1.1. Ưu điểm
Cùng với những bước chuyển mình của xã hội hiện đại, của thời kỳ công
nghệ 4.0, lĩnh vực giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến dài. Đặc biệt, chúng
ta đã có những bước đi đúng đắn khi chú trọng việc dạy chữ song hành với việc
dạy người. Cùng với đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, phương
pháp kiểm tra đánh giá, ngành giáo dục cũng đã có nhiều đổi mới về cơng tác chủ

nhiệm lớp.
GVCN có trình đào tạo trên chuẩn, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình
với học sinh. Đội ngũ GVCN nhìn chung đã nhận thức được đúng đắn vai trị của
người thầy đối với q trình giáo dục, hình thành nhân cách của HS. Họ có khả
năng nắm bắt được mục tiêu, kiến thức giáo dục, dạy tốt lớp phụ trách, lập được kế
hoạch chủ nhiệm lớp. Ban Giám hiệu các trường THPT đã quan tâm đến công tác
chủ nhiệm lớp thông qua các việc: Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch chủ nhiệm,
duyệt và góp ý cho giáo viên về kế hoạch chủ nhiệm đều đặn, giao chất lượng giáo
dục học sinh cho giáo viên, định ra các tiêu chí thi đua cho các lớp và cho giáo
viên, khen thưởng cho giáo viên đạt thành tích lao động tiên tiến, lao động xuất
sắc, lớp tiên tiến, lớp xuất sắc, học sinh đạt các thành tích trong năm học. Đồng
thời nhà trường đã luôn chú ý kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong trường để tổ
chức cho các em tham gia các phong trào do các cấp, các ngành tổ chức cũng như
các hoạt động tập thể như quyên góp ủng hộ, làm kế hoạch nhỏ,... giúp HS dần
hình thành và phát triển nhiều phẩm chất, năng lực tích cực.
2.2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, một số hiện tượng tiêu cực diễn ra trong ngành giáo dục nước
nhà khiến chúng ta phải trăn trở, quan tâm nhiều hơn đối với công việc “trồng
người” nhất là trong việc giáo dục đạo đức học sinh, bồi dưỡng cho các em lý
tưởng, quan điểm sống đúng đắn. Có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan
từ phía gia đình, nhà trường và xã hội khiến cho đơi lúc uy tín người thầy bị sa sút,
các giá trị truyền thống "Tôn sư trọng đạo" bị nhìn nhận một cách méo mó, bị vật
chất hóa, thực dụng; có trường hợp người thầy khơng giữ được tư cách đáng kính
trọng trong quan hệ thầy trị. Đâu đó, cịn có những hiện tượng suy thối về đạo
đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, vô cảm, thờ ơ trước
những biến động tâm lý của HS… Điều đó đã có tác động trực tiếp đến việc hình
thành và phát triển nhân cách học sinh, đến an ninh trật tự xã hội. Nhiều vụ việc về
bạo lực học đường (đâm bạn, lột đồ bạn để đánh đập hay bắt bạn quỳ để dằn mặt,
…), xâm hại tình dục, suy đồi đạo đức, lối sống của HS,… diễn ra trong thời gian
gần đây ngày càng trầm trọng đã làm cho xã hội nhức nhối, chúng ta đau lòng và

thực sự lo lắng về vấn đề giáo dục đạo đức, phẩm chất và năng lực cho HS.
11


Có nhiều giải pháp đã được đề cập đến trong những sáng kiến trước đây liên
quan đến công tác chủ nhiệm bao gồm công tác chủ nhiệm HS lớp chọn, HS bình
thường và HS cá biệt. Tuy nhiên giải pháp để gắn liền với việc góp phần hình
thành và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh chưa được chú trọng, vẫn cịn tản
mạn, cảm tính và chưa mang tính xây dựng một cách hệ thống, tồn diện. Cơng tác
tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho các em HS, bản thân GVCN cịn hời hợt, cịn thờ ơ. Bên
cạnh đó, nhiều GVCN chưa chú trọng đổi mới cách thức chủ nhiệm một cách hiệu
quả, thiết thực. Vẫn cịn tình trạng GVCN lên lớp một cách miễn cưỡng, chủ yếu
tiến hành công tác chủ nhiệm theo lối cũ nhàm chán: chỉ giải quyết thủ tục hành
chính và xử lý kỷ luật học sinh. GVCN không truyền được động lực, hứng thú học
tập, rèn luyện cho các em.
Đứng trước thực trạng đó, tơi thiết nghĩ cần phải có những giải pháp để đổi
mới cơng tác chủ nhiệm lớp nhằm góp phần hình thành và phát triển phẩm chất,
năng lực cho học sinh THPT hiện nay một cách nghiêm túc, hệ thống toàn diện và
mang tính khả thi cao.
Trước những thực trạng chung của cơng tác chủ nhiệm và thấy được tính cấp
bách của nó, trong năm học 2016 – 2017, chúng tơi đã điều tra 50 giáo viên của ba
trường đó là THPT Anh Sơn 2, THPT Anh Sơn 1, THPT Anh Sơn 3 và 110 học
sinh ở ba trường trên địa bàn huyện Anh Sơn ( thuộc các lớp 10C4 ở trường THPT
Anh Sơn 3, 10 D1 ở trường THPT Anh Sơn 1 và lớp 10D ở trường THPT Anh Sơn
2) để biết được nhận thức của giáo viên và học sinh THPT về vai trị của cơng tác
chủ nhiệm lớp đối với việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học
sinh. Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra giáo viên và học sinh với nội dung
câu hỏi như sau:
Bảng 1. Câu hỏi dành cho giáo viên
Câu hỏi


Câu trả lời

Tần số

Tỉ lệ %

Câu 1: Theo thầy (cơ),
việc hình thành và phát
triển phẩm chất, năng lực
cho học sinh thơng qua
cơng tác chủ nhiệm có
quan trọng khơng?

