Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

dua can

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.52 KB, 6 trang )

Các bài thuốc từ Dừa cạn và cây chum ngây
Cập nhật ngày 21/9/2009 lúc 9:42:00 PM. Số lượt đọc: 336.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, dừa cạn có thể hỗ trợ trị ung thư, chống sự
phân chia tế bào, tỏ ra có hiệu quả đối với ung thư bạch huyết, ung thư ruột già. Theo
Đông y, dừa cạn có tác dụng làm săn, chống viêm, hạ áp, được sử dụng để điều trị một số
bệnh: viêm đại tràng, khí hư bạch đới, tăng huyết áp, viêm nhiễm phần phụ, kinh bế, zona,
phong ngứa, đái tháo đường, vàng da
Thông tin chung
Tên thường gọi: Dừa cạn
Tên khác: bông dừa, hoa hải đằng, nhạn lai hồng, nhật nhật tân, Trường xuân hoa.
Tên tiếng Anh: Periwunkle Herb
Tên khoa học: Cantharanthus roseus (L.) G. Don
Tên đồng nghĩa: Vinca rosea L., Ammocallis rosea, Lochnera rosea
Thuộc họ Trúc đào - Apocynaceae.
Hoa Dừa cạn - Cantharanthus roseus, ảnh theo nongnghiep.vn
Mô tả
Cây thảo cao 0,40-0,80m, phân thành nhiều cành. Lá mọc đối, hình thuôn dài, dài 3-8cm,
rộng 1-2,5cm. Hoa mọc đơn độc ở nách lá phía trên, màu hồng hay trắng; đài 5, hợp thành
ống ngắn; tràng 5, dạng chén; nhị 5, thọt vào trong ống tràng; nhuỵ gồm 2 lá noãn hợp
nhau ở vòi. Quả gồm 2 đại, hơi choãi ra, mỗi cái chứa 12-20 hạt nhỏ, hình trứng, màu nâu
nhạt, xếp thành 2 dãy.
Dáng cây đẹp, mềm mại, lá xanh mướt, hoa rực sáng, đấy là những nét đặc trưng tạo được
sự hấp dẫn của loài cây này.
Mùa hoa tháng 6-9.
Bộ phận dùng
Toàn cây - Herba Catharanthi Rosei; ở Trung Quốc gọi là Trường Xuân hoa.
Nơi sống và thu hái
Cây của châu Mỹ nhiệt đới được truyền vào nước ta, mọc tự nhiên, sinh trưởng tốt ở các
bãi cát ven biển, phát triển cả vào mùa hè. Thường được trồng làm cảnh. Thu hái quanh
năm, rửa sạch thái nhỏ dùng tươi hay phơi khô; rễ thu về rửa sạch, phơi hay sấy khô.
Dừa cạn là cây trồng làm cảnh phổ biến, ảnh theo dic.academic.ru


