Tải bản đầy đủ (.doc) (217 trang)

Nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.38 KB, 217 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực và có xuất xứ rõ ràng, không trùng lặp
với các công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Quốc Trị


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
1.3.
Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công
bố có liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề đặt ra luận án
cần tập trung giải quyết
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN NÂNG CAO


NĂNG LỰC GIÁO DỤC, THUYẾT PHỤC CỦA ĐỘI NGŨ
CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1.
Những vấn đề lý luận, thực tiễn năng lực giáo dục, thuyết phục của đội ngũ
chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Quan niệm, đặc điểm, những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí
đánh giá nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của đội ngũ chính
trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO
NĂNG LỰC GIÁO DỤC, THUYẾT PHỤC CỦA ĐỘI NGŨ
CHÍNH TRỊ VIÊN Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
3.1.
Thực trạng nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của đội ngũ chính
trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam
3.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao năng lực giáo dục,
thuyết phục của đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong
Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 4
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
GIÁO DỤC, THUYẾT PHỤC CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ
VIÊN Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao năng lực giáo dục, thuyết
phục của đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong Quân đội

nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2.
Những giải pháp nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của đội
ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10
10
15
25

29
29
55

80
80
101

115
115
124
158
160

161
175


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Chính trị quốc gia

CTQG

2
3

Chính trị viên
Công tác đảng, công tác chính trị

CTV
CTĐ, CTCT

4


Giáo dục, thuyết phục

GD, TP

5

Quân đội nhân dân

QĐND

6

Tổng cục Chính trị

TCCT

7

Trong sạch vững mạnh

TSVM

8

Vững mạnh toàn diện

VMTD


5


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Giáo dục, thuyết phục, nêu gương là phương pháp công tác cơ bản của
Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đó giáo dục, thuyết phục quần chúng là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của người cán bộ, đảng viên, thông qua đó để tập
hợp, lãnh đạo quần chúng đứng lên làm cách mạng. Vì vậy, để hoàn thành
nhiệm vụ, mọi cán bộ, đảng viên phải có năng lực giáo dục, thuyết phục, phải
có phương pháp giáo dục, thuyết phục.
Đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh là một bộ phận rất quan trọng trong đội
ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình
xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội, trước hết là xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Chính trị là vận
mệnh của đội quân cách mạng” [94, tr.55], “con đường chính trị là cái kim chỉ nam
của đội, chính trị viên là người nắm cái kim chỉ nam ấy” [94, tr.53], “Tư cách của
chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì
bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không
tốt” [81, tr.484]. Hiện nay, với vị trí, vai trò là người chủ trì về chính trị ở đơn vị đã
đặt ra yêu cầu cao hơn đối với đội ngũ CTV về phẩm chất, năng lực, phương pháp,
tác phong công tác, trong đó có năng lực GD, TP. Năng lực GD, TP là một trong
những bộ phận quan trọng hợp thành năng lực tổng hợp của người CTV; là yếu tố
giúp CTV có khả năng vượt trội trong giáo dục, tuyên truyền, vận động, thuyết
phục các tổ chức, cá nhân trong và ngoài đơn vị thực hiện thắng lợi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội và đơn vị.
Trải qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược,
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, đội ngũ CTV
trong quân đội đã phát huy cao độ vai trò, phẩm chất, năng lực của mình, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ
quan, từ năm 1982 đến 2005 trong quân đội không thực hiện chế độ chính ủy, CTV
mà thực hiện chế độ một người chỉ huy. Những hạn chế, bất cập của chế độ một



6

người chỉ huy đã làm suy giảm vị trí, vai trò của CTĐ, CTCT, của đội ngũ cán bộ
chính trị trong quân đội; làm giảm sút năng lực CTĐ, CTCT nói chung, năng lực
GD, TP nói riêng của đội ngũ cán bộ chính trị; không ít phó chỉ huy về chính trị cấp
phân đội không biết GD, TP bộ đội, thích dùng mệnh lệnh, các biện pháp xử phạt
hành chính, thậm chí quân phiệt với chiến sĩ.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ xây dựng
và chiến đấu của quân đội trong điều kiện mới và những bất cập của chế độ một người
chỉ huy theo Nghị quyết 27-NQ/TW của Bộ Chính trị, khóa V, tháng 7 năm 2005 Bộ
Chính trị, khóa IX ban hành Nghị quyết 51-NQ/TW “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế
độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Theo đó, hệ thống
chức danh chính ủy, CTV được khôi phục trong quân đội, từ đây vị trí, vai trò của
đội ngũ CTV tiếp tục được khẳng định trong thực tiễn xây dựng và chiến đấu của
quân đội. Sau khi khôi phục lại chế độ chính uỷ, CTV trong quân đội, đội ngũ
cán bộ chính trị nói chung, đội ngũ CTV nói riêng đã được quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn, bản thân đội ngũ CTV đã nỗ lực phấn đấu nâng
cao phẩm chất, năng lực, phong cách công tác nhằm đáp ứng yêu cầu chức trách,
nhiệm vụ, tương xứng với vị trí, vai trò là người chủ trì về chính trị của đơn vị.
Chính vì thế, năng lực công tác nói chung, năng lực GD, TP nói riêng của đội
ngũ CTV đã từng bước được nâng lên, đáp ứng tốt hơn chức trách, nhiệm vụ
được giao.
Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh được sinh ra và
trưởng thành trong thời bình, tuổi đời còn trẻ, phần lớn được đào tạo từ học sinh phổ
thông và chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự; chưa được rèn luyện, thử thách nhiều
trong những tình huống gian khổ, ác liệt nên năng lực GD, TP của đội ngũ CTV còn
bộc lộ những hạn chế. Không ít CTV không thể hiện rõ khả năng GD, TP đối với

cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền; một bộ phận CTV ngại tiếp xúc, đối thoại với bộ đội,
lúng túng trong ứng xử, giao tiếp; xử lý các mối quan hệ công tác, những vấn đề
nảy sinh trong cuộc sống một cách máy móc, cứng nhắc, xem nhẹ việc vận động,
GD, TP, thích dùng những biện pháp cưỡng chế, xử phạt hành chính quân sự theo


