Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tư liệu dạy và học Địa lý 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.41 KB, 40 trang )

Bài 1
VỊ TRÍ, HÌNH DẠNG VÀ KÍCH THƯỚC CỦA TRÁI ĐẤT
A) NGƯỜI TÌM RA HỆ MẶT TRỜI
... Nicôlai Côpécníc là nhà thiên văn vĩ đại người Ba Lan (1473 – 1543). Ông ra đời chính trong thời
đại mà ai cũng tin rằng Trái Đất là trung tâm của Vũ trụ... Đó chính là nội dung của Thuyết "Địa tâm
hệ" do học giả Hy Lạp cổ Pôlêmê nêu ra...
Học thuyết này được gọi là thuyết Địa tâm và đã được nhà thờ chấp nhận trong suốt 15 thế kỉ, vì nó
thích hợp với ý nghĩ của giáo hội thời Trung cổ ...
Sau gần 40 năm quan sát và tính toán đối với bầu trời sao, đặc biệt là đối với sự chuyển động của các
hành tinh, Côpécníc đã nêu ra một học thuyết mới về Vũ trụ
– Học thuyết "Nhật tâm hệ". Học thuyết được nêu ra năm 1543 trong tác phẩm "Bàn về sự chuyển
động của các thiên thể"...
Học thuyết này cho rằng Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ (hệ Mặt Trời). Phát kiến của Côpécníc là
dấu chấm hết cho thuyết Địa tâm hệ, là đòn giáng mạnh vào quan niệm sai lầm về Vũ trụ của tôn
giáo, nên thời đó học thuyết của ông không được chấp nhận và ông bị giáo hội phản động La Mã trả
thù, đàn áp.
Nhưng sự thật cuối cùng vẫn thắng, "Hệ nhật tâm" của Côpécníc là một bước nhảy vọt vĩ đại trong
quá trình con người nhận thức Vũ trụ. Chính vì vậy ông được gọi là người đã tìm ra hệ Mặt Trời...
B) HỆ MẶT TRỜI LÀ GÌ ?
Hệ Mặt Trời là một tập hợp các thiên thể trong Vũ Trụ, gôm có Mặt Trời và rất nhiều loại thiên thể
khác quanh chung quanh: 8 hành tinh, 61 vệ tinh và vô số các tiểu hành tinh, các sao chổi, các thiên
thạch...
Mặt Trời là một ngôi sao, một thiên thể trên bầu trời có khả năng phát sáng nhờ những phản ứng
nhiệt hạch xảy ra bên trong.
Trái Đất là một trong tám hành tinh của hệ Mặt Trời. Các hành tinh này đều chuyển động quanh Mặt
Trời. Nếu tính từ gần đến xa Mặt trời các hành tinh xếp theo thứ tự sau:
Thuộc nhóm tiểu hành tinh Thuộc nhóm đại hành tinh
1– Sao Thuỷ 5– Sao Mộc
2– Sao Kim 6– Sao Thổ
3– Trái Đất 7– Sao Thiên Vương
4– Sao Hoả 8– Sao Hải Vương


I. NHÓM TIỂU HÀNH TINH:
1. Sao Thuỷ (Mercury)
Đường kính Sao Thuỷ : 4878 km, tỉ trọng : 5,45 gam/cm
3
. Năm trên Sao Thuỷ bằng 88 ngày Trái Đất.
Sao Thuỷ có tỉ trọng lớn nhất so với các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời vì Sao Thuỷ ở gần Mặt
Trời nhất nên những chất nhẹ đều bị Mặt trời “thổi ra” xa và Sao Thuỷ như vậy được cấu tạo chủ yếu
bằng kim loại và silic.
Vì ở gần Mặt Trời nhất (khoảng cách 58 triệu km) nên Sao Thuỷ nhận được một năng lượng nhiều
gấp 7 lần Trái Đất, nhiệt độ ban ngày lên tới 430
o
C. Với nhiệt độ như vậy thì không một máy móc,
sinh vật nào có thể đổ bộ lên Sao Thuỷ. Trong khi ở bên phía khuất ánh nắng Mặt Trời, đêm nhiệt độ
hạ dưới – 183
o
C.
Sao Thuỷ tự quay rất chậm so với Trái Đất và phải mất 58,6 ngày đêm (Trái Đất) mới hết một vòng.
Nh- vậy thời gian chiếu sáng một ngày trên Sao Thuỷ gần bằng một tháng trên Trái Đất. Sở dĩ Sao
Thuỷ có vận tốc tự quay không lớn vì nó là một hành tinh nặng, cấu tạo phần lớn là kim loại. Mặt
khác, do gần Mặt Trời nên lực hút của Mặt Trời lớn, có tác dụng cản chuyển động tự quay của Sao
Thuỷ. Ngược lại, một năm của Sao Thuỷ chỉ bằng 1/4 thời gian năm của Trái Đất vì vận tốc quay
quanh Mặt Trời của Sao Thuỷ lớn hơn so với Trái Đất và quỹ đạo quay quanh Mặt Trời cũng ngắn
hơn do ở gần Mặt Trời (so với Trái Đất). Trên Sao Thủy hầu như không có khí quyển nên dù là ban
ngày, bầu trời vẫn một màu đen...
2. Sao Kim (Venus)
Sao Kim (còn gọi là Sao Hôm, Sao Mai) có đường kính 12.101km. Tỉ trọng : 5,25 gam/cm
3
. Một năm
trên Sao Kim bằng 225 ngày trên Trái Đất. Lớp khí quyển Sao Kim dày đặc và thành phần CO
2

chiếm
tới 95%, nitơ 4%. Do đó, áp suất khí quyển trên Sao Kim rất lớn tới 90 atm, gấp 90 lần áp suất khí
quyển Trái Đất.
Khí CO
2
có tác dụng giữ nhiệt, do đó nhiệt độ Sao Kim vào ban ngày nóng tới 575
o
C (mặc dầu Sao
Kim cách Mặt Trời 108 triệu km).
3. Trái Đất
Kích thước Trái Đất (có dạng êlipxoit theo F.N.Cra–xốp–xki), bán trục lớn : 6378 km, bán trục nhỏ :
6357 km. Khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến Mặt Trời là : 149.600.000 km.
Thời gian quay một vòng quanh Mặt Trời : 365 ngày. Thời gian quay một vòng quanh trục 23 giờ
56’. Tỉ trọng xấp xỉ nh- Sao Kim.
Trái Đất tự quay quanh trục một vòng mất 24 giờ (một ngày đêm) và quay quanh Mặt Trời một vòng
mất 365 ngày 6 giờ (một năm) với tốc độ 29,8km/giây.
Với vận tốc quay nhanh và với cái nhân chứa Sắt và Niken, Trái Đất đã tạo quanh mình một từ
trường cực mạnh mà không một hành tinh nào trong hệ Mặt Trời có được. Địa từ trường bao phủ
không gian quanh Trái Đất ngăn chặn mọi tia Vũ Trụ có hại cho sự sống, không cho lọt xuống bề mặt
Trái Đất.
4. Sao Hoả (Mars)
Sao Hoả có đường kính 6794 km, tỉ trọng : 3,94gam/cm
3
, ngày Sao Hoả bằng 24 giờ 37’ trên Trái
Đất. Sao Hoả có nhiều điểm gần giống Trái Đất, trên đó cũng chia mùa do trục của hành tinh nghiêng
23,2
o
. Sao Hoả có khoảng cách xa Mặt Trời hơn Trái Đất 75 triệu km. Sao Hoả có đường kính = 1/2
Trái Đất (đường kính Trái Đất 12.756km, đường kính sao Hỏa 6772km (Theo giáo trình Địa lí tự
nhiên... Đại cương 1 – NXB Đại học Sư phạm), còn trọng lượng chỉ bằng 1/10. Hiện nay trên Sao

Hoả thường xuyên lạnh từ 0
o
C đến –35
o
C (tuỳ theo vĩ độ). Gió thổi rất mạnh tới 400km/giờ. Cách
đây 3 tỉ năm, Sao Hoả còn là một hành tinh xanh, cũng có sông, cũng có biển, có mưa.
Ngày nay không khí, nước trên Sao Hoả đã biến đi mất vì lí do :
– Kích thước Sao Hoả nhỏ, trọng lượng không lớn nên sức hút của hành tinh yếu là nguyên nhân
khiến các phân tử khí và hơi nước mất dần vào vũ trụ.
– Giai đoạn đầu của sự hình thành Sao Hoả, các chất khí và hơi nước được sinh ra với một khối
lượng lớn, vượt xa sự mất mát đi vào vũ trụ và đã hình thành nên lớp khí quyển và thuỷ quyển của
Sao Hoả.
– Về sau những cơn mưa thiên thạch và hoạt động núi lửa ngày càng giảm đi thì lượng các chất khí
và hơi nước mất đi vào vũ trụ lại lớn hơn so với nguồn cung cấp. Do đó khí quyển và thuỷ quyển bị
mất dần, “biến” vào vũ trụ. Các chất khí trong đó có CO
2
mất đi là nguyên nhân làm cho Sao Hoả bị
lạnh đi tới – 35
o
C (vì CO
2
có tác dụng giữ nhiệt).
II. NHÓM ĐẠI HÀNH TINH:
Khác với nhóm tiểu hành tinh gồm các hành tinh nặng, ở gần Mặt Trời, nhóm đại hành tinh gồm các
hành tinh có kích cỡ rất lớn song lại nhẹ nên bị Mặt Trời “thổi ra xa”.
5. Sao Mộc (Jupiter)
Đường kính Sao Mộc : 142.000 km, tỉ trọng 1,34 gam/cm
3
, ngày đêm ngắn chỉ bằng 10 giờ trên Trái
Đất. Năm của Sao Mộc gần bằng 12 năm của Trái Đất.