Thành phần hoá học
Dừa cạn Việt Nam có tỷ lệ alcaloid toàn phần là 0,1% tới 0,2%, Dừa cạn hoa trắng có tỷ lệ
hoạt chất cao hơn các loại khác. Rễ chứa hoạt chất (0,7-2,4%) nhiều hơn trong thân
(0,46%) và lá (0,37-1,15%). Các chất chủ yếu là vinblastin, vincristin, tetrahydroalstonin,
pirinin, vindolin, catharanthin, vindolinin, ajmalicin…
Tính vị, tác dụng
Dừa cạn có vị hơi đắng, tính mát, có độc, có tác dụng hoạt huyết, tiêu thũng, giải độc, hạ
huyết áp và an thần.
Công dụng, chỉ định và phối hợp
Người ta thường dùng Dừa cạn làm thuốc kìm tế bào và được chỉ dẫn trong điều trị bệnh
Hodgkin, bệnh bạch cầu lymphô cấp, một số ung thư. Trong dân gian vẫn dùng trị cao
huyết áp, trị bệnh đái đường, điều kinh, chữa tiêu hoá kém và chữa lỵ, thông tiểu tiện, chữa
bệnh đi tiểu đỏ và ít. Có người dùng trị ung thư máu, ung thư phổi.
Cách dùng
Dùng thân và lá Dừa cạn phơi khô 8-20g có thể dùng tới 50g (dạng thuốc sắc, cao lỏng
hoặc viên nén từ cao khô). Trong Tây y người ta chế thành thuốc tiêm.
Đơn thuốc
Trị bệnh bạch cầu lymphô cấp
Dùng 15g dừa cạn sắc nước uống.
Ta đã chiết được vinblastin từ lá Dừa cạn và dưới dạng thuốc tiêm vinblastin sulfat để chữa
bệnh này.
Trị huyết áp cao
Dùng Dừa cạn 12g, Hy thiêm 9g, Thảo quyết minh 6g và Bạch cúc 6g, sắc uống.
Trị bỏng nhẹ
Trong dân gian người ta dùng lá giã nát đắp lên những vết bỏng (chú ý chỉ đắp trong
trường hợp không trợt da, bỏng nhẹ) làm mát da thịt, giảm đau, chống bội nhiễm.
Điều trị zona
Dừa cạn (sao vàng hạ thổ) 16g, thổ linh 16g, bạch linh 10g, kinh giới 12g, chi tử 10g, nam
tục đoạn 16g, cam thảo đất 16g, hạ khô thảo 16g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần, uống 3
lần. Thuốc đắp: lá dừa cạn, lá cây hòe. Hai thứ lượng bằng nhau, giã nhỏ đắp lên các tổn

thương, băng lại. Tác dụng: làm giảm đau nhức.
Điều trị khí hư bạch đới
Dừa cạn 12g, rễ cây bạch đồng nữ 16g, biển đậu 16g, đan sâm 16g, cây chó đẻ 16g, lá bạc
sau 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Trà dược cho bệnh nhân tăng huyết áp: Dừa cạn 160g, lá
đinh lăng 180g, hoa hòe 150g, cỏ xước 160g, đỗ trọng 120g, chi tử 100g, cam thảo đất
140g. Các vị sao giòn tán vụn trộn đều, bảo quản trong hộp kín tránh ẩm. Ngày dùng 40g.
Hãm nước sôi vào ấm chuyên, sau 10 phút có thể dùng được. Uống thay trà trong ngày.
Công dụng: an thần hạ áp, làm bền vững thành mạch, êm dịu thần kinh, phòng chống và
ngăn ngừa những tai biến có thể xảy ra.
Phụ nữ bị bế kinh
Đau bụng, có khi đau lăn lộn, mặt đỏ, bụng dưới căng đầy, tính tình cáu gắt. Bài thuốc:
dừa cạn (phơi khô) 16g, nga truật 12g, hồng hoa 10g, tô mộc 20g, chỉ xác 8g, trạch lan 16g,
huyết đằng 16g, hương phụ 12g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Lỵ trực trùng
Đi ngoài nhiều lần, bụng đau từng cơn, phân có chất nhầy, có máu mũi, sút cân nhanh.
Bài thuốc: dừa cạn (sao vàng hạ thổ) 20g, cỏ sữa 20g, cỏ mực 20g, chi tử 10g, lá khổ sâm
20g, hoàng liên 10g, rau má 20g, đinh lăng 20g. Đổ 3 bát nước sắc lấy 1,5 bát, chia 3 lần
uống trong ngày.
Bệnh trĩ
Búi trĩ sưng đau, tiết dịch, chảy máu tươi.
Bài thuốc: dùng hoa và lá dừa cạn, lá thầu dầu tía. Hai thứ giã nhỏ đắp tại chỗ băng lại.
Đồng thời cho uống bài sau: dừa cạn (sao vàng) 20g, cỏ mực 20g, phòng sâm 16g, hoàng
kỳ 12g, đương quy 12g, bạch truật 16g, thăng ma 10g, sài hồ 10g, trần bì 10g, cam thảo
12g. Sắc 3 lần uống 3 lần, ngày 1 thang. Dùng thuốc 10 ngày liền. Nghỉ 3 - 4 ngày, sau đó
tiếp đợt 2.
Chứng tiêu khát
Khát nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, Đông y gọi là chứng tiêu khát.
Bài thuốc: dừa cạn 16g, cát căn 20g, thạch hộc 12g, hoài sơn 16g, sơn thù 12g, đan bì 10g,
khiếm thực 12g, khởi tử 12g, ngũ vị 10g. Sắc 3 lần uống 3 lần, ngày 1 thang.
U xơ tuyến tiền liệt