Khơng quan trọng

3

6

Bình thường

11

22

Quan trọng

36


72

28

56

20

40

2

4

Câu 2: Thầy (cơ) đã
Chưa có giải pháp
tìm được giải pháp gì để
đổi mớ cơng tác chủ Đã tìm ra giải pháp nhưng
i
nhiệm lớp nhằm góp phần
chưa hiệu quả
hình thành và phát triển
phẩm chất, năng lực cho
Đã tìm ra giải pháp và
học sinh?
thực hiện có hiệu quả

12



Bảng 2. Câu hỏi dành cho học sinh
Theo em, công tác chủ nhiệm lớp có vai trị quan trọng trong việc góp phần
hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh khơng?
Câu trả lời

Tần số

Tỉ lệ %

Hồn tồn khơng có ý nghĩa

3

2,7 %

Khơng quan trọng

7

6,4%

Bình thường

30

27,3%

Quan trọng

50


45,5%

Rất quan trọng

20

18,1%

Tổng

110

100%

2.2. Thực trạng riêng về công tác chủ nhiệm tại trường THPT Anh Sơn 2,
Nghệ An hiện nay
2.2.1. Một vài nét về đặc điểm tình hình của trường THPT Anh Sơn
2 * Thuận lợi:
Trường THPT Anh Sơn 2 vốn là phân hiệu 2 của trường cấp ba Anh Sơn từ
năm học 1977-1978. Tháng 9 năm 1986, trường được chính thức thành lập. Với sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Ban giám hiệu và toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường qua
các thời kỳ, trường đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận… Ban giám hiệu là
một tập thể lãnh đạo nhất trí năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
kiểm tra đánh giá sâu sát, thực chất và luôn luôn chủ động điều chỉnh để kế hoạch
kịp thời sát với thực tế. Đội ngũ giáo viên ln đồn kết, nhiệt tình, có trách nhiệm,
u nghề, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm đáp ứng được yêu cầu đổi
mới giáo dục, có tinh thần chia sẻ và hợp tác với đồng nghiệp, có ý thức đổi mới
phương pháp giảng dạy và công tác chủ nhiệm lớp. HS chủ yếu là con em nơng
thơn, chịu khó, chăm chỉ, yêu lao động, sống giản dị và cơ bản có ý chí vươn lên

trong học tập và rèn luyện.
Trường có khn viên rộng với tổng diện tích trên 50.000 m 2, có hệ thống
tường rào được xây kiên cố, có khu hiệu bộ, các phịng học, phịng chức năng được
bố trí hợp lý, cảnh quan hài hịa, tạo mơi trường xanh, sạch, đẹp và thân thiện. Hiện
tại trường có 27 lớp với gần 1000 học sinh và 31 phòng học đủ tiêu chuẩn, đảm
bảo cho học một ca. Ngoài các phịng học văn hố, trường có đủ các phịng thực
hành thí nghiệm Vật lý, Hóa học, Sinh học – Cơng nghệ, sân bóng đá, bóng
chuyền, cầu lơng,... Năm học 2015 - 2016, trường được công nhận là trường chuẩn
quốc gia.
1
3


* Khó khăn:
Chất lượng học sinh đầu cấp cịn thấp, thái độ - ý thức - động cơ học tập và
rèn luyện của một bộ phận học sinh chưa cao. Gia đình HS cơ bản khó khăn, thiếu
thốn về điều kiện vật chất vì hồn cảnh gia đình các em đều là con nhà nơng, gia
đình hộ nghèo và cận nghèo. Một số giáo viên trẻ có nhiệt tình nhưng thiếu kinh
nghiệm trong giảng dạy và giáo dục, chủ nhiệm học sinh. Vẫn cịn một số GV có
sức ỳ lớn, ít chịu khó học hỏi, đổi mới, chưa bắt nhịp được với yêu cầu của thời
đại. Cơ sở vật chất, thiết bị chưa đảm bảo cho việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong giảng dạy, giáo dục học sinh. Vẫn cịn tình trạng học sinh học lực yếu, lưu
ban, bỏ học, nhiều HS chưa phát huy tốt khả năng tự học, tự rèn luyện phẩm chất
đạo đức, một số em cịn bị bạn bè lơi kéo và sa vào những cám dỗ của mạng xã
hội, vấn đề hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS chưa thực sự được
quan tâm, chú ý nhiều.
2.2.2. Những ưu điểm, hạn chế trong việc góp phần hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất của học sinh thông qua công tác chủ nhiệm tại
trường THPT Anh Sơn 2
Bên cạnh những mặt ưu điểm và hạn chế chung về công tác chủ nhiệm trong

việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh tại các trường
THPT hiện nay trên cả nước như đã trình bày ở trên, cơng tác này tại trường THPT
Anh Sơn 2, Nghệ An hiện nay có những ưu điểm, hạn chế sau:
2.2.2.1. Ưu điểm
Trong những năm qua, Ban giám hiệu nhà trường luôn chú trọng chỉ đạo
việc dạy chữ song hành với việc dạy người. Đội ngũ GVCN lớp nhiệt tình, tâm
huyết, đã chú trọng đến việc giáo dục đạo đức, lối sống, rèn luyện nhiều kỹ năng
quan trọng cho học sinh. Đặc biệt ln có sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, với
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để tổ chức cho HS trải nghiệm, hình thành
và phát triển một số phẩm chất, năng lực quan trọng.
2.2.2.2. Hạn chế
Phẩm chất và năng lực của HS được thể hiện qua: hoạt động cá nhân, hoạt
động tập thể, mối quan hệ với các thầy cơ giáo, cách xử lý các tình huống trong
cuộc sống,…Tuy nhiên, trong công tác chủ nhiệm lớp, GVCN chưa thực sự chú
trọng việc hình thành năng lực, phẩm chất cho HS một cách hệ thống, đồng bộ, cụ
thể và thiết thực. Kế hoạch chủ nhiệm còn chung chung. Phương pháp chủ nhiệm
chưa thực sự đổi mới, cách thức tiến hành công tác chủ nhiệm (điều hành tổ chức
lớp học, họp phụ huynh, sinh hoạt giờ chủ nhiệm, cách thức kết hợp với giáo viên
bộ môn, các tổ chuyên môn và các tổ chức trong nhà trường,…) chưa thực sự chặt
chẽ, hiệu quả. Đơi lúc cịn nặng nề tính hình thức và áp lực thành tích, chưa chú ý
đến sự khuyến khích, động viên, uốn nắn với những tiến bộ dù rất nhỏ của học sinh
trong lớp mình chủ nhiệm. Giờ sinh hoạt chỉ một mục đích là để chỉ trích, phê
bình, nhắc nhở HS vi phạm. Một số GV chỉ dựa vào sổ đầu bài, từ đó chăm chăm
1
4


truy tìm lý do, mạt sát, đe dọa HS. Đến giờ chủ nhiệm HS chỉ thấy lo sợ, chán
ghét, thậm chí cịn thấy ức chế, nặng nề.
Giáo viên nhận thức chưa tồn diện, đầy đủ về cơng tác chủ nhiệm. Khi