Sao Mộc là hành tinh khí khổng lồ, lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Khối lượng gấp 2,5 lần khối lượng
tất cả các hình tinh khác của hệ cộng lại, gấp 300 lần khối lượng Trái Đất., cấu tạo bởi 98% là khí
hiđrô và hêlium. Tỉ trọng nhỏ, khối lượng lại lớn, tốc độ quay nhanh nên hành tinh bị dẹt ở 2 cực gây
nên gió bão lớn. Nằm cách xa Mặt Trời 778 triệu km, Sao Mộc là hành tinh lạnh lẽo.
Sao Mộc có 16 vệ tinh :
– Vệ tinh Iô lớn gần bằng Mặt Trăng của Trái Đất và bị biến dạng luôn do hoạt động của núi lửa.
Đỉnh núi lửa Pêlê (Pele) là núi lửa lớn nhất và hoạt động dữ dội nhất trên vệ tinh Iô.
– Mặt trăng Europe bị băng giá phủ lớp vỏ ngoài cùng, đến lớp đá ở giữa và nhân là kim loại Sắt và
Niken.
– ...
6. Sao Thổ (Saturn)
Đường kính Sao Thổ : 120.000 km. Ngày đêm Sao Thổ bằng 10 giờ Trái Đất. Năm Sao Thổ bằng 30
năm Trái Đất. Sao Thổ là một hành tinh cấu tạo chủ yếu bởi các chất khí, kích thước gần bằng Sao
Mộc. Tuy nhiên tỉ trọng 0,7gam/cm
3
của Sao Mộc lại nhỏ nhất so với các hành tinh khác trong Hệ
Mặt Trời.
Các khí cấu tạo nên Sao Thổ chủ yếu là hiđrô và hêli. Hành tinh khí khổng lồ này có hình bầu dục,
dẹt ở hai cực do lực li tâm tạo nên. Bên trong Sao Thổ có một lõi đặc lớn gấp hai lần Trái Đất. Tốc độ
tự quay của sao Thổ rất nhanh tạo nên nhiều dải mây trắng song song.
Tại vùng xích đạo, do lực quay của Sao Thổ nên có gió mạnh tới 1800km/giờ. Sao Thổ có tới 16 vệ
tinh. Tàu thám hiểm Cassini – Huygen đã được phóng lên để nghiên cứu Sao Thổ và phải đi bẩy năm
mới tới đích (năm 2004). Tàu có nhiệm vụ nghiên cứu Sao Thổ và 16 vệ tinh Sao Thổ.
7. Sao Thiên Vương (Uranus)
Đường kính Sao Thiên Vương : 50.800 km. Tỉ trọng : 1,4 gam/cm
3
, một ngày đêm của Sao Thiên
Vương bằng 16 giờ Trái Đất. Một năm Sao Thiên Vương bằng 48 năm Trái Đất. Hành tinh khí khổng
lồ này gồm chủ yếu là khí hiđrô và heli, bên trong có lõi nham thạch. Trục quay của Sao Thiên
Vương gần như trùng với quỹ đạo của nó quay quanh Mặt Trời nên hành tinh này có 48 năm (Trái

Đất) hướng ra xa ánh sáng trong khi đó 48 năm ở bán cầu đối diện lại không nhận được ánh
sáng. Vì thế mùa ở đây rất dài, luôn lạnh lẽo vì ở quá xa Mặt Trời.
Nhiệt độ không khí trên Sao Thiên Vương lạnh tới – 221
o
C và đồng đều ở khắp hành tinh, ở mặt sáng
cũng như mặt tối, ở xích đạo cũng như ở cực. Điều đó chứng tỏ có sự xáo trộn mạnh mẽ các lớp khí
trên hành tinh.
8. Sao Hải Vương (Neptune)
Đường kính : 18.600 km, tỉ trọng : 1,73 gam/cm
3
. Ngày trên Sao Hải Vương bằng 16 giờ (Trái Đất).
Năm bằng 164 năm Trái Đất. Hành tinh cấu tạo bởi những khí nhẹ với một lõi kim loại nóng bỏng.
Hành tinh có màu xanh mênh mông, đơn điệu và ánh sáng trên hành tinh lúc nào cũng lờ mờ như
cảnh hoàng hôn trên Trái Đất. Sao Hải Vương có tốc độ tự quay rất nhanh, 16giờ/vòng. Với tốc độ
5,4km/giây, Sao Hải Vương phải mất 164,8 năm để quay một vòng quanh Mặt Trời.
Nằm cách xa Trái Đất 4,5 tỉ km, Sao Hải Vương nhận được một năng lượng bằng 1/1000 so với Trái
Đất và vì vậy nhiệt độ trên hành tinh lạnh tới –230
o
C thường xuyên có gió và bão trên 1100 km/giờ.
Mùa hè năm 1996, trạm thiên văn Hoa Kì đặt tại đảo Ha–oai với những máy móc tối tân và hiện đại
nhất đã quay camêra một cách hoàn chỉnh về hiện tượng tự quay và quay xung quanh Mặt Trời của
Sao Hải Vương. Ngoài ra còn quay các hiện tượng hoạt động của khí quyển trên hành tinh xa xôi và
lạnh lẽo này.
9. Sao Diêm Vương (Pluto)
Đường kính : 2400 km, tỉ trọng : 2,1gam/cm
3
. Một ngày trên hành tinh này bằng 6 ngày trên Trái Đất.
1 năm bằng 248 năm trên Trái Đất. Sao Diêm Vương là hành tinh nhỏ nhất trong Hệ Mặt Trời và
cũng xa Mặt Trời nhất, trung bình tới 5,9 tỉ km. Độ lệch tâm của quỹ đạo hình elíp mà hành tinh này
chạy quanh Mặt Trời lúc gần Mặt Trời nhất là 4,4 tỉ km, lúc xa Mặt Trời nhất là 7,4 tỉ km. Sao Diêm

Vương được phát hiện từ năm 1930. Hành tinh có một vệ tinh, đường kính 1300km. Vì vậy có tác giả
cho đây là một hành tinh kép hơn là một hành tinh có vệ tinh.
Nhiệt độ bề mặt sao Diêm Vương lạnh tới –220
o
C. Ngày nay với những máy móc cực nhạy người ta
đã chụp được các ảnh của hành tinh này với những vùng sáng tối khác nhau và hai mũ băng ở hai cực
của sao Diêm Vương.
III. ĐÃ PHÁT HIỆN 60 HÀNH TINH Ở NGOÀI HỆ MẶT TRỜI:
a) Tháng 7 năm 1995, nhà thiên văn Mixen – Maio, ng-ời Thuỵ Sĩ đã phát hiện ra 1 hành tinh xung
quanh ngôi sao Pêgaxi 51,1 ngôi sao nằm cách Trái Đất 50,1 năm ánh sáng (1 năm ánh sáng bằng
9,46 tỉ năm)
Từ năm 1995 tới nay, các nhà thiên văn ở nhiều quốc gia đã phát hiện được thêm nhiều hành tinh
ngoài hệ Mặt Trời, đưa tổng số các hành tinh loại này lên tới số lượng 60.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học rất chú ý xem trên các hành tinh xa xôi này có cuộc
sống hay không ? Rất tiếc, tất cả các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời này đều có cấu tạo chủ yếu là các
chất khí nh- hiđrô và hêli tựa như hành tinh Sao Thổ, Sao Mộc, Sao Thiên Vương.v.v… thuộc Hệ
Mặt Trời và từ đó suy ra 60 hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời mới phát hiện được cũng không có sự sống.
Tuy nhiên việc phát triển ra các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời cách xa Trái Đất tới 10 tỉ km cũng là
một cuộc cách mạng lớn trong khoa học thiên văn. Người ta hi vọng rằng, rồi đây tầm mắt của người
Trái Đất có thể nhìn xa hơn nữa vào vũ trụ bằng các kính thiên văn và máy móc tối tân.
Hiện nay để quan sát các hành tinh ở xa, không thuộc Hệ Mặt Trời người ta phải dùng một loại kính
cực nhạy và trên đó có gắn máy quang phổ kí. Trong tương lai, người ta dự kiến sẽ quan sát các tinh
tú trên bầu trời bằng các trạm thiên văn phóng vào vũ trụ.
b) Hình dạng của Trái Đất ngoài hệ vũ trụ
Có hình cầu hơi dẹt ở hai cực do tác dụng của sự vận động tự quay của nó quanh trục. Theo sự tính
toán rất chính xác của P.N. Kraxôvxki và những người cộng tác với ông, bán kính xích đạo là (a)
6.378.245 m, bán kính ở cực (b) ngắn hơn bán kính xích đạo 21.382 m và độ dẹt trung bình của Trái
Đất là :
Con số và độ dẹt của Trái Đất ở hai cực, xác định theo đường chuyển động của các vệ tinh nhân tạo
xung quanh Trái Đất cũng gần tương tự như vậy : 1 : 298,24...