7

điều lệnh, điều lệ của quân đội. Hoạt động nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ
CTV ở các sư đoàn bộ binh còn hạn chế, bất cập cả về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, về
nhận thức, trách nhiệm của chủ thể, các lực lượng tham gia, về nội dung, hình thức,
biện pháp thực hiện.
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển nhanh
chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận, tư tưởng - văn hóa; các tiêu cực và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ; mặt trái cơ chế thị trường đang hằng ngày, hằng giờ tác động vào nhận thức, tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ. Trong khi đó, nhiệm vụ xây
dựng và chiến đấu của quân đội, trước hết xây dựng quân đội vững mạnh về chính
trị trong tình hình mới; yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả CTĐ, CTCT, chất
lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và phát huy vai trò nêu gương của đội
ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị, nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ
binh trong QĐND Việt Nam.
Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: “Nâng cao năng lực giáo
dục, thuyết phục của đội ngũ chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước, với mong muốn góp phần nghiên cứu làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực GD, TP của đội ngũ CTV và nâng cao năng

lực GD, TP của đội ngũ CTV trong QĐND Việt Nam trong điều kiện mới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về nâng cao năng
lực GD, TP của đội ngũ CTV; đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực GD,
TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh trong QĐND Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.


8

- Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực GD, TP
và nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh trong
QĐND Việt Nam.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số kinh
nghiệm nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh
trong QĐND Việt Nam.
- Đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao năng lực GD, TP của
đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh trong QĐND Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh
trong QĐND Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu năng lực GD, TP và nâng cao năng lực GD,
TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh đủ quân thuộc các quân khu, quân
đoàn trong QĐND Việt Nam. Tiến hành khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến chủ
yếu là cấp trên, đồng cấp, một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ ở một số sư đoàn bộ
binh đủ quân và một bộ phận học viên đào tạo CTV ở Trường Sĩ quan Chính trị.

Các số liệu điều tra, khảo sát phục vụ cho luận án được giới hạn chủ yếu từ năm
2006 đến năm 2019; các giải pháp của luận án có giá trị ứng dụng đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, xây dựng QĐND Việt Nam vững
mạnh về chính trị; về CTĐ, CTCT và chính uỷ, CTV trong quân đội.
Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ CTV, thực trạng
năng lực GD, TP, thực tiễn tiến hành GD, TP và hoạt động nâng cao năng lực
GD, TP của đội ngũ CTV; thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất,
năng lực của đội ngũ CTV trong quân đội. Các công trình nghiên cứu, tổng


9

kết thực tiễn xây dựng, chiến đấu của quân đội; các báo cáo tổng kết CTĐ,
CTCT hằng năm của các đơn vị; các số liệu điều tra, khảo sát của tác giả luận
án trong quá trình nghiên cứu thực tế.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành,
trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử,
thống kê, so sánh, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và luận giải làm rõ quan niệm năng lực GD, TP của đội ngũ
CTV ở các sư đoàn bộ binh và nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở
các sư đoàn bộ binh trong quân đội.
Khái quát một số kinh nghiệm nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ

CTV ở các sư đoàn bộ binh trong QĐND Việt Nam.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi trong các giải pháp góp
phần nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh trong
QĐND Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý
luận, thực tiễn về năng lực GD, TP, nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ
CTV ở các sư đoàn bộ binh trong QĐND Việt Nam; cung cấp thêm cơ sở
khoa học giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, CTV, người chỉ huy, cơ
quan chính trị các đơn vị vận dụng để nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ
CTV ở các sư đoàn bộ binh. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án được
sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học
ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục công trình
khoa học của tác giả đã được công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1


10

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có
liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực giáo dục,
thuyết phục, nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục
Dân chủ và giáo dục [15] của tác giả John Dewey. Trong cuốn sách, tác
giả đã phát hiện, trình bày và vận những quan niệm về giáo dục gắn với một

xã hội dân chủ; luận giải bản chất, ý nghĩa của môi trường giáo dục. Tác giả
khẳng định giáo dục như là một tất yếu của sự sống, một chức năng xã hội,
“là một quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm chút”, “là hoạt động gây ảnh
hưởng, đào tạo, uốn nắn - tức một quá trình hình thành dạng thức hoạt động
xã hội được thừa nhận” [15, tr.27]. Theo đó, tác giả đã xây dựng và phát triển
hệ thống những quan điểm toàn diện về giáo dục nhằm kiến tạo một nền giáo
dục gắn liền với cuộc sống của con người.
Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên [44] của Ph.N.Gô-nô-bô-lin.
Tác giả khẳng định: “giáo dục học là một khoa học mang tính Đảng, gắn bó
chặt chẽ với chính trị” [44, tr.5], công tác giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Mọi hoạt động của người thầy không
thể tách rời khỏi chính trị, nhiệm vụ đó chính là “xây dựng niềm tin cho thế
hệ đang lớn lên” [44, tr.7]. Theo tác giả, một người giáo viên phải có các phẩm
chất năng lực như: hiểu học sinh; truyền đạt; thuyết phục, thu hút mọi người; tổ
chức... Muốn hình thành và phát triển các năng lực đó thì phải đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển.
Giáo dục trong thực tiễn [72] của Ma-ca-ren-cô. Trong cuốn sách, tác giả
đã luận giải nhiều vấn đề về mục tiêu, phương pháp giáo dục, kỷ luật… Tác giả
cho rằng giáo dục trước hết phải có mục tiêu, “không nêu được mục tiêu thì
mọi cố gắng tổ chức tập thể đều không hy vọng thành công” [72, tr.31];
phương pháp giáo dục rất phức tạp, không cố định và tác giả coi lao động là
phương pháp giáo dục chủ yếu. Nhà giáo dục phải có thái độ chân thành, biết