được phân cơng chủ nhiệm lớp thì cơng việc tìm hiểu nhân cách, tâm lý, hoàn cảnh
của học sinh ở một số GV còn xem nhẹ, qua loa chiếu lệ. Công tác phối hợp với
các lực lượng giáo dục trong và ngồi nhà trường thiếu đồng bộ, khơng chặt chẽ.
Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục toàn diện học sinh. Hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp, các tiết chủ nhiệm lớp, sinh hoạt tập thể chưa được chú
trọng đúng mức. Một số em còn lười học, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao. Một số
phụ huynh học sinh cịn mang tư tưởng "khốn trắng" cho nhà trường. Họ coi việc
giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, của các thầy các cô. Đa số phụ
huynh học sinh khơng có thời gian quản lý, kiểm tra đôn đốc nhắc nhở việc học
hành cho con em. Hơn nữa, việc chú trọng để hình thành và phát triển phẩm chất,
năng lực học sinh thông qua công tác chủ nhiệm còn hết sức hạn chế hoặc nếu chú
ý thì GVCN cịn đang thực hiện một cách cảm tính, mơ hồ, chưa có tính chiến
lược, hệ thống và bền vững.
Qua khảo sát 180 học sinh, trong đó 60 HS khối 10, 60 HS khối 11, 60 HS
khối 12 được lựa chọn ngẫu nhiên của trường THPT Anh Sơn 2 trong năm học
2016 - 2017:
Câu hỏi: Em có hứng thú với các hoạt động của lớp không?
Khối
Số câu trả lời
Chưa bao giờ

Thỉnh thoảng

Thường xuyên

Khối 10

13

38


9

Khối 11

10

44

6

Khối 12

18

35

7

Câu hỏi: Lớp em có nhiều hình thức tổ chức trong giờ chủ nhiệm lớp để
bản thân em được trải nghiệm không?
Khối
Số câu trả lời
Khơng

Ít
38

Nhiều


Khối 10

16

6

Khối 11

12

42

6

Khối 12

15

35

10

1
5


Riêng ở lớp 10D trong năm học 2016- 2017 mà bản thân tôi chủ nhiệm, tôi
cũng tiến hành khảo sát, với số lượng 34 HS thì thu được kết quả như sau:
Câu hỏi
Số câu trả lời

Câu 1

Chưa bao giờ

Câu 2

Thỉnh thoảng

Thường xun

4

27

3

Khơng

Ít

Nhiều

7

25

2

Đồng thời, bản thân tơi cũng tiến hành khảo sát thêm câu hỏi:
Theo em công tác chủ nhiệm lớp có vai trị quan trọng trong việc góp phần

hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh khơng?
Câu trả lời
Tần số
Tỉ lệ %
Hồn tồn khơng có ý nghĩa

1

2.9 %

Khơng quan trọng

3

8,8%

Bình thường

22

64,7%

Quan trọng

6

17,7%

Rất quan trọng


2

5,9%

Tổng

34

100%

Từ những khảo sát trên chúng tôi nhận thấy: Công tác chủ nhiệm lớp (ngay cả
với bản thân tôi trong năm học 2016 - 2017) vẫn chưa được đầu tư thời gian, công
sức và chưa chú trọng đổi mới nhiều về nội dung và cách thức sinh hoạt. Trong đó
vấn đề hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho HS vẫn chưa được quan
tâm thích đáng, sâu sắc và cụ thể đặc biệt là thông qua giờ chủ nhiệm lớp. GVCN
mới chỉ lên lớp để đảm bảo đúng số tiết, đúng thời lượng của kế hoạch nhà trường.
Các hoạt động tiến hành một cách miễn cưỡng, gượng ép theo nghĩa vụ mà chưa
khơi dậy được hứng thú cho HS và chưa tận dụng hết thời gian, tiềm năng vốn có
của cả GVCN lẫn HS để tạo được hiệu quả giáo dục cao nhất. Đặc biệt công tác tư
vấn, tâm lý HS để giải đáp, tư vấn những vấn đề tế nhị trong đời sống tinh thần của
các em như về tình bạn, tình yêu, sức khỏe sinh sản vị thành niên,… chưa được
quan tâm. Vấn đề bạo lực học đường, cách ứng xử văn hóa với mơi trường xung
quanh và trên mạng xã hội, vấn đề tự vệ, lên tiếng trước những hiện tượng xấu,…
hầu như bị bỏ qua hoặc có đề cập đến cũng chưa có chiều sâu và chưa có hiệu quả
rõ nét.
16


3. Một vài giải pháp nhằm đổi mới công tác chủ nhiệm góp phần hình thành
và phát triển phẩm chất, năng lực của “người học sinh mới” tại trường THPT

Anh Sơn 2, Nghệ An
3.1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp
- Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của học sinh
Phẩm chất và năng lực là hai thành phần chủ yếu cấu thành nhân cách con
người. Do vậy có thể xem quá trình hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với
q trình tích tụ, phát triển các yếu tố của phẩm chất và năng lực. Mặt khác, nhân
cách được xem là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực
(đức và tài). Do vậy, quá trình phát triển phẩm chất và năng lực phải có sự cân đối
và tương thích theo xu hướng đức và tài hài hịa nhau “tài đức vẹn tồn”. Đức và
tài không cân xứng nhau sẽ cho ra một nhân cách chưa hồn thiện.Trong q trình
giáo dục, dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học là một phương pháp
dạy học ưu thế hướng người học tiếp cận gần hơn tới sự phát triển nhân cách của
mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu rõ: Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là
thực thể xã hội, nhưng con người có cá tính riêng. Chính vì vậy, trong q trình lựa
chọn các giải pháp GD, chúng tơi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy
cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của HS, đảm bảo tính tự nhiên
trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân.
- Đảm bảo quan điểm giáo dục theo phương pháp sư phạm tương tác
Trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi HS khơng chỉ phải tự mình
chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng mà còn cần hội tụ đủ khả năng vươn lên thích
ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt
ra. HS có khả năng tư duy độc lập, có óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định,
hồi nghi và tự xây dựng cho mình phương pháp phấn đấu, rèn luyện phù hợp để
hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT
ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học
phổ thông và trường trung học phổ thơng có nhiều cấp học, đưa ra tiêu chuẩn về
hoạt động giáo dục HS cũng chỉ ra: Giáo dục kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận
thức, kỹ năng ra quyết định, suy xét và giải quyết vấn đề, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ
năng ứng phó, kiềm chế, kỹ năng hợp tác và kỹ năng làm việc theo nhóm cho HS;
Giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua giáo dục ý thức chấp hành