... Về sau, nhờ những kết quả đo đạc tỉ mỉ trong thế kỉ XIX người ta lại phát hiện thêm là Trái Đất
không chỉ dẹt ở cực, mà còn hơi dẹt cả ở xích đạo, nghĩa là xích đạo cũng không phải là một đường
tròn hoàn hảo, mà là một hình elíp và hình elipxôít của Trái Đất cũng không phải chỉ có hai trục, mà
là ba trục, mặc dầu độ dẹt ở xích đạo chỉ bằng 1/30.000 bán kính của Trái Đất, nghĩa là vào khoảng
213 m.
c) Ý nghĩa về hình dạng và kích thước của Trái Đất
+ Ánh sáng Mặt Trời thường xuyên chỉ chiếu sáng được một nửa bề mặt Trái Đất.
Nửa còn lại luôn ở trong bóng tối, vì vậy trên Trái Đất lúc nào cũng có hiện tượng ngày và đêm.
+ Dạng hình cầu của Trái Đất làm cho những tia sáng song song của Mặt Trời, khi chiếu xuống bề
mặt Trái Đất trong cùng một lúc tạo ra những góc nhập xạ (góc chiếu) khác nhau ở các kinh độ và vĩ
độ khác nhau, nên ảnh hưởng đến sự phân bố bức xạ của Mặt Trời theo vĩ độ và theo thời gian trong
ngày.
+ Hình cầu của Trái Đất sinh ra hiện tượng : Càng lên cao cách xa mặt đất, tầm nhìn của con người
về phía chân trời càng được mở rộng.
+ Khối hình cầu của Trái Đất có hai nửa đối xứng qua mặt phẳng xích đạo, nên đã hình thành hai bán
cầu Bắc và Nam, nhiều hiện tượng địa lí thường xảy ra trái ngược nhau ở hai bán cầu này.
+ Hình dạng khối cầu dẹt của Trái Đất, tuy là kết quả của sự vận động Trái Đất, nhưng sức ma sát
của triều lực do dạng hình cầu sinh ra cũng có ảnh hưởng ngược lại đến tốc độ tự quay, làm cho nó
chậm dần. Nhiều tài liệu đã chứng minh rằng thời gian hoàn thành một vòng quay của Trái Đất vào
đại Thái cổ chỉ có khoảng 20 giờ.
+ Kích thước và khối lượng vật chất của Trái Đất đã sinh ra một sức hút đủ lớn để giữ được lớp
không khí ở bên ngoài Trái Đất, tạo điều kiện cho sự sống hình thành và phát triển.
d) Thế nào là xích đạo? Xích đạo có những đặc điểm gì?
– Bề mặt tưởng tượng chứa tâm Trái Đất và vuông góc với địa trục cắt bề mặt vuông Trái Đất thành
một đường tròn lớn. Đó chính là đường xích đạo.
– Đường xích đạo có một số đặc điểm sau :
+ Đường xích đạo là vĩ tuyến lớn nhất trên Trái Đất, chiều dài của xích đạo : 40000km.
+ Mặt phẳng xích đạo chia hai nửa cầu bằng nhau : nửa cầu Bắc, nửa cầu Nam.
+ Bất cứ đặc điểm nào nằm trên đ-ờng xích đạo quanh năm cũng có hiện tượng ngày và đêm dài bằng
nhau, và cũng thấy Mặt Trời ở thẳng đỉnh đầu 2 lần trong năm vào các ngày xuân phân (21 – 3) và

thu phân (23 – 9).
Các thuật ngữ :
1) Hành tinh : Là những thiên thể quay xung quanh Mặt Trời và không tự phát ra ánh sáng. Chúng
chỉ phản xạ ánh sáng của Mặt Trời chiếu vào.
2) Hằng tinh : Là những ngôi sao tự phát ra ánh sáng giống như những Mặt Trời.
(Trong hệ Ngân hà, hiện có khoảng 200 tỉ hằng tinh, tức là 200 tỉ ngôi sao).
3) Mặt Trời : là một trong hàng trăm tỉ hằng tinh trong hệ Ngân Hà. Trong hệ Mặt Trời nó là thực thể
duy nhất tự phát ra ánh sáng.
4) Hệ Mặt Trời : là một tập hợp các thiên thể trong vũ trụ. Gồm có Mặt Trời và rất nhiều loại thiên
thể khác quay xung quanh : 9 hành tinh, 61 vệ tinh và vô số các tiểu hành tinh, các sao chổi và các
thiên thạch. Hệ Mặt Trời là thành viên rất nhỏ trong hệ lớn hơn là hệ Ngân Hà.
5) Hệ Ngân Hà (còn có tên là Thiên Hà) là một trong số hàng chục tỉ Thiên Hà trong vũ trụ hiện này.
Bài 2
BẢN ĐỒ VÀ CÁCH VẼ BẢN ĐỒ
1. Bản đồ địa lí
Theo K.A.Xalixep : “Bản đồ địa lí là mô hình kí hiệu hình tượng không gian của các đối tượng và
hiện tượng tự nhiên xã hội được thu nhỏ, được tổng hợp hoá theo cơ sở toán học nhất định nhằm
phản ảnh vị trí, sự phân bố và mối tương quan của các đối tượng và hiện tượng. Cả những biến đổi
của chúng theo thời gian để thoả mãn mục đích, yêu cầu đã định trước”.
Như vậy : Bản đồ địa lí còn biểu hiện cả những hiện tượng không nhìn thấy được, như: nhiệt độ
không khí, áp suất khí quyển, thành phần dân tộc…
2. Ý nghĩa của bản đồ trong cuộc sống và trong dạy học địa lí
Trong quá trình đấu tranh chế ngự thiên nhiên, phát triển Kinh tế – xã hội, trong quá trình phát triển
của lịch sử xã hội loài người, bản đồ địa lí được xuất hiện do nhu cầu của thực tiễn và nhanh chóng
trở thành một phương tiện rất cần thiết trong đời sống hàng ngày. Bản đồ địa lí là công cụ phục vụ
đắc lực công trình nghiên cứu khoa học, chiếm vị trí quan trọng trong các ngành sản xuất (công
nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ) và trong công tác quản lí xã hội.
Đặc biệt trong quân sự, mọi hoạt động từ đơn giản như xác định đường hành quân đến xây dựng
phương án tác chiến, việc thực hiện nhiệm vụ chiến thuật, chiến lược… đều được tiến hành trên cơ sở
bản đồ.

Trong quá trình dạy – học địa lí, các bản đồ SGK địa lí không chỉ là phương tiện mà còn là nguồn
cung cấp tri thức quan trọng. Bản đồ địa lí là kết quả của việc thu thập tổng kết, cụ thể hoá một số trí
thức địa lí bằng hình vẽ : “Ngôn ngữ bản đồ là ngôn ngữ thứ hai” của Địa lí học.
Vì vậy bản đồ có vị trí rất quan trọng trong việc học – dạy địa lí mà còn ở ngoài xã hội, là phương
tiện tốt nhất để nhận thức thế giới. Dạy và học bằng bản đồ là phương pháp đặc thù của bộ môn Địa
lí.
Bài 4
PHƯƠNG HƯỚNG TRÊN BẢN ĐỒ
KINH ĐỘ, VĨ ĐỘ VÀ TỌA ĐỘ ĐỊA LÍ
1. Giải đáp bài tập phần b : “Hướng dẫn về nhà”
Muốn xác định hướng Bắc – Nam của một địa điểm phải dựa vào h-ớng các kinh tuyến, còn muốn
xác định hướng Đông – Tây lại phải dựa vào hướng các vĩ tuyến.
Do các kinh tuyến trên Trái Đất chụm đầu ở cực, cho nên mạng lưới kinh, vĩ tuyến trên Trái Đất
không phải là một mạng lưới ô vuông, mà là mạng lưới các hình thang cân, đáy nhỏ hướng về phía
cực. Độ dài của cung 1
o
trên các vĩ tuyến ngắn dần từ xích đạo đến cực. Ví dụ : cung 1
o
trên xích đạo
dài 111,324 km, còn cung 1
o
ở trên vĩ tuyến 80
o
chỉ còn 19,395 km.
Nếu từ một điểm xuất phát gần xích đạo, máy bay bay lên phía Bắc là bay theo hướng kinh tuyến về
phía cực bắc. Khi bay xuống phía Nam cũng là bay theo hướng kinh tuyến. Hai đoạn này là hai cạnh
bên của một hình thang cân.
Khi bay về phía Đông và phía Tây (tức là theo hướng vĩ tuyến) thì hai đoạn đường này lại là hai cạnh
đáy lớn và nhỏ của hình thang cân. Nếu mỗi đoạn đường đều dài bằng 1000 km thì máy bay không
thể về đúng nơi xuất phát ban đầu.

2. Xác định phương hướng
Với sự phát triển không ngừng của khoa học, đến nay cách xác định phương hướng theo góc phương
vị (góc hướng) đã có thể đạt độ chính xác cao (độ, phút, giây).
Trên bản đồ, phương hướng cũng được quyết định cụ thể, chính xác, khoa học, làm cơ sở xác lập mối
quan hệ không gian giữa các đối tượng địa lí. Cách định hướng trên bản đồ đã thay đổi theo các giai
đoạn khác nhau của khoa học địa lí và khoa học bản đồ. Thời trung đại, các bản đồ thường được bố
trí hướng đông trên.
Bắt đầu từ thế kỉ XIV cách định hướng bản đồ theo phương Bắc ở trên đã được đưa vào bản đồ hàng
hải. Cho đến nay cách định hướng đó đã được ghi nhận và là cơ sở cho định hướng bản đồ.
Như vậy muốn định hướng chính xác trên bản đồ, phải dựa vào các đường kinh, vĩ tuyến. Riêng đối
với bản đồ tỉ lệ lớn, vẽ một khu vực nhỏ bé, trên đó không vẽ đưòng kinh, vĩ tuyến, người ta xác định
bằng cách đặt một mũi tên chỉ hướng bắc ở một góc của bản đồ.
Bài 5
HỆ THỐNG KÍ HIỆU TRÊN BẢN ĐỒ
Hệ thống kí hiệu trên bản đồ là phương tiện đặc biệt biểu hiện toàn bộ hay những khía cạnh nhất định
của các hiện tượng địa lí. Hệ thống kí hiệu trên bản đồ đuợc xây dựng một cách khoa học, đã tạo nên
một ngôn ngữ đặc biệt – đó là ngôn ngữ bản đồ. Ngôn ngữ bản đồ giúp cho người biên vẽ thành lập
được bản đồ và giúp cho người đọc sử dụng được bản đồ theo đúng mục đích và nội dung của nó.
Hệ thống kí hiệu có tính chất quy ước và được biểu hiện dưới hình thức khác nhau. Song việc xây
dựng hệ thống kí hiệu này phải dựa trên thực tế khách quan và những nguyên tắc khoa học nhất định.
I Hệ thống kí hiệu trên bản đồ th-ờng chia thành ba loại : Kí hiệu điểm, kí hiệu đường
(tuyến) và kí hiệu diện tích
1. Kí hiệu điểm : Dùng để biểu hiện những sự vật, hiện tượng địa lí phân bố theo những điểm riêng
biệt (như cột mốc địa giới, một mỏ khoáng sản, 1 ngọn hải đăng v v…). Đó là những đối tượng có
diện tích nhỏ khi biểu hiện trên bản đồ không thể biểu hiện trên đường viền của chúng. Loại kí hiệu
này được dùng để xác định vị trí của sự vật, hiện tượng là chính, do các đối tượng địa lí có diện tích
quá nhỏ nên không thể biểu hiện theo tỉ lệ bản đồ được. Đây là kí hiệu phi tỉ lệ, vị trí của sự vật, hiện
tượng địa lí thường là tâm của kí hiệu hình học.
2. Kí hiệu đường (tuyến) : Dùng để biểu hiện các sự vật, hiện tuợng địa lí phân bố theo chiều dài
là chính như : đường địa giới, đường bờ biển, đường giao thông, sông ngòi … Kí hiệu tuyến cho