Dừa cạn 12g, huyền sâm 12g, xuyên sơn 10g, chè khô 12g, hoàng cung trinh nữ 5g, cát căn
16g, bối mẫu 10g, đinh lăng 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
Chùm ngây
Chùm ngây -
Moringa oleifera
Lam (
M. pterygosperma
Gaertn), thuộc họ Chùm ngây -
Moringaceae.

Mô tả: Cây gỗ nhỏ, cao tới 10m. Lá kép thường lá ba lần lông chim, có 6-9 đôi lá chét hình
trứng mọc đối. Hoa trắng có cuống, hơi giống hoa dâu, mọc thành chuỳ ở nách lá, có lông tơ; lá
bắc hình sợi. Quả nang treo, có 3 cạnh, dài 25-30cm, hoa gồ lên ở chỗ có hạt, khía rãnh dọc. Hạt
màu đen, to bằng hạt đậu Hà Lan, tròn, có 3 cạnh và 3 cánh màu trắng dạng màng.
Cây ra hoa vào tháng 1-2.
Bộ phận dùng: Rễ và toàn cây -
Radix et Herba Moringae.

Nơi sống và thu hái: Cây nguyên sản ở Ấn Độ, được trồng ở nhiều nước nhiệt đới. Thường
trồng ở các tỉnh phía nam nước ta từ Quảng Nam- Ðà Nẵng qua các tỉnh Nam Trung Bộ đến tận
Kiên Giang (Phú Quốc), trong các vườn gia đình làm rau ăn. Người ta thu hái các bộ phận của
cây quanh năm.
Thành phần hoá học: Vỏ rễ chứa gôm và 2 alcaloid là moringin và moringinin; moringin tương
đồng với benzylanin cùng có trong vỏ thân, trong vỏ thân còn có (- sitosterol. Toàn cây chứa một
lacton gọi là pterygospermin, một chất kháng khuẩn có tác dụng đối với vi khuẩn gram + và
gram - và cả vi khuẩn ưa acid. Hoa chứa base vô định hình. Hạt chứa 33-38% một thứ dầu
không màu, vị dịu, lâu hỏng, dùng ăn được và dùng trong hương liệu để định hướng một số hoa.
Tính vị, tác dụng: Rễ có tính kích thích, chuyển máu, gây trung tiện, làm dễ tiêu hoá, trợ tim và
bổ tuần hoàn, làm dịu; có tác dụng tốt đối với thần kinh và gây sẩy thai cũng như vỏ cây. Quả có
tác dụng làm giảm đau; hoa kích thích và kích dục, hạt làm dịu cơn đau. Gôm từ thân cây chảy

ra, màu trắng cũng có tác dụng làm giảm đau nhức.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Nhiều bộ phận của cây như quả, lá non, hoa, các nhánh
non đều có thể dùng làm rau ăn nhưng phải nấu chín. Ở Lào, người ta cũng dùng các nhánh non
có hoa và quả xanh dùng nấu ăn như rau. Ở Campuchia, người ta dùng lá và quả vào việc nấu
món somlo. Lá cây có tính kích thích tiêu hoá và cây có tính lợi tiểu nên cũng được sử dụng
trong điều trị bệnh lậu. Rễ là một bộ phận được sử dụng nhiều làm thuốc ở nhiều nước. Tại Ấn
Độ, rễ được dùng như là chất kích thích trong các cơn đau do bị liệt và sốt từng cơn, dùng trong
động kinh, là chất chuyển máu trong bệnh liệt và thấp khớp mạn tính, như là trợ tim và bổ cho

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×