11

cách kích thích lòng nhiệt tình, say mê trong người học. Trong đào tạo các nhà
giáo dục phải chú ý đến các yếu tố phong cách, hạnh kiểm, kiến thức và sự tự
tu dưỡng, rèn luyện của họ.
Tâm lý xã hội trong quản lý [61] của V.I.Lê-Bê-Đép. Trong cuốn sách,

tác giả khẳng định bên cạnh yếu tố kinh tế, hành chính thì yếu tố tâm lý xã hội
cũng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động quản lý. Trong đó, thuyết
phục là hành động tâm lý xã hội đặc trưng của con người, người quản lý muốn
thuyết phục được người khác trước hết “chúng ta phải bình đẳng với nhau,
giống như một cuộc thảo luận” [61, tr.134], để tránh dẫn đến hiện tượng tự vệ
tâm lý của người được thuyết phục. Cũng theo tác giả, nhà quản lý không phải
chỉ có một hình thức là gặp gỡ nói chuyện riêng mà còn có thể đứng trước tập
thể để thuyết phục như một nhà diễn thuyết.
Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả [109] của James
H.Stronge. Khi trình bày những vấn đề cơ bản về phẩm chất của người giáo
viên hiệu quả, tác giả đề cao vai trò của các yếu tố như năng lực ngôn ngữ,
kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy, truyền thụ kiến thức. Ngoài
ra, một người giáo viên hiệu quả phải là người biết quan tâm đến học sinh,
biết lắng nghe và tạo ra sự giao tiếp hai chiều; thể hiện sự công bằng và tôn
trọng người học. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến những kỹ năng cần
thiết khác như: quản lý và tổ chức lớp học; soạn bài và tổ chức giảng dạy;
thực hiện giảng dạy; theo dõi sự tiến bộ và đánh giá tiềm năng của người học.
Nghệ thuật lãnh đạo [137] của Trần Long Văn. Tác giả cuốn sách đã
trình bày những kinh nghiệm xây dựng và sử dụng quyền lãnh đạo; phương
pháp và nghệ thuật nắm bắt tình hình; phương pháp và trình tự quyết sách;
xây dựng tinh thần đồng đội; những tố chất mà người đứng đầu cần có…
Theo tác giả, người đứng đầu là hạt nhân trong tập thể, họ có sứ mệnh đoàn
kết, tập hợp các thành viên thành một tập thể kiên cường, bảo đảm tính trật tự
trong hoạt động. Trong hoạt động thực tiễn, người đứng đầu có vai trò định
hướng, điều tiết, tập hợp, lựa chọn và sử dụng nhân tài và vai trò nêu gương.


12

Nghệ thuật nói trước công chúng [60] của Raymond De Saint Laurent.

Trong cuốn sách, tác giả đã khái quát sự cần thiết của nghệ thuật nói, nghệ
thuật hùng biện hiện đại cũng như các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết nhằm thu hút
sự chú ý lắng nghe của các đối tượng. Tác giả luận giải người hùng biện chân
chính muốn chiếm được cử tọa, lôi cuốn cử tọa theo ý mình phải bằng những
đức tính tế nhị, thông minh, nhạy cảm và chân thành. Ngoài những nội dung
trên, tác giả cũng giới thiệu nhiều vấn đề khác nhằm giúp cho người nói hoàn
thiện kỹ năng nói của mình.
IQ trong nghệ thuật thuyết phục [90] của Kurt W. Mortensen. Tác giả
cuốn sách đã mang đến những ý tưởng và góc nhìn mới về thuyết phục. Theo
tác giả, thành công trong học tập, sự nghiệp và các mối quan hệ cá nhân phụ
thuộc rất lớn vào khả năng thuyết phục, gây ảnh hưởng và thúc đẩy người
khác; thuyết phục không phải là một kỹ năng đơn lẻ, mà là kết quả từ sự kết
hợp hài hòa của rất nhiều kỹ năng cần thiết khác. Để nâng cao khả năng
thuyết phục, mỗi người cần rèn luyện các kỹ năng như: Tư duy tích cực; hiểu
được cách nghĩ của người khác; có thái độ hòa hợp; thiết lập sự tin tưởng; biết
tạo ảnh hưởng và sự chú ý; khả năng thuyết trình và giao tiếp tiên tiến…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực giáo dục,
thuyết phục, nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục trong quân đội
Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô
1918-1973 (Tóm tắt lịch sử) [43] của A.A.Ê-pi-sép. Tác giả cho rằng nhiệm vụ
quan trọng nhất của Đảng Cộng sản trong quân đội và hạm đội ngay từ lúc đầu
thành lập lực lượng vũ trang là giáo dục chính trị cho quần chúng. Phương thức
chủ yếu để giáo dục là giải thích đường lối của Đảng và thuyết phục, “đưa việc
thuyết phục con người lên vị trí hàng đầu” [43, tr.121]. Để hoàn thành nhiệm
vụ đó, cán bộ chính trị phải được đào tạo nâng cao trình độ, nắm vững được kỹ
thuật quân sự và biết vận dụng trong thực tiễn.
Lênin bàn về giáo dục chiến sĩ Xô viết [91] của I.Đ.Mô-Snhin. Nội
dung cuốn sách chỉ rõ, thực chất của công tác giáo dục cộng sản chủ nghĩa là