phép thể hiện chiều dài dúng với tỉ lệ bản đồ và thể hiện được dạng của đối tượng địa lí. Còn chiều
rộng của kí hiệu, thường phải vẽ phi tỉ lệ mới thể hiện được rõ đối tượng.
Dạng đặc biệt của loại kí hiệu này là các đường đẳng trị, như các đường đồng mức, đường đẳng
nhiệt, đường đẳng sâu…
3. Kí hiệu diện tích : Dùng để biểu hiện các sự vật, hiện tượng địa lí phân bố theo diện tích như : đất
trồng, rừng, đầm lầy, vùng trồng lúa… Toàn bộ diện tích có các đối tượng địa lí được vẽ theo tỉ lệ
bản đồ và giới hạn bởi đường biên ngoài của nó bằng những nét vẽ đứt hay những nét vẽ liền. Trong
khu vực đó có thể biểu thị bằng các kí hiệu tượng hình, hay tô màu… Như vậy, kí hiệu diện tích
không chỉ thể hiện vị trí, diện tích của các sự vật, hiện tượng mà còn thể hiện được chất lượng của sự
vật, hiện tượng địa lí nữa.
II. Các dạng kí hiệu bản đồ
1. Kí hiệu tượng hình : Là hình vẽ gần đúng một bộ phận hay toàn bộ hình dạng bên ngoài của sự
vật, hiện tượng. Loại kí hiệu này thể hiện một cách sinh động các sự vật, hiện tượng địa lí, giúp
người đọc dễ nhận ra sự phân bố không gian của các đối tượng thể hiện. Hạn chế của kí hiệu tượng
hình là khó so sánh và khó xác định vị trí chính xác của đối tượng.
2. Kí hiệu chữ : Dùng chữ cái hoặc các chữ viết tắt tên các sự vật, hiện tượng để biểu hiện các sự
vật, hiện tượng địa lí trên bản đồ. Dạng kí hiệu này thường dùng thể hiện sự phân bố của các mỏ
khoáng sản, ví dụ : Fe – mỏ sắt, Cu – mỏ đồng, Al – mỏ nhôm. Kí hiệu chữ không thể hiện đuợc
chính xác vị trí các đối tượng thể hiện, hơn nữa việc so sánh độ lớn của các kí hiệu này rất khó khăn.
3. Kí hiệu hình học : Dùng các hình hình học (hình vuông, hình tròn, hình tam giác…) để thể hiện
các đối tượng địa lí. Dạng kí hiệu này phản ánh chính xác vị trí các đối tượng, thể hiện các yếu tố nội
dung lớn, nhỏ, sử dụng màu sắc và cấu trúc bên trong khác nhau cho các kí hiệu.
Hệ thống kí hiệu bản đồ còn bao gồm màu sắc, chữ viết trên bản đồ, nên rất phong phú, đa dạng, thể
hiện vị trí, số lượng, thể hiện những đặc tính chất lượng của sự vật, hiện tượng địa lí.
Bài 7
SỰ VẬN ĐỘNG TỰ QUAY QUANH TRỤC
CỦA TRÁI ĐẤT VÀ CÁC HỆ QỦA
1. Vì sao trục Trái đất nghiêng khi tự quay
Trái Đất tự quay quanh một trục nghiêng tưởng tượng gọi là địa trục. Địa trục tiếp xúc với bề mặt
Trái Đất ở hai đầu là cực Bắc và Nam. Địa cực là nơi gặp nhau của các kinh tuyến nơi vĩ tuyến chỉ

còn là một điểm (90
o
). ở đây trong 24 giờ không có sự khác biệt ngày đêm, không có sự phân biệt bốn
mùa, quanh năm băng tuyết phủ kín.
Khi ta đứng ở cực Bắc, ngửa mặt lên bầu trời, sẽ thấy sao Bắc Cực ở ngay trên đỉnh đầu (Sao Bắc cực
chỉ cách Bắc Thiên cực 57’58”)
Trong nửa năm mùa hạ, Mặt Trời chuyển dịch (vận động biểu kiến) thành vòng tròn rất thấp ở chân
trời. Đó là ngày địa cực. Tại Bắc cực, ngày địa cực kéo dài 186 ngày đêm (thời gian này là mùa nóng
của bán cầu Bắc). Còn lúc này tại cực Nam thì đêm kéo dài 179 ngày đêm nên gọi là đêm địa cực.
Trên cực Bắc, nếu bạn đi về phía nào, cũng đều là hướng Nam ; không có hướng Đông, hướng
Tây và hướng Bắc.
Khi ta đứng ở địa cực Nam, ngửa mặt lên bầu trời sẽ thấy sao Nam cực quanh năm nằm trên đỉnh
đầu, ánh sáng của nó yếu hơn sao Bắc cực. ở đây cũng có nửa năm là ngày và nửa năm là đêm. ở trên
điểm cực Nam, đi về hướng nào cũng đều là hướng Bắc cả....
Vì sao trục Trái Đất lại nghiêng ? Các nhà thiên văn đã đưa ra nhiều giả thuyết về hiện tượng kì lạ
này, trong đó giả thuyết của nhà thiên văn Saphrônốp – Liên Xô (cũ) được nhiều người chú ý. Theo
ông, sau khi Trái Đất hình thành không lâu, có những hành tinh nhỏ, thể tích không giống nhau,
thường xuyên rơi xuống bề mặt Trái Đất. Lúc này, Trái Đất chưa được lớp khí quyển che chở, nên
các hành tinh đã va chạm với Trái Đất, gây chấn động mạnh. Trong đó, ngay từ thời kì đầu, một
hành tinh nhỏ có thể tích bằng khoảng 1% thể tích Trái Đất, đường kính khoảng 1000 km, với khối
lượng ước tính khoảng 1 tỉ tấn, bay với vận tốc 11km/giây, đột nhiên va mạnh vào Trái Đất. Đòn chí
mạng này đã làm cho trục của Trái Đất bị nghiêng đi 23
o
27’ – Nhiệt độ khi va chạm sinh ra khiến cho
nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng lên đến 1000
o
C. Theo ông, cú va chạm mạnh của tiểu hành tinh trên đã
ảnh hưởng không nhỏ tới Trái Đất, đã làm cho cảnh quan cũng như các đới khí hậu trên trái đất có
đặc điểm như bây giờ.
2. Thời gian quay đúng một vòng của Trái Đất là bao nhiêu

Thời gian ta quan sát trên Trái Đất nhìn thấy Mặt Trời hai lần xuất hiện ở cùng một vị trí trên bầu trời
được quy ước là một ngày đêm (24 giờ). Thời gian đó không phải là thời gian quay đúng một vòng
của Trái Đất. Bởi vì đồng thời với vậnđộng tự quay, Trái Đất cùng di chuyển trên quỹ đạo quanh Mặt
Trời. Khi Trái Đất tự quay được một vòng trọn vẹn, thì nó cũng đã di chuyển được một khoảng cách
nhất định trên quỹ đạo. Lúc đó, Mặt Trời chưa xuất hiện ở vị trí cũ trên bầu trời.
Để thấy được vị trí xuất hiện ban đầu của Mặt Trời, Trái Đất phải quay thêm một thời gian bằng 3
phút 56 giây. Như vậy, thời gian quay một vòng đúng của nó chỉ dài có 23 giờ 56 phút 4 giây. Người
ta gọi thời gian đó là ngày thực, hay ngày Thiên văn.
3. Ranh giới của khu vực giờ gốc (khu vực có đường kinh tuyến đi qua đài thiên văn Grin–uýt,
nước Anh) là từ kinh tuyến 7
o
30' T đến kinh tuyến 7
o
30' Đ.
Từ khu vực giờ gốc đi về phía Đông, là các khu vực có số thứ tự tăng dần và giờ cũng sớm hơn giờ ở
các khu vực phía Tây và ngược lại.
Việt Nam lấy giờ chính thức là giờ của kinh tuyến 105
o
Đ đi qua chính giữa khu vực số 7.
Những nước có diện tích lãnh thổ nhỏ, chiều ngang hẹp như nước ta, thường chỉ có một khu vực giờ,
còn những nước có diện tích lãnh thổ lớn, chiều ngang rộng có thể có nhiều khu vực giờ thì dùng giờ
múi đi qua thủ đô nước đó làm giờ chung cho quốc gia đó. Giờ này gọi là giờ hành chính (hay còn
gọi là giờ Pháp lệnh).
* Nơi đón năm mới sớm nhất
Đường đổi ngày được Quốc tế công nhận là nơi bắt đầu một ngày mới sớm nhất trên Trái Đất và đó
cũng là tận cùng của một ngày mới trên Trái Đất. Vị trí của đường đổi ngày được quy định là đường
dọc theo kinh tuyến 180
o
đi qua Thái Bình Dương. Quy định một ngày trên Trái Đất bắt đầu từ bên
trái của đường này trở đi (có nghĩa là ở hai bên đường đổi ngày có hai ngày khác nhau). Những