luật giao thơng, cách tự phịng, chống tai nạn giao thơng, đuối nước và các tai nạn
thương tích khác, thơng qua việc thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn
hóa, đồn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau; Giáo dục và tư vấn về sức khỏe, thể chất
và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình u, hơn nhân, gia đình phù hợp với tâm lý
lứa tuổi học sinh.
Từ quan điểm giáo dục trên, chúng tôi cũng tiến hành hình thành và phát
triển phẩm chất, năng lực của học sinh trên tinh thần tơn trọng quan điểm, cá tính
của học sinh. Giáo dục học sinh phải linh hoạt, tạo được sự tương tác, khơng giáo
dục một chiều, máy móc, rập khuôn.
1
7


- Đảm bảo mục tiêu cụ thể của cấp học THPT, đó là: Thực hiện chương trình
hợp lý nhằm đảm bảo cho HS có học vấn phổ thơng, cơ bản theo một chuẩn thống
nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy phẩm chất, năng lực của mỗi HS,
giúp HS có đầy đủ phẩm chất của một cơng dân có ích, những hiểu biết về kỹ
thuật, chú trọng hướng nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau
trung học phổ thông để HS chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp.
- Đảm bảo tính hoạt động thực tiễn GD tại trường THPT Anh Sơn 2
Các giải pháp được đề xuất cho việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng
lực HS được thực thi trong thực tiễn hoạt động trải nghiệm tiến hành ở trường
THPT Anh Sơn 2. Bởi thế, các giải pháp này phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của
nhà trường, giúp HS hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực tương ứng, có
khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của GD ở trường THPT đặt ra.
Các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh, đảm bảo tính hiện đại, thiết thực, hài hòa, phù hợp về nội dung, phương
pháp chủ nhiệm, tạo điều kiện để học sinh hình thành và phát huy nhiều phẩm chất,
năng lực quan trọng.
3.2.Một vài giải pháp cụ thể đã được áp dụng

GVCN trở thành người trung gian trao đổi thông tin giữa Nhà trường và gia
đình, thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội và truyền đạt những chủ trương của Nhà trường
đến với gia đình đồng thời thu nhận ý kiến, nguyện vọng của gia đình để báo cáo
lại lãnh đạo Nhà trường. Qua đó gắn kết được trách nhiệm giữa Nhà trường và gia
đình trong việc giáo dục HS. Khi chủ nhiệm lớp, người GVCN cần phải nắm vững
quyền hạn và trách nhiệm của mình theo Luật giáo dục; Điều lệ trường THCS,
trường THPT và trường THPT có nhiều cấp học. Đồng thời người GVCN cần phải
xác định được vai trò, vị thế của mình trong nhiệm vụ giáo dục HS lớp mình được
phân công làm chủ nhiệm lớp. Thực tế, hoạt động của GVCN hết sức phong phú,
phức tạp và ôm chứa nhiều hoạt động nhỏ thuộc nhiều lĩnh vực trong đó.
Cơng tác chủ nhiệm là tổng thể hàng loạt những công việc liên quan đến
khâu quản lý, tổ chức, điều hành, giám sát, kiểm tra, đưa ra kế hoạch hoạt động
cho một tập thể học sinh trong một lớp học nhất định. Quy trình giáo dục học sinh
là một quy trình mang tính tồn vẹn và thống nhất từ: Lập kế hoạch đến tổ chức
thực hiện; chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá kết quả; là sự kết hợp giữa các tổ chức, cá
nhân nhà trường – gia đình và xã hội. Tuy rằng mỗi tổ chức, cá nhân có vai trị,
chức năng khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen và bổ sung cho
nhau; thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo cơ sở, điều kiện cho các chức năng tiếp
theo. Thông thường, hoạt động của một GVCN bao gồm:
Một là, tìm hiểu, nắm vững hồn cảnh cụ thể của từng học sinh lớp mình chủ
nhiệm.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lớp gương mẫu, nhiệt tình, có tinh thần trách
nhiệm cao.

1
8


Ba là, phân chia tổ và phân công nhiệm vụ cho các em một cách cụ thể, hợp
lý, rõ ràng.

Bốn là, xây dựng bộ quy tắc ứng xử và nội quy lớp một cách đầy đủ, chi tiết,
phù hợp để giáo dục tính kỷ luật và cách ứng xử văn hóa cho HS.
Năm là, lên kế hoạch hoạt động cụ thể, hợp lý cho lớp chủ nhiệm theo cả năm
học, từng học kỳ, từng tháng và từng tuần.
Sáu là, phối hợp với giáo viên bộ môn thường xuyên uốn nắn, giúp đỡ, giáo
dục học sinh cả về kiến thức và đạo đức, lối sống.
Bảy là, tổ chức sinh hoạt lớp một cách quy củ, hiệu quả, có tính giáo dục cao.
Tám là, tổ chức họp phụ huynh theo định kỳ một cách chu đáo, có sự gắn kết
tích cực giữa gia đình – nhà trường – xã hội.
Chín là, điều hành, chỉ đạo, quản lý lớp ở mọi lúc mọi nơi một cách nhanh
gọn, hiệu quả, toàn diện.
Mười là, phối hợp với các tổ chức trong nhà trường (Đoàn thanh niên, Cơng
đồn, các tổ chun mơn) và ở địa phương để giám sát, giáo dục toàn diện cho HS.
Như vậy, trong cơng tác chủ nhiệm có rất nhiều cơng việc và nhiều hoạt
động quan trọng. Họ giống như một người tổng chỉ huy trên mặt trận giáo dục tại
lớp mình chủ nhiệm. Trên đây chỉ mới là sự liệt kê những cơng việc cơ bản, phổ
biến. Có nhiều giải pháp đã được đề cập đến trong những sáng kiến liên quan đến
công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên giải pháp để gắn liền với việc góp phần hình thành
và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh còn chưa được chú trọng và cịn tản
mạn. Đối với bản thân tơi, trong những năm qua (năm học 2017- 2018, 2018 2019), ngoài những giải pháp liên quan đến 06 vấn đề ở trên (tìm hiểu, nắm vững
hồn cảnh cụ thể của từng học sinh lớp mình chủ nhiệm; xây dựng đội ngũ cán bộ
lớp gương mẫu, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao; phân chia tổ và phân công
nhiệm vụ cho các em một cách cụ thể, hợp lý, rõ ràng; xây dựng bộ quy tắc ứng xử
và nội quy lớp một cách đầy đủ, rõ ràng, phù hợp để giáo dục tính kỷ luật và cách
ứng xử văn hóa cho HS; lên kế hoạch hoạt động cụ thể, hợp lý cho lớp chủ nhiệm
theo cả năm học, từng học kỳ, từng tháng và từng tuần; phối hợp với giáo viên bộ
môn thường xuyên uốn nắn, giúp đỡ, giáo dục học sinh cả về kiến thức và đạo đức,
lối sống) thì đã có sự đầu tư, tập trung thực hiện và đạt hiệu quả cao ở một số giải
pháp cụ thể mang tính khả thi cao như sau:
3.2.1.Giải pháp 1: Chú trọng đổi mới tiết sinh hoạt lớp