13

việc xây dựng tinh thần giác ngộ và niềm tin vững chắc vào xã hội chủ nghĩa.
Về phương pháp giáo dục, tác giả khẳng định “thuyết phục, giải thích là
phương pháp căn bản của giáo dục cộng sản chủ nghĩa” [91, tr.185]. Người đi
giáo dục trước hết phải được đào tạo theo những nguyên tắc Lê-nin-nít của
Đảng; có những năng lực cần thiết, có thái độ quan tâm đến con người, biết gây
ảnh hưởng trong ý thức, tình cảm, ý chí của họ.
Vấn đề Đảng lãnh đạo quân đội ở một số nước xã hội chủ nghĩa [3].
Cuốn sách là sự tổng hợp khái quát một số tư liệu của Liên Xô, Cộng hòa dân
chủ Đức, Cuba, Triều Tiên được Đảng, chính phủ, quân đội của các nước trên
ban hành. Khi bàn về vị trí, vai trò của đội ngũ CTV và năng lực GD, TP của đội
ngũ CTV, Cương lĩnh thứ hai của Đảng Cộng sản Liên Xô khẳng định: “Bên
cạnh các cán bộ chỉ huy chiến đấu cần phải có các chính trị viên được lựa chọn
trong số những đảng viên cộng sản đáng tin cậy và có trách nhiệm” [3, tr.6]; đội
ngũ CTV phải có năng lực để giáo dục bộ đội thành “những chiến sĩ có khả năng
và nghị lực nhất, trung thành với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa” [3, tr.7].
V.I.Lênin, Đảng Cộng sản Liên Xô bàn về công tác đảng-công tác chính
trị trong các lực lượng vũ trang [74] của V.Mi-Khai-Lốp. Trong bài viết, tác giả
khẳng định vai trò, ý nghĩa của CTĐ, CTCT, công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng… Tác giả khẳng định, một trong nhiều nhiệm vụ để xây dựng quân đội
kiểu mới là “phát huy ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng hồng
quân, giáo dục chính trị cho họ, tăng cường ý thức kỷ luật tự giác, nâng cao tinh
thần cho họ” [74, tr.1-2] để xây dựng hồng quân hùng mạnh. Theo đó, Đảng
Cộng sản đã cử nhiều cán bộ vào làm công tác giáo dục, xây dựng các phẩm chất
chính trị, tinh thần, giữ vững phương hướng tư tưởng cho các chiến sĩ Xô viết.
Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị trong học viện, nhà trường
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ mới [18], do Chương Tư
Nghị chủ biên. Nội dung cuốn sách đã luận giải, làm rõ nhiều vấn đề về CTĐ,
CTCT trong Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, trong đó dành dung

lượng lớn để đề cập đến vấn đề lịch sử hình thành, phát triển của chế độ chính


14

ủy, CTV; về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ CTV; những tố chất cần có ở
người CTV và nội dung, biện pháp xây dựng đội ngũ CTV trong quân đội
Trung Quốc. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, CTV phải có nhiều tố chất
cần thiết cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực công tác cũng
như tác phong, phương pháp làm việc khoa học.
Điều lệ công tác chính trị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (năm
2003) [105]. Đây là tài liệu xác định rõ những vấn đề cơ bản như: Nguyên tắc
Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo quân đội; tổ chức đảng trong quân đội; nội
dung chủ yếu của công tác chính trị; vị trí, vai trò, yêu cầu phẩm chất, năng lực
của đội ngũ chính ủy, CTV; cơ quan chính trị; tổ chức đoàn thanh niên trong
quân đội… Theo đó, CTV được xác định là người chủ trì, chỉ đạo công việc
thường ngày của cấp ủy đảng đơn vị, do vậy cần có tinh thần cách mạng và trách
nhiệm chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ lý luận, có kinh nghiệm
công tác chính trị và tố chất cần thiết để thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các
trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện nay [10], Luận án tiến sĩ
Khoa học chính trị của Thim Sảo Đuông ChămPa. Tác giả luận án đã làm rõ
những vấn đề cơ bản của công tác giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở
các trung đoàn bộ binh QĐND Lào. Khi chỉ ra nguyên nhân của những hạn
chế, khuyết điểm trong giáo dục chính trị, tác giả khẳng định một phần do
nhận thức, trách nhiệm và năng lực của đội ngũ cán bộ trong giảng dạy chính
trị còn hạn chế. Để nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan,
binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh QĐND Lào cần phải bồi dưỡng nâng cao
nhận thức, phẩm chất, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính trị các cấp.
Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân

đội nhân dân Lào giai đoạn hiện nay [136], Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị
của Sẻng Thoong UnNang. Tác giả luận án đã luận giải những vấn đề cơ bản
về bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực QĐND Lào.
Theo tác giả, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn được cấu thành


15

từ một số yếu tố như: tri thức; niềm tin, ý thức chính trị; phẩm chất đạo đức
cách mạng; lối sống trong sạch, lành mạnh. Với tư cách là người cán bộ nòng
cốt của đơn vị, đội ngũ cán bộ tiểu đoàn có trách nhiệm toàn diện, “phải lấy
phương pháp giáo dục, thuyết phục nêu gương, động viên chính trị tư tưởng là
chủ yếu” [136, tr.33].
Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia Campuchia hiện nay
[96], Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị của Neang Phat. Tác giả luận án đã
luận giải những vấn đề cơ bản về đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ
Quân đội Hoàng gia Campuchia. Theo đó, đội ngũ cán bộ Quân đội Hoàng
gia Campuchia phải được xây dựng cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Đội
ngũ cán bộ quân đội phải có bản lĩnh vững vàng, nhạy bén về chính trị; có ý
thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng và làm theo pháp luật; có kiến thức toàn diện,
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Có phương pháp làm việc khoa học, sâu sát, cụ
thể, tỉ mỉ; dân chủ đoàn kết, gần gũi quần chúng; nghiêm túc, mẫu mực trong
hành động, khéo léo trong ứng xử; thẳng thắn, trung thực, cầu thị tiến bộ.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
luận án
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực giáo dục,
thuyết phục, nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục
Công tác tư tưởng [99] do Đào Duy Quát chủ biên. Nội dung cuốn sách
đã đề cập một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống các nội dung công tác tư
tưởng của Đảng. Theo các tác giả, các phương pháp đặc trưng của công tác tư

tưởng gồm: đối thoại, thuyết trình, trực quan, thuyết phục, nêu gương… Để
nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng cần xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên
trách công tác tư tưởng có trình độ lý luận chính trị và tri thức khoa học, có
phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phong
cách làm việc dân chủ; hiểu biết về tâm lý và nguyện vọng của quần chúng;
biết cách ứng xử, giao tiếp, lôi cuốn, thuyết phục quần chúng tham gia vào
quá trình tư tưởng.