đường quy định này có rất nhiều chỗ quanh co, chủ yếu là do một số quốc gia có lãnh thổ nằm trên
ranh giới này không vận dụng, vì nếu theo quy định thì trong cùng một ngày trên nước họ sẽ có 2
ngày khác nhau. VD :
– Thủ đô Nucualôpha của Tônga có vị trí ở Kinh độ 175
o
20’ thuộc múi giờ số 11 phía Tây cũng có
thể gọi là “thủ đô cực Tây của thế giới”. Nhưng do đường phân giới phải tránh chia đôi quốc gia, ng-
ời ta dịch chuyển nó sang khu vực 12 Đông.
Nên tại thủ đô Nucualôpha của Tônga ghi dòng chữ thật kiêu hãnh trên tấm biển quảng cáo du lịch :
“Đây là nơi Mặt Trời mọc sớm nhất trên Trái Đất”. Trong thành phố có nhiều khách sạn mang tên
“Khách sạn đường đổi ngày”
– Thủ đô Apia của Tây Xamoa có vị trí ở kinh độ 171
o
4’ Tây, chính ra thuộc múi giờ 11 Tây. Sau khi
đ-ờng đổi ngày bị điểu chỉnh lệch về phía Tây mới đi qua Apia. Đây là điểm cuối cùng của Trái Đất
nhìn thấy Mặt Trời lặn xuống chân trời.
Vậy, những nơi nào bắt đầu một ngày mới sớm nhất trên thế giới. Cùng với quốc đảo Tônga trên Thái
Bình Dương còn có quốc đảo Phi gi, Niu Dilan và bán đảo Sucốtki phía Đông Châu á – người dân ở
những nơi này được đón mừng năm mới sớm nhất. Nơi đón tết sau cùng là Tây Xamoa.
Cùng chung kinh tuyến 180
o
Đông và Tây, nằm trong múi giờ 12, giờ thống nhất nhưng ngày lại khác
nhau. Khi vượt qua đường này chỉ cần thay đổi lịch còn đồng hồ không cần chỉnh, giờ vẫn giữ
nguyên.
Như vậy, nếu chúng ta đi vòng quanh Trái Đất theo hướng Đông (Trái Đất tự quay từ Tây sang
Đông) sẽ được dôi ra một ngày.
4. Ý nghĩa của vận động tự quay của Trái Đất
... Khi tự quay quanh trục một vòng mất 24 h (một ngày đêm) và quay quanh Mặt Trời một vòng mất
365 ngày 6 giờ (một năm) với tốc độ 29,8 km/giây. Khi quay, trục quay của Trái Đất nghiêng với mặt
phẳng Hoàng đạo 23

o
27' và luôn nghiêng về một phía, đã tạo ra hiện tượng các mùa khí hậu. Với hình
dạng khối cầu, khi quay Trái Đất tạo ra sự phân bố nhiệt không đều trên bề mặt từ xích đạo về phía
hai cực gây nên sự chênh lệch về khí áp, tạo ra hệ thống các loại gió điều hòa nhiệt
độ Trái Đất.
Với tốc độ quay nhanh và với cái nhân chứa sắt và niken, Trái Đất đã tạo quanh mình một từ trường
cực mạnh mà không một hành tinh nào trong hệ Mặt Trời có được. Địa từ trường bao phủ không gian
quanh Trái Đất, ngăn chặn mọi tia vũ trụ có hại cho sự sống, không cho lọt xuống bề mặt Trái Đất...
Nếu trục trái đất là thẳng đứng (vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo) thì quanh năm tia nắng mặt trời
luôn thẳng góc với xích đạo, vùng xích đạo sẽ rất nóng và con người khó ở nơi đó được. Trong khi
xích đạo nóng như vậy thì tia nắng mặt trời lại tiếp tuyến với hai cực, lượng nhiệt và ánh sáng yếu ớt,
hai cực sẽ lạnh hơn nhiều so với ngày nay và băng hà sẽ lan tràn về các vĩ tuyến ôn đới. Con người
phải lùi về phía xích đạo cách chỗ ở hiện nay 2000 km. Như vậy bức tranh quần cư các dân
tộc trên thế giới chỉ thu lại một dải hẹp chứ không ở một diện rộng như ngày nay.
Cuối cùng, nếu như cùng địa điểm trên thế giới quanh năm nhận được một lượng nhiệt và ánh sáng
không đổi thì Trái Đất không có mùa nóng, lạnh.
5. Thảm họa Trái Đất sắp đối mặt
Chúng ta biết rằng Trái Đất mà chúng ta sinh sống luôn tự quay không ngừng. Tuy sự tự quay này
hiện tại không mang lại cho chúng ta cảm giác khó chịu nào, nhưng bạn có biết, do trục tự quay của
Trái Đất dịch đổi vị trí nên con người phải đứng trước những thảm họa mang tính toàn cầu.
Theo các nhà khoa học, sự dịch chuyển vị trí trục Trái Đất sẽ là nguyên nhân chủ yếu gây ra thảm
họa. Hiện nay, chúng ta đang ở vào tiền kì của thời kì sửa đổi trục Trái Đất. Cấu tạo địa chất biển đổi
và sự liên tục giLn nở có thể sẽ đưa Trái Đất vào thời kì biến động mới. Điều này làm hành tinh
chúng ta phải đối mặt với tình huống khó có thể tính trước được.
Trục Trái Đất dịch chuyển sẽ gây ra những đợt sóng thần khổng lồ. Bình quân cứ 50 vạn năm thì trục
Trái Đất dịch chuyển một lần. Theo nghiên cứu của các nhà địa chất thì rất nhiều thảm họa trong lịch
sử của Trái Đất phát sinh vào thời kì thay đổi trục và hiện nay Trái Đất đang ở trong thời kì này. Điều
này sẽ gây ra vào đầu thế kỉ sau (TK 22) những cơn địa chấn dữ dội tàn phá bờ biển phía Tây của
nước Mĩ, NewYork sẽ bị lũ lụt dìm ngập, Nhật Bản, Pháp, Tây Ban Nha, Anh... sẽ bị
những đợt sóng thần khổng lồ tấn công.

Đối với nguyên nhân gây ra sự dịch chuyển trục Trái Đất các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều giả
thuyết. Trong đó có một giả thuyết quan trọng cho rằng nguyên nhân tiềm tàng ở tầng băng phía dưới
vùng hai cực Nam, Bắc. Các nhà khoa học nhận định rằng khi chất lượng tầng băng phía trên (chỏm
băng) ở hai đầu cực đạt đến một giá trị giới hạn, nó sẽ dựa vào lực li tâm sinh ra do sự tự quay của
Trái Đất làm chuyển đổi trục Trái Đất từ phương đứng hướng sang phương ngang, thay đổi vị trí hai
cực và gây ra những thảm họa toàn cầu.
Bài 8
SỰ CHYỂN ĐỘNG CỦA TRÁI ĐẤT QUANH MẶT TRỜI
1. Khi nào Trái Đất gần Mặt Trời nhất (cận nhật)
Khi nào Trái Đất xa Mặt Trời nhất (viễn nhật).
... Quỹ đạo Trái Đất quay quanh Mặt Trời theo hình elíp. Cự li quả Đất và Mặt Trời luôn luôn biến
đổi. Các nhà thiên văn cho biết : hằng năm ngày 3 tháng giêng là ngày Quả Đất gần Mặt Trời nhất,
ngày 4 tháng 7 là ngày quả Đất xa Mặt Trời nhất. Mặt Trời là một khối cầu phát nhiệt. Theo nguyên
lí thì càng gần Mặt Trời, nhiệt độ càng nóng (tức là thời kì quả đất nóng nhất nên là tháng giêng, lạnh
nhất là tháng 7). Nhưng trên thực tế tháng giêng là mùa giá rét, còn tháng 7 là mùa hè. Vì sao lại thế.
Nguyên là sự nóng lạnh của khí hậu tuy do nguồn nhiệt hấp thụ được từ Mặt Trời nhiều hay ít quyết
định, nhưng khi quả Đất gần Mặt Trời vẫn không phải là nguyên nhân chủ yếu quyết định nhiệt
lượng thu được nhiều hay ít. Bởi vì ngày 3 tháng 1 hằng năm, quả đất cách Mặt Trời khoảng 147
triệu km, ngày 4 tháng 7 quả Đất cách Mặt Trời của hai ngày đó chỉ chênh nhau 2% (khoảng 5 triệu
km) cho nên ảnh hưởng của nhiệt lượng mà quả Đất thu được không chênh nhau lắm.
Nguyên nhân chủ yếu quyết định sự nóng lạnh của khí hậu trên Trái Đất là độ nghiêng chiếu sáng của
ánh nắng Mặt Trời lên mặt đất. Nếu độ nghiêng này càng lớn thì nhiệt lượng một đơn vị diện tích trên
Mặt Đất thu được càng ít. ánh nắng mùa Đông chiếu lên Bắc bán cầu hoàn toàn nghiêng, cộng thêm
ngày ngắn đêm dài, cho nên khí hậu giá rét, còn mùa hè ánh nắng chiếu tương đối vuông góc với Quả
Đất, cộng thêm ngày dài đêm ngắn cho nên khí hậu rất nóng.
Ở Nam bán cầu tháng giêng nóng, tháng bảy lạnh. Điều đó thực ra cũng không phải vì tháng giêng
quả Đất gần Mặt Trời, tháng 7 cách xa, mà vẫn là do độ nghiêng của ánh sáng Mặt Trời chiếu xuống
Nam bán cầu lớn hơn tháng 7...
2. Xích đạo không phải là chỗ nóng nhất
... Nhiều người cho rằng xích đạo là nơi nóng nhất, vì khu vực xích đạo Mặt Trời chiếu sáng quanh