Từ trước đến nay, tiết sinh hoạt lớp diễn ra hàng tuần ở mọi lớp học. Đây là
tiết học để GVCN điều hành sinh hoạt lớp. Trong tiết học này, lâu nay chủ yếu là
GVCN làm việc với HS từ đầu đến cuối tiết, HS chỉ ngồi nghe, lĩnh hội và tuân
thủ, chấp hành những việc GVCN giao. Vì thế, cả thầy cơ giáo và trò đều cảm thấy
áp lực, nhàm chán, mệt mỏi. Ở nhiều đơn vị lớp, HS cảm thấy rất sợ tiết sinh hoạt
vì tuần nào nó cũng diễn ra hết sức căng thẳng với cùng một kịch bản. Thậm chí sợ
luôn, chán luôn cả GVCN. Đây là điều tôi luôn trăn trở và tìm cách thay đổi
1
9


* Mục đích: Tiết sinh hoạt lớp là thời gian để giáo viên hoặc cán sự lớp tổ
chức, điều hành lớp chủ nhiệm tổng kết, đánh giá, nhận xét về mọi hoạt động trong
tuần vừa qua và triển khai, phổ biến kế hoạch tuần tới, tuyên dương những học
sinh có nhiều điểm tốt hoặc hoạt động tích cực đồng thời phê bình, xử lí các học
sinh vi phạm nội quy trong tuần. Qua đó, tiết sinh hoạt lớp góp phần để hình thành
và phát triển nhiều phẩm chất, năng lực quan trọng cho HS.
* Thời gian thực hiện: Thông thường giờ sinh hoạt lớp diễn ra vào tiết 5
ngày thứ bảy cuối tuần. Trong 45 phút đó, tơi chỉ dành 10 phút đầu giờ để tổng kết,
đánh giá và triển khai kế hoạch tuần tới (do Ban cán sự lớp đã chủ động tổng kết,
nắm bắt tình hình của lớp vào chiều thứ 6 và do GVCN đã ứng dụng Công nghệ
thông tin vào quản lý, điều hành lớp học nên giảm thời gian cho những cơng việc
mang tính thủ tục, thông báo, điều này tôi sẽ chia sẻ cụ thể hơn ở mục 3.2.3), cịn
35 phút tơi dành cho việc để HS điều hành, tổ chức các hoạt động tập thể nhằm
hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực quan trọng hoàn thiện nhân
cách “người học sinh mới”.
* Các bước thực hiện:
- Bước 1: Xây dựng mục tiêu của tiết sinh hoạt lớp:
+ Tổng kết, đánh giá toàn bộ hoạt động của HS trong một tuần học (ưu điểm,
hạn chế, có khen thưởng, phê bình, kỷ luật và xếp loại từng HS)

+ Đưa ra kế hoạch cho tuần kế tiếp dựa trên kế hoạch cụ thể của nhà trường
và Đoàn trường.
+ Mở rộng nội dung sinh hoạt liên quan đến kiến thức cuộc sống, sức khỏe
sinh sản vị thành niên, phổ biến pháp luật, đạo đức, lối sống, kết nối yêu thương
giữa HS – Phụ huynh – GVCN.
- Bước 2: Lựa chọn cách thức tiến hành:
3.2.1.1. Trao quyền cho học sinh điều hành tiết sinh hoạt lớp
* Mục đích: HS tự nhìn nhận, đánh giá ưu khuyết điểm của tập thể lớp và của
mỗi người cũng như của chính mình trong mỗi tuần để đưa ra kế hoạch, phương
pháp thực hiện cho tuần tới. Đẩy mạnh cơng tác tự phê bình và phê bình đồng thời
tạo niềm tin yêu cho học sinh.
* Nội dung và hình thức sinh hoạt: GVCN xem giờ sinh hoạt lớp là một cuộc
họp và người điều hành cuộc họp này chính là HS, là ban cán sự lớp. Các thành
viên trong ban cán sự lớp có trách nhiệm thống kê, tổng hợp các hoạt động diễn ra
trong tuần theo chức vụ đã được phân công. Lớp trưởng là người giao việc, các lớp
phó và tổ trưởng báo cáo. Ban cán sự phải đề xuất được các cá nhân chưa thực hiện
tốt cũng như xứng đáng được khen thưởng và đưa ra được phương hướng, mục tiêu
của tuần tiếp theo. GVCN cho HS thời gian tự nhận lỗi để dạy các em ý thức tự
giác và biết sửa lỗi, sống có trách nhiệm hơn. Tơi trao quyền cho HS được nói và
tự đánh giá, nhận xét để đảm bảo sự công bằng và khuyến khích các em phát triển
cái tơi của mình theo chiều hướng tích cực. Tuyệt đối GVCN khơng được áp đặt
cho HS bất cứ điều gì. Trong tiết sinh hoạt này, GVCN chỉ đóng vai là một thư
20