16

Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh [58] của Đặng Xuân Kỳ.
Tác giả đã luận giải hết sức sâu sắc phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh. Đặc trưng phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực
tiễn, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân; dĩ bất biến, ứng vạn biến; giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế và lực; biết kết hợp các phương
pháp. Về phong cách của người cách mạng, tác giả cho rằng người cán bộ,
đảng viên có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương pháp cách
mạng, gắn với truyền thống và mang dấu ấn cá nhân sâu sắc. Phong cách Hồ
Chí Minh là sự tổng hợp của phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong
cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt.
Phương tiện giao tiếp trong hoạt động quản lý [9] do Lê Thị Bừng chủ
biên. Nội dung cuốn sách đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản về giao tiếp và giao
tiếp trong hoạt động quản lý. Trong chương II, khi xác định các phương tiện
giao tiếp trong hoạt động quản lý, các tác giả đã đề cập đến ngôn ngữ, nền
văn hóa - xã hội và nhân cách của người quản lý. Trong đó, ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp cơ bản; văn hóa là phương tiện giao tiếp quyết định;
nhân cách là phương tiện quyết định trực tiếp trong hoạt động quản lý. Khi
luận giải nghệ thuật thuyết phục của người lãnh đạo, tác giả cho rằng để
thuyết phục được người khác, người đi thuyết phục phải có quyền lực, có vị

trí, thể hiện được kết quả, khả năng làm việc và có thái độ lịch thiệp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục [135] do tác giả Trần Đình Tuấn
chủ biên. Trong cuốn sách, tác giả cho rằng giáo dục là con đường chủ yếu để
tác động vào nhận thức, tư tưởng, làm đổi mới tư duy; là một bộ phận trọng
yếu của cách mạng tư tưởng - văn hóa. Nhân tố con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là “con người được tổ chức, được giáo dục, được đào tạo, được
chuẩn bị về mọi mặt cần thiết cho hoạt động quân sự” [135, tr.175]. Trong
lĩnh vực quân sự, người cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị không chỉ là người
dạy quân mà còn là người nuôi quân, quản quân và dùng quân. Do vậy, người
cán bộ phải không ngừng học tập nâng cao trình độ mọi mặt, có kỹ năng, kỹ
xảo sư phạm, đồng thời phải làm kiểu mẫu về tư tưởng, đạo đức, phương
pháp, cách thức làm việc.


17

1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng đội ngũ
cán bộ chính trị, chính trị viên
Chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam
[138] của Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự. Nội dung cuốn sách làm rõ
những vấn đề cơ bản về quá trình hình thành, phát triển của chế độ chính ủy,
CTV và những kinh nghiệm thực hiện chế độ chính ủy, CTV trong QĐND
Việt Nam. Theo đó, “Chế độ chính ủy, chính trị viên là một hình thức tổ chức
cán bộ chính trị, bộ phận cấu thành không thể tách rời trong bộ máy tiến hành
công tác đảng, công tác chính trị” [138, tr.24]. Để hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ trên cương vị là người chủ trì về chính trị, bí thư cấp ủy, tổ chức
đảng, chính ủy, CTV phải là người cán bộ, đảng viên ưu tú, có đầy đủ các
phẩm chất, năng lực và phương pháp, tác phong công tác.
Xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh [97] của Nguyễn Quang Phát. Nội dung cuốn sách

trình bày sâu sắc, hệ thống, toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về đội ngũ chính
ủy, CTV. Tác giả chỉ ra hình mẫu người chính ủy, CTV theo tư tưởng Hồ Chí
Minh phải là người thật sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, có năng lực toàn
diện đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy đơn vị; thật sự mẫu mực về phong
cách, tác phong công tác, nói đi đôi với làm. Đồng thời, tác giả cũng phân
tích, đánh giá tình hình đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị, công tác xây dựng
đội ngũ chính ủy, CTV trong tình hình, nhiệm vụ mới.
Bồi dưỡng nhân cách chính trị viên cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp
phân đội hiện nay [112] do Hoàng Văn Thanh chủ biên. Nội dung cuốn sách
chỉ rõ nhân cách là yếu tố có ảnh hưởng lớn, quyết định đến chất lượng và
hiệu quả hoạt động của đội ngũ CTV ở các đơn vị cơ sở. Để hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ, CTV phải được bồi dưỡng trở thành người cán bộ có trình độ
cơ bản toàn diện, năng lực nắm bắt, dự báo tình hình, đề xuất các chủ trương,
giải pháp; có phương pháp, tác phong công tác của cán bộ lãnh đạo, nêu
gương kiểu mẫu, dân chủ tập thể, làm việc khoa học, nói đi đôi với làm, có
tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao.


18

Vị thế xã hội của chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam [46] do
Phạm Xuân Hảo chủ biên. Nội dung cuốn sách đề cập những vấn đề cơ bản về
vị thế xã hội của CTV, vị thế của CTV trong các giai đoạn và đề xuất các giải
pháp nâng cao vị thế xã hội của CTV trong quân đội hiện nay. Theo các tác
giả, các yếu tố về số lượng, cơ cấu và phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác
phong công tác đã quy định vị thế xã hội của CTV. Để nâng cao vị thế xã hội
của CTV, các tác giả đề xuất nhiều giải pháp, trong đó nhấn mạnh phải nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CTV; đề cao trách nhiệm tự học
tập, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách người cán bộ chính trị, của đội ngũ CTV.
Uy tín của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam [118] do tác giả