năm. Thực ra, chỗ nóng nhất không phải là xích đạo.
Ở châu á, châu Phi, châu úc và Nam, Bắc châu Mĩ rất nhiều sa mạc rất xa xích đạo, nhiệt độ ban ngày
ở đó nóng hơn xích đạo rất nhiều... nhiệt độ cao nhất ở vùng xích đạo rất ít khi vượt quá 35
o
C, còn ở
sa mạc Xahara – châu Phi – nhiệt độ cao nhất ban ngày đạt 55
o
C, nói chung trên 40
o
C. Sa mạc ả Rập
nhiệt độ cao nhất ban ngày đạt 45
o
– 50
o
C. Sa mạc Gôbi của Trung Quốc nhiệt ban ngày cao nhất đạt
45
o
C...
Vành đai xích đạo đại bộ phận là biển. Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, ấn Độ Dương đều nằm
trong vùng xích đạo. Biển xích đạo rộng lớn, nước có đặc điểm khác với đất là truyền nhiệt xuống
dưới sâu. Đồng thời nước biển bốc hơi đòi hỏi phải tiêu phí nhiều nhiệt. Cộng thêm nhiệt dung nước
biển lớn nên nhiệt độ nước tăng cao chậm hơn mặt đất. Do đó, nhiệt độ biển ban ngày ở vùng xích
đạo tăng lên chậm, còn trên sa mạc cây ít, không có nước, nhiệt dung của đất, cát nhỏ nên nhiệt độ
tăng nhanh. Đất, cát truyền nhiệt kém, lượng nhiệt khó truyền xuống dưới sâu, sa mạc không có nước
để tiêu hao nhiệt lượng, nên nhiệt độ trên sa mạc tăng rất nhanh.
Cát bị thiêu đốt nóng bỏng. Ngoài ra mây và mưa trên xích đạo đều nhiều hơn trên sa mạc, nên buổi
chiều có mưa, như vậy nhiệt độ buổi chiều sẽ không tăng. Còn sa mạc nắng suốt ngày, rất ít mưa, do
đó nhiệt độ buổi chiều vẫn tiếp tục tăng cao.
Cho nên chỗ nóng nhất ban ngày không phải ở xích đạo mà là trên sa mạc.
3. Nơi nóng nhất thế giới, nơi lạnh nhất thế giới

– ... Trên thế giới điểm nóng nhất là Ma Sa Wa ở Xaipia châu Phi Ma Sa Wa ở bên biển Hồng Hải,
nhiệt độ trung bình tháng 1 là 26
o
C, tháng 7 là 35
o
C. Nhiệt độ trung bình cả năm là 30,2
o
C. Như vậy ở
đó tháng nào cũng nóng, ngày nào cũng là mùa hè.
Vì sao vùng đó lại nóng như thế. Mặc dù ở trên bờ biển nhưng Hồng Hải là biển nhiệt độ cao. Hơn
nữa ở đó hằng năm là gió Đông bắc từ vùng sa mạc ả Rập khô ráo thổi đến. Khu vực Ma Sa Wa lại
cao hơn mặt biển 10m, nên gió Đông bắc làm tăng thêm độ nóng vùng này, mưa rất ít.
Điểm xuất hiện nhiệt độ cao nhất trên thế giới là Xô ma li, châu Phi. ở đó nhiệt độ trong bóng mát
còn cao hơn 65
o
C, còn sa mạc Xahara châu Phi, trứng gà vùi cát của sa mạc có thể gần chín được.
Nhưng đó là cái nóng của cát chứ không phải cái nóng của sa mạc.
– ... Trên thế giới chỗ lạnh nhất là châu Nam cực, nhiệt độ bình quân năm là (–25
o
C), nhiệt độ tuyệt
đối thấp nhất là (–88
o
C) (có năm là –94,5
o
C). ở đó vì độ cao, hơn nữa là một lục địa toàn băng, đồng
thời là khu vực bão tố lớn nhất trên thế giới. Ngoài ra trên lục địa những nơi có người ở, chỗ lạnh
nhất được xem là hai vùng Uây hêzanck và Aormikhan ở Đông Xibêri – Nga. Nhiệt độ trung bình
hàng năm ở hai vùng đó là (–15
o
C), tháng 3 mùa Đông dưới –40

o
C. Nhiệt độ thấp nhất ở Uây
hêzanck là –68
o
C (1892) ở Aomikhan thấp nhất là –78oC (1933). Sở dĩ hai khu vực trên đặc biệt lạnh
vì vĩ độ và địa hình ở đó quyết định. Gió biển ấm không thổi đến được, lại bị núi bao quanh khí hậu
giá lạnh ở phía Bắc tràn thẳng vào, dừng lại ở thung lũng. Vùng này ánh nắng Mặt Trời rất ít, nhiệt
độ đã thấp lại còn cộng thêm không khí giá rét, tuyết băng bao phủ, nên quanh năm rất giá lạnh.
4. Vào ngày hạ chí (22 – 6) ở nửa cầu Bắc chưa phải là ngày nóng nhất trong năm
Ánh sáng Mặt Trời khi chiếu xuống mặt đất phải đi qua lớp khí quyển. Không khí chỉ hấp thụ được
một lượng nhiệt rất nhỏ, không đáng kể. Chỉ sau khi mặt đất hấp thụ phần lớn lượng nhiệt của ánh
sáng Mặt Trời thì không khí mới nóng lên nhờ lượng nhiệt từ mặt đất phát tán ra, gọi là bức xạ mặt
đất (bức xạ dài). Như vậy là không khí nóng lên không phải do trực tiếp thu nhận nhiệt từ ánh sáng
Mặt Trời (bức xạ sóng ngắn). Mặt đất có tích được một lượng nhiệt lớn ở Mặt Trời thì mới nóng lên
và sau đó mới có khả năng bức xạ một lượng nhiệt lớn ra không trung.
Chính vì vậy, trong một năm không khí thay đổi tùy theo lượng nhiệt của mặt đất tích lũy được nhiều
hay ít. Sau ngày hạ chí, ở nửa cầu Bắc mặt đất sau khi tích lũy được nhiều nhiệt mới có bức xạ lớn,
làm cho nhiệt độ không khí tăng cao. Thời kì nóng nhất trong năm như vậy phải vào tuần sau ngày hạ
chí. Thông thường trên lục địa, tháng nóng nhất trong năm là tháng 7. Tháng lạnh nhất là tháng 1.
5. Nếu trục Trái Đất đứng thẳng thành một góc vuông với mặt phẳng quỹ đạo thì khi Trái Đất quay
xung quanh Mặt Trời, ánh sáng Mặt Trời bao giờ cũng chiếu thẳng vào xích đạo thành một góc vuông
với mặt đất. Lúc đó, hiện tượng mùa sẽ không có ở bất cứ nơi nào trên Trái Đất. Nhiệt độ lúc nào
cũng cao nhất ở xích đạo và giảm dần về phía hai cực.
Nếu trục Trái Đất trùng với mặt phẳng quỹ đạo (nằm trong mặt phẳng quỹ đạo), thì khi Trái Đất
chuyển động tịnh tiến quanh Mặt Trời, trên bề mặt Trái Đất sẽ có hiện tượng các mùa ở khắp mọi
nơi, nhưng sự thay đổi giữa các mùa sẽ rất khốc liệt. Trong một năm, ánh sáng Mặt Trời sẽ lần lượt
chiếu thẳng góc từ xích đạo lên cả hai địa cực. Lúc đó sẽ không còn khái niệm đường chí tuyến, vùng
nội chí tuyến v.v...
Bài 9
HIỆN TƯỢNG NGÀY ĐÊM DÀI NGẮN THEO MÙA

1. Sự chệnh lệch thời gian giữa mùa nóng và mùa lạnh ở hai bán cầu
Ngoài sự chênh lệch độ dài ngắn ngày – đêm tùy theo mùa ở các địa điểm trên Trái Đất (trừ xích
đạo), vận động của Trái Đất quanh Mặt Trời còn gây nên sự khác nhau về độ dài của thời kì nóng
lạnh ở hai bán cầu. Có sự chênh lệch này vì từ 21 – 3 đến 23 – 9, Trái đất chuyển động trên quỹ đạo ở
xa Mặt Trời hơn so với thời gian từ 23 – 9 đến 21 – 3. Do vậy sức hút của Mặt Trời yếu hơn. Vận tốc
Trái Đất giảm và nhỏ nhất là 29,3km/giây. Trái Đất phải chuyển động trong 186 ngày đêm để đi hết
chặng đường này. (Đây là thời kì nóng của bán cầu Bắc). Ngược lại, từ 23 – 9 đến 21 – 3, Trái Đất
chuyển động trên quỹ đạo gần Mặt Trời hơn, sức hút của Mặt Trời mạnh hơn nên vận tốc của Trái
Đất tăng, lớn nhất là 30,3km/giây. Vì thế Trái Đất chỉ mất 179 ngày đêm để thực hiện nốt quãng
đường còn lại (Đây là thời kì nóng của bán cầu Nam).
2. Sự thay đổi nóng, lạnh ở Bắc bán cầu lớn hơn ở Nam bán cầu
Trong một năm, nhiệt lượng Mặt Trời tỏa xuống Bắc bán cầu và Nam bán cầu gần như bằng nhau.
Xét về mặt lí thuyết thì nhiệt độ ở 2 bán cầu cũng phải gần giống nhau. Nhưng trên thực tế nhiệt độ
trung bình của từng bán cầu lại rất không giống nhau.
+ Nhiệt độ trung bình Bắc bán cầu tháng 1 là 8,1
o
C ; Tháng 7 là 22,4
o
C chênh lệch nhau 14,3
o
C.
+ Nam bán cầu tháng 1 là 17
o
C, tháng 7 là 9,7
o
C chỉ chênh lệch 7,3
o
C.
+ Nhiệt độ trung bình ở vĩ độ 40
o