ký tổng hợp mọi vấn đề và đưa ra quyết định cuối cùng một cách hợp lí nhất. Ở
đây, sau phần đánh giá của cán bộ lớp, tôi luôn yêu cầu các em viết vào một mẩu
giấy nhỏ (giấy note) đã ghi tên của từng thành viên trong lớp, các em bốc thăm
ngẫu nhiên mẩu giấy rồi ghi vào đó: ba điểm em yêu quý nhất và ba điều góp ý cho
bạn có tên trong mẩu giấy. Sau đó, mẩu giấy sẽ được lớp trưởng (hoặc bí thư)

chuyển đến cho người có tên trong mẩu giấy ấy. Có lúc tơi cho các em ghi lại cảm
nhận của mình về lớp học trong tuần qua và dán lại trên giấy A0. Buổi sinh hoạt
diễn ra trong khơng khí dân chủ, thoải mái nhưng nghiêm túc và đầy yêu thương,
đoàn kết.
* Kết quả đạt được:
- HS được hình thành và phát triển phẩm chất: nhân ái (các em tôn trọng sự
khác biệt của các bạn, yêu quý và giúp đỡ bạn hoàn thiện mình), trung thực (trung
thực khi đánh giá nhận xét bạn và bản thân), trách nhiệm (có trách nhiệm với tập
thể lớp, với bạn và với mình).
- HS được hình thành và phát triển năng lực tự chủ và tự học (tự biết nên nhận
xét điều gì về lớp, về bạn, về bản thân thơng qua đó tự rút ra bài học), năng lực
giao tiếp và hợp tác (nói cho các bạn khác nghe và lắng nghe, chia sẻ với các bạn
khác), năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (phát hiện ra những ưu nhược điểm
của bản thân và các bạn khác, tìm cách khắc phục nhược điểm), năng lực tìm hiểu
xã hội (tìm hiểu lớp học, bạn bè xung quanh và bản thân mình), năng lực ngơn
ngữ (nói và viết), năng lực thẩm mỹ (phát hiện ra những ưu điểm, mặt tốt của
mình và bạn).

Lớp trưởng và bí thư K31D điều hành sinh hoạt lớp
2
1


Điều HS cảm nhận về lớp trong tuần học
3.2.1.2. Tổ chức tiết sinh hoạt lớp thành một buổi hội thảo nhỏ, chia sẻ
kinh nghiệm học tập, kinh nghiệm sống
* Mục đích: Học sinh biết tìm hiểu vấn đề đặt ra từ đời sống xã hội xung
quanh hoặc trên internet, trên mạng xã hội mà dư luận đang quan tâm và có ý nghĩa
quan trọng đối với giới trẻ. Từ đó, đánh giá, nhận xét, thể hiện quan điểm, ý tưởng
đối với những hiện tượng, những vấn đề ấy. Mục đích cuối cùng là giúp các em tự

tin tìm ra cho mình cách ứng xử tốt nhất, hợp lý nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi vấn
đề liên quan.
* Nội dung và cách thức tổ chức hoạt động:
- Nội dung chủ yếu là những vấn đề nóng của giới trẻ ngày nay mà xã hội
quan tâm. Bản thân tôi đã tổ chức hội thảo cho các em với các vấn đề: Suy nghĩ về
tình u tuổi học trị, vấn đề nói chuyện riêng hay ăn quà vặt đối với HS THPT,
trách nhiệm của bản thân em đối với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở
địa phương, vấn đề chụp ảnh kỷ yếu đối với học sinh 12, sức khỏe sinh sản vị
thành niên, bạo lực học đường, văn hóa ứng xử trên mạng xã hội, nụ cười an tồn
giao thơng, lời cảm ơn và xin lỗi,… Hoặc đơn giản tơi cho HS xem một số trích
đoạn của các bộ phim về giáo dục như: Bước ngoặt đáng nhớ, Bệnh nhân người
Anh, Bậc thầy của những ước mơ, Cậu bé Karate,… hay những video truyền động
lực như: Gương thầy cơ giáo, Những khoảnh khắc đẹp,… Từ đó, tơi cho HS thảo
luận về chi tiết em thích nhất từ bộ phim (video), bài học ý nghĩa nhất mà em rút ra
được sau khi xem bộ phim (video).
- Cách thức tổ chức hoạt động:
2
2


Thứ nhất là, đối với những chủ đề cho các em chuẩn bị trước: GVCN cho HS
đăng ký chủ đề mà bản thân u thích để trình bày trước lớp. Bản thân tôi thường
yêu cầu HS chuẩn bị trước một tuần chủ đề mà các em yêu thích để tiết sinh hoạt
tuần tiếp theo cả lớp sẽ bàn về chủ đề đấy. Các HS hoặc tìm cách trình bày phù hợp
(trình bày trên giấy A0 hoặc trên powpoint hoặc qua các sản phẩm hanmade,
...). Có thể mỗi tuần là một cá nhân hoặc đại diện của một tổ lên thuyết trình về vấn
đề mà mình u thích trong khoảng thời gian được giới hạn (5 -7 phút). Sau đó sẽ
là thời gian cho những HS còn lại đặt câu hỏi phản biện. Hoạt động này giúp HS
phát triển tư duy phản biện và kỹ năng thuyết trình trước đám đơng.
Thứ hai là, đối với chủ đề ngẫu hứng nảy sinh trong buổi sinh hoạt lớp,