Đỗ Mạnh Tôn chủ biên. Theo các tác giả, uy tín là một trong những tiêu chuẩn có
tính tổng hợp quan trọng bậc nhất đối với bất kỳ người lãnh đạo, quản lý nào. Uy tín
của CTV tạo nên sự thống nhất trong tổ chức và tiến hành CTĐ, CTCT; tạo nên sức
mạnh GD, TP, cảm hóa đối với mọi cá nhân và tập thể; có sức ám thị mạnh mẽ trong
điều chỉnh tâm lý, suy nghĩ, nhận thức, hành động. Uy tín của CTV được tạo thành
bởi các yếu tố như: quyền lực, phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ năng lực,
phương pháp, tác phong công tác và phong cách của CTV; trình độ nhận thức, ý thức
giác ngộ của tập thể đơn vị; bầu không khí tâm lý tích cực, lành mạnh trong tập thể.
Nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, chính trị viên trong thời kỳ mới
[49]. Đây là cuốn sách là tập hợp các bài viết của một số tướng lĩnh, nhà khoa
học trong quân đội về nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, CTV đáp ứng
yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và CTĐ, CTCT trong quân đội. Các
tác giả đều khẳng định vị trí, vai trò rất quan trọng của đội ngũ chính ủy, CTV,
họ là người cán bộ lãnh đạo, đồng thời là nhà tâm lý, nhà giáo dục, nhà quản
lý. Theo đó, yêu cầu đội ngũ chính ủy, CTV cần phải được đào tạo, bồi dưỡng
và truyền thụ kinh nghiệm để có đầy đủ phẩm chất, năng lực, phương pháp,
tác phong công tác đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ.
Kinh nghiệm công tác chính ủy, chính trị viên [14] của Phạm Hồng Cư.
Nội dung cuốn sách gồm ba phần, trình bày một cách khái quát sự ra đời và


19

phát triển của chế độ chính ủy, CTV; trao đổi kinh nghiệm công tác của đội
ngũ chính ủy, CTV trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Tác
giả cho rằng, người chính ủy, CTV điều chỉnh hành vi của bộ đội bằng vận
động, GD, TP, nâng cao tinh thần tự giác, tự nguyện của mỗi người. Do vậy,
chính ủy, CTV cần nắm vững những quan điểm, nguyên tắc, phương pháp, tác
phong CTĐ, CTCT.
Tổng kết thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên theo Nghị quyết 51NQ/TW của Bộ Chính trị, khóa IX [98] do Nguyễn Quang Phát chủ nhiệm. Đề

tài đã tổng kết thực hiện chế độ chính ủy, CTV trong quân đội theo Nghị quyết
51 của Bộ Chính trị, khóa IX; chỉ ra yêu cầu và đề xuất những giải pháp tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chế độ chính ủy, CTV trong những năm tiếp theo. Kết
quả nghiên cứu cho thấy cả số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ chính ủy,
CTV đều từng bước được phát triển, “đại bộ phận chính ủy, chính trị viên có
đầy đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ” [98, tr.41]. Tuy nhiên, đề tài cũng
thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập về số lượng, cơ cấu, chất lượng của đội
ngũ chính ủy, CTV khi thực hiện cơ chế theo Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị.
Đồng thời, còn có một số bài báo tiêu biểu như: Về vị trí, vai trò của
chính ủy, chính trị viên trong các đơn vị quân đội theo tinh thần Nghị quyết
51 của Bộ Chính trị [106] của tác giả Tô Xuân Sinh; Đội ngũ chính ủy, chính
trị viên quân đội trong và sau cách mạng tháng Mười Nga - Vấn đề và kinh
nghiệm [70] của tác giả Nguyễn Chính Lý; Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về phẩm chất đạo đức, tư cách người chính trị viên trong quân đội [5]
của tác giả Lê Huy Bình; Bản lĩnh chính trị - chuẩn mực cơ bản trong đào tạo
chính ủy, chính trị viên [142] của tác giả Hồ Kiếm Việt… Các tác giả đã tiếp
cận và nghiên cứu về đội ngũ CTV dưới nhiều góc độ khác nhau, song đều
khẳng định việc hình thành và phát triển của đội ngũ chính ủy, CTV là một tất
yếu khách quan trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân.
Chính ủy, CTV là người chủ trì về chính trị, chịu trách nhiệm trước cấp trên
và cấp ủy cấp mình về chất lượng chính trị của đơn vị; là người đại diện Đảng


20

bên cạnh người chỉ huy, có vai trò hết sức quan trọng trong tuyên truyền, giáo
dục và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, nhiệm vụ
quân đội và đơn vị. Để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, CTV
phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, phương pháp và phong cách làm việc, là trung tâm đoàn kết, có tín

nhiệm cao trong cấp ủy, tổ chức đảng và đơn vị.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực giáo dục,
thuyết phục, nâng cao năng lực giáo dục, thuyết phục của đội ngũ cán bộ
chính trị, chính trị viên
Bồi dưỡng phương pháp công tác tư tưởng của đội ngũ chính trị viên
đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay [52] của Phạm Văn Huynh. Trong cuốn
sách, tác giả luận giải, làm rõ nhiều phương pháp tiến hành công tác tư
tưởng, trong đó “Phương pháp thuyết phục là tổng hợp những cách thức,
biện pháp tác động bằng lý lẽ, việc làm, sự kiện thực tế sinh động vào nhận
thức, tình cảm cán bộ, chiến sĩ làm cho họ hiểu rõ chân lý, lẽ phải, mục tiêu,
nhiệm vụ và làm theo” [52, tr.35]. Trong giải quyết các tình huống công tác
tư tưởng, CTV thường xuyên sử dụng các biện pháp giáo dục riêng, cảm hóa
đối tượng cá biệt, tự phê bình và phê bình, sử dụng dư luận tích cực.
Nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở
đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam [55] của Nguyễn Văn Hữu. Tác giả
cuốn sách cho rằng năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở
đơn vị cơ sở được hình thành bởi các yếu tố: tri thức lý luận; tri thức kinh
nghiệm; kỹ năng, kỹ xảo trong giáo dục chính trị. Năng lực này được hình
thành thông qua quá trình đào tạo, tiếp tục được củng cố, phát triển trong quá
trình hoạt động thực tiễn và quá trình tự bồi dưỡng của đội ngũ cán bộ chính
trị. Việc nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị đơn
vị cơ sở tập trung vào nâng cao kiến thức chính trị, kiến thức khoa học, các kỹ
năng, kỹ xảo giáo dục chính trị, trình độ sư phạm. Ngoài ra, cần rèn luyện bản
lĩnh, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ chính trị.