B tháng 1 là 5
o
C, tháng 7 là 24
o
C chênh lệch nhau 19
o
C.
+ Nhiệt độ trung bình ở vĩ độ 40
o
N tháng 1 là 15,6
o
C, tháng 7 là 9
o
C chỉ chênh lệch nhau 6
o
C .
Như vậy, trong điều kiện bức xạ của Mặt Trời như nhau nhưng có thể xẩy ra những sự thay đổi
nóng, lạnh khác nhau ở hai bán cầu. Nguyên nhân đó là : Diện tích của bán cầu Bắc và Nam bán cầu
bằng nhau, nhưng sự phân bố đại dương và lục địa của hai bán cầu thì lại rất khác nhau. Lục địa ở
Bắc bán cầu rất lớn, còn ở Nam bán cầu thì rất bé. Diện tích lục địa ở Bắc bán cầu chiếm 39%, đại
dương chiếm 61%. Còn diện tích lục địa ở Nam bán cầu chỉ chiếm 19%, diện tích đại dương chiếm
81%, Do diện tích đại dương Nam bán cầu lớn. Về mùa hạ, khi bức xạ nhiệt Mặt Trời lớn nhất thì đại
dương đã tích lũy được một lượng nhiệt khá lớn.
Về mùa Đông bức xạ Mặt Trời yếu, thì lại nhả ra rất nhiều nhiệt đã tích lũy được. Do vậy, mùa hè
không nóng lắm, mùa đông không lạnh lắm. Sự thay đổi hàng năm giữa mùa nóng và mùa lạnh
không lớn như ở Bắc bán cầu.
3. Hiện tượng “Đêm trắng” ở các vùng có vĩ độ cao
Đêm trắng là thuật ngữ dùng để chỉ hiện tượng ban đêm trời không tối hẳn như bình thường, mà có
tình trạng tranh tối, tranh sáng như lúc hoàng hôn.
Hiện tượng này chỉ xảy ra ở các vùng có vĩ độ cao về mùa hạ, khi ngày dài hơn đêm rõ rệt. Ví dụ :

Thành phố Xanh Pêtecbua (Liên bang Nga) nằm ở vĩ độ 60
o
B.
Ở đây về mùa hạ có ngày rất dài, vào ngày 22/6 hằng năm Mặt Trời chỉ lặn lúc 21h14’ và lại mọc lên
ở chân trời lúc 2h 46’.
Trong gần 5h đồng hồ gọi là đêm ấy, thực ra hoàng hôn chỉ vừa mới tắt, thì bình minh đã ló rạng. Vì
vậy người ta gọi là đêm trắng.
Ở vùng vĩ độ cao trên vùng cực (từ vĩ độ 66o33’ đến cực) có ngày Mặt Trời chưa kịp lặn xuống chân
trời, đã lại mọc lên ngay, nghĩa là hoàn toàn không có đêm. ở vùng này mùa hạ có đêm ngắn bao
nhiêu, thì mùa đông có đêm dài bấy nhiêu.
Nguyên nhân của tất cả các hiện tượng trên là do độ nghiêng của trục Trái Đất trên mặt phẳng quỹ
đạo trong quá trình vận động của Trái Đất quanh Mặt Trời sinh ra.
4. Hiện tượng gì xảy ra nếu Trái Đất không chuyển động quanh trục, nhưng vẫn chuyển
động quanh Mặt Trời
Nếu Trái Đất vẫn chuyển động tịnh tiến quanh Mặt Trời, nhưng không chuyển động quanh trục, thì
lúc đó trên Trái Đất vẫn có ngày đêm, nhưng một năm chỉ có một ngày đêm, ngày sẽ dài sáu tháng và
đêm cũng dài sáu tháng đối với tất cả mọi nơi trên Trái Đất.
Ban ngày (dài sáu tháng) mặt đất sẽ tích một lượng nhiệt rất lớn và nóng lên dữ dội. Trong khi đó ban
đêm (dài sáu tháng) mặt đất lại tỏa ra một lượng nhiệt rất lớn, làm cho nhiệt độ hạ xuống hết sức
thấp. Trong điều kiện nhiệt độ chênh lệch như vậy, sự sống trên bề mặt Trái Đất như hiện nay không
thể tồn tại được.
Ngoài ra, sự chênh lệch về nhiệt độ cũng gây ra một sự chênh lệch rất lớn về khí áp giữa hai nửa cầu
ngày và đêm, dẫn đến việc hình thành những luồng gió mạnh không sao tưởng tượng nổi trên bề mặt
Trái Đất.
Bài 10
CẤU TẠO BÊN TRONG CỦA TRÁI ĐẤT
1. Cấu tạo bên trong của Trái Đất
... Lớp trung gian của Trái Đất, còn có tên là bao Manti. Phạm vi từ đáy vỏ Trái Đất tới độ sâu 2900
km. ở ranh giới phía giữa của bao Manti, nhiệt độ là 2000 – 2500
o

, áp suất là 1,4 triệu atmôphe. Bao
Manti có lẽ đ-ợc cấu tạo bởi các đá siêu bazơ như đunít và pêriđôtít giàu ôlicin và pirôxen... Trong
lớp trung gian của Mặt Đất, Manti trên không đồng nhất về mặt cấu tạo, vì vậy rất có thể nó là nơi bắt
nguồn của các quá trình kiến tạo, tâm động đất và lò măcma. Cùng với vỏ Trái Đất nó tạo nên quyển
kiến tạo...
Một trong những đặc điểm quan trọng của Trái Đất là một hành tinh còn đang hoạt động. Từ một
thiên thể nóng bỏng ban đầu, mặt ngoài (lớp vỏ) của Trái Đất nguội dần tạo thành lớp vỏ cứng của
Trái Đất, dày khoảng 30 km. Lớp vỏ này gồm nhiều mảng ghép lại, gọi là "các mảng nền", có khoảng
bảy mảng lớn và hơn chục mảng nhỏ. Chúng trôi trượt, va đập vào nhau ở bên trên. Lớp bao vẫn còn
nóng chảy ở nhiệt độ 1.000
o
C, dày khoảng 2900 km với thành phần chủ yếu là sắt (90%) và các
nguyên tố nhẹ (10%)...
Sự trôi trượt và chuyển dịch liên tục của các mảng nền trên lớp bao làm cho bề mặt Trái Đất luôn
biến đổi không ngừng... Các hoạt động bên trong của Trái Đất liên tục gây nên các hiện tượng núi lửa
phun, động đất và tạo nên các dãy núi cao, các vết nứt sâu, các vực biển,... Cùng với các lực tác động
bên ngoài như xói mòn đất đai, địa hình của nước, của gió, của sóng biển, sự bồi đắp đồng bằng ven
biển, sự vỡ vụn của đá do nhiệt độ không khí biến động... đã làm thay đổi bề mặt Trái Đất
và vẫn còn đang tiếp diễn cho tới ngày nay.
2. Thuyết kiến tạo giải thích lớp vỏ Trái Đất (thạch quyển) cấu tạo nên các lục điạ và đại dương gồm
7 mảng lớn lại có các mảng nhỏ. Những đại mảng có chiều dày từ một vài km tới 80 km lại nằm trên
lớp vật chất dẻo, đàn hồi (Manti) nên dễ dàng di chuyển theo chiều ngang chiều dọc với tốc độ tối đa
đạt đến 18 cm/ năm. Các mảng địa lục có thể di chuyển xích lại gần nhau, hoặc xa dần.
a) Các mảng xích gần nhau, va chạm nhau.
– Nếu 2 mảng đều nằm dưới đại dương, khi va chạm vào nhau thì một mảng đâm chúc xuống và đội
mảng kia lên. Mảng đâm chúc bị chìm sâu trong lớp Manti, sâu tới vài trăm km làm cho ngoài rìa bị
nóng lên, chảy ra và hậu quả là :
+ Gây nên sự động đất rất mạnh ở nơi xảy ra sự va chạm giữa hai mảng.
+ Sinh ra hố sâu dưới đại dương như hố sâu Phi líp pin, hố sâu Ma ri an (quần đảo Ma ri an) sâu trên
11 km.