GVCN cũng có thể nhanh chóng tổ chức buổi thảo luận theo phương pháp: think –
pair- share. Đây là cách thảo luận mang tính hợp tác. Theo đó, sự tham gia của
mỗi thành viên trong một nhóm sẽ góp phần vào kết quả chung. HS sẽ học cách xử
lý mọi vấn đề qua 3 bước sau: Think (Nghĩ): HS suy nghĩ độc lập về vấn đề được
nêu ra; tự hình thành nên ý tưởng của mình; Pair (Bắt cặp): HS được ghép cặp với
nhau để thảo luận về những ý tưởng vừa có. Bước này giúp HS thể hiện ý tưởng
của mình, xem xét ý tưởng của bạn; Share (Chia sẻ): HS chia sẻ ý tưởng vừa thảo
luận với nhóm lớn hơn. Thơng thường, các em sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi giới
thiệu ý tưởng đến cả nhóm nếu được sự hỗ trợ của bạn bắt cặp với mình. Hơn nữa,
ý tưởng của từng HS sẽ được củng cố và nâng cao hơn trong quá trình thực hiện 3
bước này. Tất cả đều có cơ hội được bày tỏ suy nghĩ và quan điểm sống của mình.
Khi tiến hành buổi sinh hoạt thành một buổi hội thảo, bản thân tôi nhận thấy
các em rất hào hứng và thể hiện hết mình. Qua đó, các em sẽ học cách duy trì tình
bạn lành mạnh thơng qua chia sẻ, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau.
* Kết quả đạt được:
- HS được hình thành và phát triển phẩm chất: yêu nước (liên quan đến vấn đề
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa,…), nhân ái (các em biết đồng cảm, chia sẻ với
bạn, yêu quý ý tưởng của bản thân và của bạn bè), trung thực (nêu lên quan điểm,
chính kiến của bản thân về các vấn đề xung quanh, về quan điểm của các bạn
khác), trách nhiệm (có trách nhiệm góp ý cho bạn và hồn thiện bản thân đồng thời
biết liên hệ thấy rõ vai trò của bản thân đối với các vấn đề đặt ra), chăm chỉ (các
em tự tìm hiểu, tìm kiếm thơng tin về các vấn đề đưa ra để hội thảo, lắng nghe
những ý kiến của bạn để học hỏi, làm đầy kiến thức, kỹ năng cho mình).
- HS được hình thành và phát triển năng lực tự chủ và tự học (tự biết nên tìm
hiểu những thơng tin liên quan đến vấn đề hội thảo, tự tìm cách thể hiện vấn đề tốt
nhất cho nhóm và tự học thơng qua việc tìm kiếm thơng tin, làm việc nhóm, chủ
động trình bày ý tưởng, quan diểm của mình và lắng nghe các ý kiến, chủ động học
hỏi), năng lực giao tiếp và hợp tác (kỹ năng thuyết trình, phản biện, lắng nghe),
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (cách giải quyết của bản thân trước những
vấn đề được đưa ra thảo luận và đưa ra các giải pháp tích cực, hiệu quả), năng lực

2
3


tìm hiểu xã hội (tìm hiểu những vấn đề xã hội đang được nhiều người nhất là giới
trẻ quan tâm), năng lực ngơn ngữ (nói và viết), năng lực thẩm mỹ (phát hiện ra
những nét đẹp, vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh, tìm cách trình bày, thiết kế các
sản phẩm thuyết trình một cách hấp dẫn, ấn tượng), năng lực tính tốn (khảo sát,
thống kê số liệu khảo sát), năng lực tin học (tra cứu thông tin trên google, mạng xã
hội, trình bày qua powpoint, tờ rơi), …

Sản phẩm: Sách, tờ rơi HS tự thiết kế để trình bày về chủ đề Chụp ảnh kỷ yếu
3.2.1.3. Tổ chức tiết sinh hoạt lớp thành một buổi giao lưu văn nghệ
* Mục đích: HS biết phát hiện ra các năng khiếu, sở trường của bản thân để
thể hiện, khẳng định mình, giao lưu với các bạn trong tập thể đồng thời bồi dưỡng
cho các em những tình cảm cao quý như: tình bạn, tình cảm gia đình, quê hương,
các giá trị từ cuộc sống mà các em chiêm nghiệm, rút ra được từ cuộc sống hoặc từ
câu chuyện trong sách báo,… Khơng khí giờ sinh hoạt lớp trở nên vui tươi, lành
mạnh, phấn khởi,…
* Nội dung và hình thức sinh hoạt: Khuyến khích các em thể hiện các tài
năng văn nghệ của bản thân nhân dịp các ngày lễ trong năm 20/10, 20/11, 22/12,
8/3, 26/3, 19/5,… hoặc ngày đầu tháng tổ chức sinh nhật cho các bạn có ngày sinh
trong tháng ấy. Thông thường, lớp tôi chủ nhiệm thường do em bí thư hoặc lớp phó
văn thể bốc thăm một người bất kì lên hát, kể chuyện, đọc thơ, diễn kịch, nhảy, …
với chủ đề: Bác Hồ trong trái tim em; Tri ân thầy cô; Yêu mẹ; Một bài học từ cuộc
sống; Một người mà em yêu quý; Quê hương trong em;… Sau khi các em thể hiện
thì các em có quyền chỉ định người tiếp theo. Hoạt động này còn giúp lớp học
2
4



thoải mái, đoàn kết hơn và khiến cho HS yêu lớp học của mình hơn. GVCN nên
hịa đồng và là người đi đầu đóng góp tiết mục văn nghệ nào đó để tiết sinh hoạt
trở nên thú vị hơn, khoảng cách giữa GVCN với HS trở nên gần nhau hơn.

HS tự tổ chức và điều hành buổi văn nghệ chúc mừng
8/3 * Kết quả đạt được:
- HS được hình thành và phát triển phẩm chất: yêu nước (các ca khúc, câu
chuyện, bài thơ về chủ đề quê hương, đất nước), trung thực (nêu lên cảm nhận, suy
nghĩ, bài học các em tự rút ra được từ thực tế cuộc sống hoặc từ câu chuyện các em
đọc trên sách báo), trách nhiệm (bản thân phải góp một tiết mục văn nghệ trong
buổi biểu diễn văn nghệ, quan tâm tới các bạn trong lớp), nhân ái (các em trở nên
mạnh dạn, tự tin, càng thêm yêu quý bản thân mình, các bạn mình và lớp học, biết
yêu thương, quan tâm nhau), chăm chỉ (các em tự tìm kiếm một tiết mục văn nghệ
phù hợp với năng khiếu của bản thân, lắng nghe và xem các bạn khác biểu diễn để
học hỏi, trau dồi thêm cho mình).
- HS được hình thành và phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác (kỹ năng
biểu diễn, trao đổi với tập thể lớp), năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (tìm ra
tiết mục văn nghệ phù hợp và tìm cách biểu diễn trước tập thể một cách ấn tượng,
hấp dẫn), năng lực tìm hiểu xã hội (tìm hiểu về ý nghĩa của các ngày lễ, các bài hát,
câu chuyện, bài thơ, vở kịch,…), năng lực ngôn ngữ (cách kể chuyện, cách diễn
đạt, trao đổi với tập thể lớp), năng lực thẩm mỹ (nhận biết các yếu tố về cái đẹp,
cái bi, cái hài, cái chân, cái thiện, cái cao cả trong các tiết mục văn nghệ mà
2
5


các bạn chuyển tải; Phân tích, đánh giá về cách biểu diễn và nội dung của các tiết
mục văn nghệ; Tái hiện, sáng tạo khi biểu diễn các tiết mục văn nghệ), năng lực
thể chất (qua các tiết mục nhảy).