21

Nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các
trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [73], Luận án

tiến sĩ Khoa học chính trị của Đoàn Khắc Mạnh. Theo tác giả, năng lực giảng
dạy chính trị là yếu tố quan trọng trong năng lực công tác của CTV, năng lực
đó được tạo thành bởi các yếu tố: Hệ thống tri thức lý luận, kinh nghiệm thực
tiễn sư phạm và tiến hành công tác giáo dục chính trị; kỹ năng, kỹ xảo giảng
dạy chính trị và tư chất, năng khiếu của CTV. Nghiên cứu của tác giả tuy chỉ
đề cập đến năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ CTV, song kết quả nghiên
cứu cho thấy nhiều nội dung có liên quan đến năng lực GD, TP của đội ngũ
CTV.
Năng lực thuyết phục của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam [57], Luận án tiến sĩ Tâm lý học của Nguyễn Văn Kiên. Trong luận án,
tác giả đã luận giải nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực thuyết phục
dưới góc độ Khoa học tâm lý. Theo tác giả, “năng lực thuyết phục là tổ hợp
các thành tố kiến thức, thái độ và kỹ năng của chủ thể, được vận dụng có hiệu
quả trong hoạt động thuyết phục” [57, tr.44]. Tác giả đề xuất các biện pháp
tâm lý - xã hội nhằm phát triển năng lực thuyết phục của CTV đó là: xây dựng
động cơ, thái độ đúng đắn cho CTV trong hoạt động thuyết phục; bồi dưỡng
nâng cao kiến thức toàn diện; đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng; phát huy
vai trò tự giác, tích cực trong học tập, rèn luyện của CTV và xây dựng môi
trường văn hóa tích cực, lành mạnh.
Kỹ năng giao tiếp của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam [114], Luận án tiến sĩ Tâm lý học của Nhữ Văn Thao. Tác giả luận án
quan niệm kỹ năng giao tiếp của CTV là sự vận dụng những tri thức, kinh
nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống vào giao tiếp với cán bộ, chiến sĩ
nhằm thực hiện có hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý đơn vị. Kỹ năng giao
tiếp của CTV được tác giả chia thành nhiều nhóm và có sự liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng trực tiếp lên nhau trong quá trình giao tiếp.
Quá trình bồi dưỡng, phát triển kỹ năng giao tiếp của CTV phải chú ý đến yếu


22


tố như: kinh nghiệm, vốn sống thực tiễn; kiến thức, chuyên môn nghề nghiệp;
các phẩm chất nhân cách; phong cách giao tiếp và uy tín của CTV.
Bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ
chính trị viên ở các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trong quân đội ta
hiện nay [107] của Tô Xuân Sinh. Nội dung cuốn sách luận giải nhiều vấn đề
xung quanh đội ngũ CTV, năng lực CTĐ, CTCT của đội ngũ CTV ở các đơn
vị huấn luyện chiến đấu trong quân đội. Để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
đội ngũ CTV phải được bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT tương ứng. Đó là
năng lực tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn; năng lực xây dựng cấp ủy, tổ chức
đảng và các tổ chức trong đơn vị; năng lực chỉ đạo, tổ chức tiến hành CTĐ,
CTCT và tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác của đơn
vị; năng lực quản lý đơn vị.
Bồi dưỡng năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị của
học viên đào tạo chính trị viên hiện nay [71] của Nguyễn Chính Lý. Trong
cuốn sách, tác giả chỉ rõ: năng lực thực hành CTĐ, CTCT của học viên đào
tạo CTV là trình độ và khả năng tổ chức tiến hành hoạt động thực tiễn CTĐ,
CTCT, là sự kết tinh và chuyển hóa trình độ, kiến thức, lý luận thành kỹ năng,
kỹ xảo tổ chức và tiến hành CTĐ, CTCT trong thực tiễn. Tuy không đề cập
trực tiếp đến năng lực GD, TP, song cuốn sách có nhiều nội dung có liên quan
như bồi dưỡng kỹ năng nắm, phát hiện, xử lý có hiệu quả những vấn đề về tư
tưởng, tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tiến hành công tác thi
đua, tuyên truyền, văn hóa quần chúng.
Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ chính trị viên ban chỉ huy
quân sự huyện ở địa bàn Quân khu 1 hiện nay [54], Luận án tiến sĩ Khoa học
chính trị của Tạ Minh Hưng. Theo tác giả luận án, năng lực công tác của đội
ngũ CTV ban chỉ huy quân sự huyện gồm: Năng lực tiến hành công tác tư
tưởng, công tác tổ chức; năng lực tham mưu đề xuất; năng lực chỉ đạo, tổ
chức tiến hành CTĐ, CTCT trong các nhiệm vụ; năng lực chỉ huy, quản lý,
hướng dẫn, kiểm tra, phối hợp hiệp đồng và năng lực tham gia cấp ủy, chính



23

quyền, các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Bồi dưỡng
năng lực công tác của đội ngũ CTV phải toàn diện, phong phú, có trọng tâm,
trọng điểm. Trong đó, tập trung bồi dưỡng tri thức lý luận, kiến thức quân sự,
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ CTĐ, CTCT và kiến thức, kinh nghiệm
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bồi dưỡng năng lực công tác thanh niên của đội ngũ chính trị viên ở các
đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn hiện nay [92], Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị của Đỗ Hoàng
Ngân. Tác giả luận án đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn năng lực
công tác thanh niên của đội ngũ CTV ở các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu,
trên cơ sở đó đề xuất giải pháp bồi dưỡng năng lực công tác thanh niên cho đội ngũ
này. Tuy tác giả không đề cập trực tiếp song có nhiều nội dung có liên quan đến
năng lực GD, TP của đội ngũ CTV như: hệ thống tri thức; kỹ năng, kỹ xảo công tác
thanh niên; tố chất, năng khiếu, sở trường của CTV.
Xây dựng phong cách làm việc của chính ủy trung đoàn bộ binh trong
quân đội hiện nay [113] của Nhâm Cao Thành. Theo tác giả, phong cách làm
việc là yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng người chính ủy trung đoàn; là
yếu tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả CTĐ, CTCT; trực tiếp
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất
lượng hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị; là yếu tố có ảnh hưởng quan
trọng đến phong cách làm việc của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền. Phong cách
làm việc của chính ủy trung đoàn bao gồm phong cách lãnh đạo, phong cách
chỉ đạo, phong cách chỉ huy, phong cách quản lý, phong cách xử lý các tình
huống và phong cách ứng xử, giao tiếp.
Phẩm chất, năng lực, phong cách, phương pháp công tác của chính ủy,
chính trị viên và một số ý kiến về đào tạo, rèn luyện cán bộ chính trị quân sự