+ Sinh ra các đảo Vòng Cung cách xa bờ lục địa vài trăm km. Các đảo Vòng Cung đều là các đảo núi
lửa. Đó là các bộ phận của các mảng bị đội lên, vỡ ra, trong khi đó có mảng bị chìm, nóng chảy cung
cấp dung nham cho núi lửa hoạt động.
– Những mảng trên lục địa khi va chạm cũng sinh ra các hiện tượng động đất, núi lửa như trường hợp
khi cả hai mảng đều nằm dưới đại dương.
Các mảng chuyển động xích lại nhau cũng có thể ở dạng cọ sát vào nhau theo hướng ngược chiều
nhau.
VD : Mảng Bắc Mĩ chuyển động theo hướng Nam – Đông nam, trong khi mảng Thái Bình dương
nằm sát nhau lại theo hướng Bắc – Tây bắc, chuyển dịch có tốc độ 5 cm/ năm. Cứ như vậy sẽ có một
ngày thành phố Lốt-Angiơ-lét và thành phố XanPranxitcô (Mĩ) sẽ không còn là hai thành phố cạnh
nhau nữa mà là cách xa nhau.
b) Các mảng nền dịch xa nhau
Hai mảng dịch chuyển xa nhau sinh ra hố ngăn cách là nơi yếu của vỏ Trái Đất và từ đó có sự xâm
nhập của các mác ma nóng chảy trong lòng Trái Đất đi lên, tạo
thành các dãy núi ngầm ở đáy đại dương, điển hình là dãy núi ngầm nằm ở giữa Đại Tây Dương chạy
hướng Bắc – Nam. DLy núi này là kết quả của sự di chuyển xa dần của mảng Âu Á với mảng Bắc
Mĩ, giữa mảng Phi với mảng Nam Mĩ. Đảo Ai-xơ-len là đảo núi lửa nằm ở đầu phía Bắc dãy núi
ngầm này, đất trên đảo bị nứt toác, vết nứt dài nhiều km, mỗi năm lại rộng vài milimét. Các chuyên
gia kiến tạo cho rằng trên bản đồ Kiến tạo mảng Âu – Á nằm xa đường tiếp xúc giữa các mảng nên
không xảy ra các trận động đất lớn như ở Cô-bê, ở Xa-kha-lin thuộc vào khu vực nằm trên đường tiếp
xúc giữa các mảng.
Dãy núi Hy-Ma-Lay-A ngày nay thuộc dãy núi trẻ nhất và cao nhất thế giới. Dãy núi này được hình
thành cách đây 25 triệu năm do sự dịch chuyển gần lại nhau của mảng Âu – Á và mảng Ấn – úc. Sự
dịch chuyển gần lại nhau xảy ra theo nhiều chu kì mạnh xen lẫn chu kì yên tĩnh. Thời kì mạnh
Hymalaia được nâng lên cao tới 17,2 cm/năm. Tuy nhiên trong 25 triệu năm tạo sơn, sức phá hoại của
ngoại lực cũng đã phá huỷ với cường độ lớn, nếu không dãy núi sẽ cao gấp hai lần ngày nay…
Bài 12
TÁC ĐỘNG CỦA NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC
TRONG VIỆC HÌNH THÀNH ĐỊA HÌNH BỀ MẶT TRÁI ĐẤT
1. Động đất

Nguyên nhân trực tiếp gây nên động đất là do nham thạch ở nơi đó bị đứt gẫy.
Hầu hết các trận động đất xảy ra đều do nham thạch ở dưới đất xảy ra những đứt gãy mới, hoặc là
những đứt gãy vốn có nay lại xảy ra chuyển động ma sát. Rất nhiều trận động đất mạnh đều xảy ra ở
những nơi dưới đất có đứt gãy. Khi nham thạch ở dưới đất, nơi đó đã chịu lực tới mức gần bị phá vỡ,
thì tác dụng lực hút của Mặt Trăng, sự thay đổi áp lực khả năng thúc đẩy sự phá vỡ thêm, và có tác
dụng dẫn đến động đất.
Trước đây người ta quan niêm động đất là một hiện tượng thiên tai, hiếm xảy ra.
Song ngày nay, nhờ các máy địa chấn, người ta ghi được mỗi năm có tới 100.000 trận động đất, trong
đó những trận động đất mà con người cảm nhận được là 10.000 lần (10%). ở Nhật – một quốc gia
xảy ra nhiều động đất thì cứ trung bình 7,5 năm lại có 1 lần động đất mang tính phá hoại.
Trên thế giới, hiện tượng động đất tập trung ở những nơi có sự tiếp xúc giữa các mảng của lớp vỏ
Trái Đất và tạo nên các vành đai rõ rệt như vành đai Thái Bình Dương bao gồm dọc theo Tây Bắc Mĩ,
Tây Nam Mĩ, bờ đông của lục địa thứ 2 chạy qua miền núi An– pin– Côcadơ ở Nam Âu qua dãy núi
Hymalaya ở Bắc Ấn Độ. Vành đai này có tên là Vành đai Âu – Á.
Hầu hết các trận động đất trên thế giới đều tập trung ở 2 vành đai trên, Vành đai Thái Bình Dương
chiếm 80%, Vành đai Âu – Á 15% số trận động đất trên thế giới. Còn lại 5% là ở các vành đai phụ :
Vành đai Đại Tây Dương, Vành đai Đông Phi nơi có đường đứt gãy lớn sinh ra nhiều hồ và Hồng
Hải.
2. Động đất sinh ra sóng thần
Vành đai núi lửa Thái Bình Dương rất lớn, nó chiếm 1/2 diện tích Trái Đất. ở đáy Thái Bình Dương
có rất nhiều vùng đất lõm sâu tới trên 8000 m, khe biển sâu nhất tới 11034 m. ở đó vỏ Trái Đất rất
mỏng, rất nhiều vùng dày không đến 10 km, trong khi độ dày trung bình của vỏ Trái Đất ở đại lục
bao quanh lên tới khoảng 35 km. Đặc điểm kết cấu của vỏ Trái Đất như vậy đã làm cho Thái Bình
Dương là nơi tập trung núi lửa.
Trong khoảnh khắc, mặt nước biển vồng lên gây sóng. Đó là giai đoạn một của hiện tượng xảy ra trên
bờ mặt của tâm động đất cách bờ biển vài cây số. Ở ngoài khơi, mặt nước biển vồng lên, rút nước
vùng ven bờ thấp đi so với mặt nước bình thường khoảng 10 m. Vào giai đoạn 2, nước rút ra lập tức
quay vào bờ tạo nên những sóng lớn có thể cao tới 10 m và có sức phá hoại ghê gớm mà người ta gọi
là sóng thần.
Khi sóng thần xô vào bờ, gặp đáy bờ nông thì độ cao của sóng tăng lên tràn qua cả những lèn đá cao

30 m rồi đổ vào sâu trong đất liền. Còn ở ngoài khơi, sóng thần có thể xuất phát lan truyền với tốc độ
800 km/h, độ dài của sóng có thể tới 100km. Vì sóng dài như vậy nên khi có sóng thần các tàu biển
cũng không cảm nhận nổi. Sóng thần có thể truyền đi rất xa, xuyên qua Thái Bình Dương và đi tới
những vùng khác của đại dương thế giới. Ví dụ năm 1883, núi Kra ca tao ở Inđônêsia hoạt động và
sinh ra sóng thần. Khi mới phát sinh, sóng có độ dài 524 km, lên xuống trong chu kì 10 h và truyền đi
với tốc độ 189m/s. Sóng truyền tới bờ biển nước Anh sau 32h30’.
Sóng thần do động đất sinh ra đã gây nên những thiệt hại không kém động đất.
Năm 1724, động đất ở Lima, thủ đô Pêru sinh ra sóng thần. Sóng cao 27 m, quét vào bờ, tàn phá cả
thành phố và cảng Calô. Ngọn sóng cao hơn cả các thành quách và nhà cửa, 23 chiếc tàu lớn neo đậu
trong cảng bị phá tan tành, có những tàu bị sóng hất vào trong bờ rất xa. Thành phố Lima đổ nát, lại
bị sóng thần đưa cát, cuội, sỏi lấp kín các nhà cửa, đường xá và các công trình công cộng. Thành phố
có 4900 người thì chỉ có 200 người thoát chết.
Ngày 21 – 5 – 1960, động đất xảy ra ở Chi lê và cũng sinh ra sóng thần ập vào thành phố Van–đi–vi
–a, rối sau đó sinh ra sóng phản hồi đi tới bên kia Thái Bình Dương với tốc độ 700 km/h quét vào bờ
biển Haoai, Niu Dilân, Ôxtrâylia, Philipin, Đài Loan. Sóng thần làm 1/4 dân cư Chilê (2 triệu người)
mất nhà cửa. ở bờ biển Nhật Bản, nhà cửa, tàu biển bị hất vào xa trong bờ từ 1 đến 2 km, hơn 2000
tàu thuyền bị đắm trong các bến cảng.
3. Nhật Bản và Hawai có nhiều núi lửa
+ Vị trí Nhật Bản vừa đứng ở bên bờ Thái Bình Dương. Nhật Bản cùng với quần đảo Aleutian, quần
đảo Kuril và quần đảo Philipin cùng với bờ biển phía tây của châu Mĩ nối thành một đường vòng
cung, tạo nên "Vành đai núi lửa Thái Bình Dương" nổi tiếng. Trong dải đất này phân bố tới hơn 200
núi lửa sống, là vùng núi lửa hoạt động nhiều nhất, mLnh liệt nhất trên thế giới. Trên thực tế những
đảo này thường là những núi lửa dưới đáy biển "nhô đầu" lên khỏi mặt nước, dưới chân núi có rất
nhiều khe sâu, nơi đấy chính là dải đất mà vỏ Trái Đất có thay đổi đặc thù về dày mỏng, đồng thời lại
có những đứt gãy to lớn. Vì vậy măcma rất dễ theo vết đứt gãy tràn lên trên, tạo thành từng đợt từng
đợt núi lửa phun.
+ Quần đảo Hawai ở trung tâm Thái Bình Dương cũng là một dải đất mà vỏ Trái Đất dưới biển không
ổn định ; núi lửa từ đáy biển sâu 4000 – 5000 m phun lên tích lũy lâu dài tạo nên quần đảo này. Đảo
Hawai – đảo lớn nhất trong quần đảo là do năm núi lửa nóng chảy hợp lại mà thành. Độ đặc tính của
dung nham ở đây nhỏ nên miệng núi lửa có thể thường xuyên thông suốt, vì vậy núi lửa tương đối

"yên tĩnh lịch sự", chúng rất ít khi phun mãnh liệt, dung nham thường từ miệng núi lửa chảy ra bốn

×