3.2.1.4. Tổ chức trò chơi trong tiết sinh hoạt lớp
* Mục đích: Học sinh sẽ được giải tỏa mọi căng thẳng, vui vẻ và cảm thấy
vơ cùng sảng khối đồng thời các em được rèn luyện về các kỹ năng, ứng xử linh
hoạt các tình huống mà người điều hành đưa ra, được học hỏi, rút ra nhiều bài học
kỹ năng vô cùng thú vị và ý nghĩa.
* Nội dung và hình thức sinh hoạt: Mỗi tháng giao cho một tổ, một nhóm
hoặc một bàn xây dựng kế hoạch để tổ chức một trò chơi cho lớp và tự điều khiển
hoạt động dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng hoặc lớp phó văn thể. Việc này giúp HS
phát triển kỹ năng sáng tạo cũng như kỹ năng lãnh đạo. Khơng khí của giờ sinh
hoạt lớp sẽ trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ mà học sinh nào cũng thích và hứng thú,
mong chờ. Ví dụ, tơi thường tổ chức cho học sinh các trị chơi: Nhìn hình đốn
chữ, hoa nở hoa tàn, mũi cằm tai, một phút làm vua,… Thông thường, với trị chơi
nhìn hình đốn chữ, giáo viên chuẩn bị nội dung trị chơi, đưa ra luật chơi, sau đó
mời một em cán bộ lớp điều hành, hai học sinh làm trọng tài, bốn tổ học sinh là
bốn đội chơi. Lớp phó đời sống chuẩn bị một số món quà nhỏ (sổ, bút, gói bim
bim, kẹo,…) dành cho đội thắng cuộc, đội thua cuộc sẽ cùng biểu diễn một tiết
mục văn nghệ hoặc phải làm trực nhật cho tuần sau. Với các trị chơi khác như trị
một phút làm vua, tơi hướng dẫn tổ/nhóm/bàn HS chịu trách nhiệm điều hành chia
lớp làm nhóm nhỏ gồm ba người, nhóm tự quy định A, B, C tương ứng với từng
người, bạn điều hành sẽ bốc thăm chữ cái, đúng chữ cái nào thì học trị đó là vua,
hai bạn cịn lại sẽ làm người hầu thực hiện theo lệnh vua, người làm vua sẽ được
đấm, bóp hoặc thưởng thức các tiết mục văn nghệ mà mình u cầu. Những trị
chơi khác thì chơi tập thể, ai sai sẽ bị bắt lên nhảy lò cị hoặc làm trị cho cả lớp
cười,… Ai khơng tn thủ sẽ làm trực nhật hoặc làm vệ sinh tự giác.
* Kết quả đạt được:
- HS được hình thành và phát triển phẩm chất: trung thực (sai là phải nhận
hình phạt, trả lời đúng khả năng, hiểu biết của bản thân), trách nhiệm (bản thân
phải tham gia trò chơi và làm cho đội nhóm của mình mạnh lên, tn thủ quy định,
luật chơi), nhân ái (yêu quý đồng đội của mình),…
- HS được hình thành và phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác (kỹ năng trao

đổi, hợp tác trong đội, nhóm), năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (tìm ra
phương án trả lời, cách thức tiếp thu và thực hiện luật chơi đúng nhất), năng lực
tìm hiểu tự nhiên và xã hội (tìm hiểu về thế giới tự nhiên và những vấn đề xã hội
xung quanh để có câu trả lời đúng nhất, thực hiện đúng theo quy định của luật
chơi,…), năng lực ngôn ngữ ( năng lực lắng nghe để làm theo lệnh, ngôn ngữ cơ
thể theo các động tác trong các trò chơi), năng lực thẩm mỹ (nhận biết các yếu tố
về cái đẹp, cái hài trong các trị chơi; phân tích, đánh giá về những người tham gia
2
6


trò chơi), năng lực thể chất (khi HS tham gia các trị chơi vận động hay các hình
thức phạt sau khi không thực hiện đúng luật chơi hoặc khi thua cuộc).

GVCN cùng các em tổ chức trị chơi: Nhìn hình đoán chữ
3.2.1.5.Tổ chức tiết sinh hoạt cho các em “lắng nghe” chính mình
* Mục đích: Nhằm để cho HS có những giây phút lặng, phút “sống chậm” để
các em “ngẫm”, “ngợi”, nhìn nhận mọi điều liên quan đến mình. HS được chia sẻ,
tâm sự với GVCN, với bố mẹ, với bạn bè và với chính bản thân mình. Từ đó, giúp
các em lấy lại niềm tin, động lực và phương hướng phấn đấu, bồi dưỡng lý tưởng,
khát vọng sống cao đẹp cho các em.
* Nội dung và hình thức sinh hoạt:
Nội dung: Các em viết những dòng tâm sự về cuộc sống, về những người
xung quanh (bố mẹ, thầy cô, bạn bè), về những gì đang diễn ra, về ước mơ, về
tương lai của bản thân, … với những chủ đề: Mưa điều ước, Thư gửi thầy /cô, Thư
gửi bố / mẹ (hoặc bố mẹ), Gửi tơi ở tương lai,…
Hình thức sinh hoạt: Tôi thường cho các em viết thư hoặc ghi vào tờ note gửi
thầy (cô), bố (mẹ), cho chính mình hiện tại và tương lai (mấy chục năm sau này),
… Ở đây mỗi HS sẽ ghi ba điều ước về mục tiêu của bản thân trong năm học, ba
điều ước về bố mẹ, ba điều ước về thầy cơ, sau đó các em trang trí theo từng nhóm

và treo lên. Bên cạnh đó, tơi cịn hướng dẫn HS viết thư chia sẻ với bố/ mẹ,
2
7


thầy /cơ những tâm sự thầm kín nhất mà trong thực tế hàng ngày tiếp xúc trực tiếp,
các em khó chia sẻ, khó bộc lộ với bố/mẹ, thầy /cơ. Những bức thư các e gửi cho
bản thân sau này, các em bỏ vào phong bì hoặc xếp máy bay và ghi họ tên, lớp học
ở bên ngoài. GVCN sẽ là người lưu giữ những bức thư này đến mai sau hoặc cuối
năm trao cho các em để các em giữ.

HS viết thư cho GVCN

HS viết thư cho cha mẹ
2
8


×