[117] do Thư viện Quân đội biên soạn. Nội dung tài liệu trình bày phẩm chất,
năng lực, phong cách, phương pháp công tác của chính ủy, CTV và một số ý
kiến về đào tạo, rèn luyện đội ngũ chính ủy, CTV trong giai đoạn cách mạng


24

mới. Theo đó, chính ủy, CTV phải thường xuyên nắm vững nhiệm vụ chính
trị trung tâm; làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ;
có phong cách và phương pháp làm việc cách mạng, khoa học. Trong giải
quyết công việc và các mối quan hệ phải có tính đảng, nắm vững nguyên tắc
nhưng trong giải quyết vấn đề cụ thể phải biết mềm dẻo, linh hoạt nhằm mục
đích “được cả người, cả việc”.
Bồi dưỡng phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ chính trị
viên Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh [131], Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị của Trần Thu Truyền.
Tác giả luận án cho rằng phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ
CTV theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa phương pháp, tác
phong lãnh đạo của Đảng, của người cán bộ cách mạng với những phương
pháp, tác phong đặc thù do vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của đội
ngũ CTV quy định. Trong nhiều phương pháp công tác của đội ngũ CTV
theo tư tưởng Hồ Chí Minh được luận giải thì GD, TP được xác định là
phương pháp cơ bản, chủ yếu trong công tác vận động quần chúng của
Đảng trong quân đội.
Bên cạnh đó, còn có một số bài báo tiêu biểu như: Quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng phương pháp giáo dục quân nhân [116],
của tác giả Phạm Minh Thụ; Bồi dưỡng năng lực, phương pháp, tác phong
công tác của chính trị viên ở các sư đoàn bộ binh [53] của tác giả Hoàng
Mạnh Hưng; Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh [59] của tác giả Lê Văn Làm; Một số nội dung, biện

pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực công tác của đội ngũ chính ủy bộ chỉ
huy quân sự tỉnh (thành phố) hiện nay [89] của tác giả Nguyễn Đình Minh;
Rèn luyện phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh của chính trị viên ở đơn vị cơ sở
trong quân đội hiện nay [45] của tác giả Đỗ Ngọc Hanh… Các tác giả đã tiếp
cận và luận giải các vấn đề về năng lực, phương pháp, tác phong công tác của
CTV dưới nhiều góc độ khác nhau. Song, các tác giả đều khẳng định vị trí, vai


25

trò hết sức quan trọng của việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phương pháp, tác
phong, uy tín của CTV nhằm giúp CTV hoàn thành chức trách, nhiệm vụ trên
cương vị là người chủ trì về chính trị. Trong điều kiện xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh tổng hợp,
lấy xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở, CTV càng phải làm “kiểu mẫu”
cả về chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống và phương pháp, tác phong công
tác. Tuy nhiên, do phạm vi, đối tượng nghiên cứu nên các công trình khoa học
trên chưa đề cập trực tiếp đến năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn
bộ binh trong QĐND Việt Nam.
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố có liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề đặt ra luận án
cần tập trung giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố có liên quan đến đề tài luận án
Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước có liên
quan đến đề tài luận án trên đây cho thấy sự đa dạng về khách thể và đối tượng
nghiên cứu, phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, có phạm vi nội dung
rất rộng, song tập trung vào những vấn đề chính sau đây:
Một là, các công trình khoa học đã luận giải, làm rõ vị trí, vai trò, chức
trách, nhiệm vụ của đội ngũ CTV; những vấn đề về lý luận, thực tiễn về xây

dựng đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV; về phẩm chất, năng lực, phương
pháp, tác phong, phong cách của đội ngũ CTV. Trong đó, một số công trình đã đi
sâu nghiên cứu về những vấn đề cụ thể như: nâng cao văn hóa lãnh đạo; bồi
dưỡng phẩm chất nhân cách, uy tín, vị thế của CTV; năng lực tư duy; năng lực
lãnh đạo; năng lực chủ trì về chính trị; năng lực, phương pháp công tác tư tưởng;
năng lực công tác thanh niên; năng lực giảng dạy chính trị; năng lực giáo dục
chính trị; năng lực thuyết phục,…của đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV.
Hai là, các công trình khoa học đã nghiên cứu, khảo sát thực tế,
đánh giá thực trạng, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm về


26

phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong, phong cách của đội ngũ
cán bộ chính trị, chính ủy, CTV; chỉ rõ những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu, giải quyết; khái quát những kinh nghiệm và hướng vận dụng
trong những năm tiếp theo.
Ba là, các công trình khoa học đã dự báo sự tác động của những nhân
tố khách quan và chủ quan đến đối tượng nghiên cứu theo cả chiều hướng
thuận lợi và khó khăn, tích cực và tiêu cực; xác định mục tiêu, phương hướng,
yêu cầu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo và đề xuất giải pháp
trong nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong, phong cách của
đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, CTV.
Kết quả nghiên cứu của những công trình được tổng quan trên đây có giá
trị to lớn cả về lý luận, thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, cơ bản, hệ
thống, chuyên sâu về năng lực GD, TP của đội ngũ CTV và
nâng cao năng lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ
binh trong QĐND Việt Nam dưới góc độ Khoa học chính trị,
chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Vì

vậy, đề tài luận án là công trình nghiên cứu độc lập, không
trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố ở cả
trong và ngoài nước.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung
giải quyết
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đề ra, luận án cần tập
trung thực hiện những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về đội ngũ CTV như: vị trí,
vai trò, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác, yêu cầu về phẩm
chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác; tập trung luận giải, làm rõ đặc
điểm đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh, làm cơ sở để đi sâu nghiên vứu về năng
lực GD, TP của đội ngũ CTV ở các sư đoàn bộ binh trong QĐND Việt Nam.


×