Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO dục CHỦ NGHĨA yêu nước TRONG QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.65 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tinh thần yêu nước là một giá trị văn hóa - tinh thần cao đẹp của dân tộc
Việt Nam, là một thành tố rất quan trọng, có vai trị quyết định trong sức mạnh dứg
nước và giữ nước của nhân dân ta nói chung, trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội ta nói riêng. Tinh thần yêu nước ấy là biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Chủ nghĩa yêu nước là sự phát triển ở trình
độ cao của tinh thần yêu nước, là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý trí và tình cảm, là tinh
thần yêu nước đã đạt tới tình độ tự giác và độ bền vững cao. Trên ý nghĩa đó, giáo
dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội đã góp phần to lớn vào vệic nâng cao tinh
thần yêu nước của mọi quân nhân, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần vô địch
trong lịch sử, đảm bảo cho quân đội ta luôn vững mạnh và chiến thắng. Đó là bài
học hết sức quý báu mà ngày nay cần được tiếp tục phát huy có hiệu quả hơn trong
những điều kiện mới.
Trong điều kiện lịch sử mới, dưới tác động của nhiều hoàn cảnh khách quan
và nhân tố chủ quan, vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước nói chung, trong quân
đội nói riêng đang đứng trước những thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng đang phải
đối mặt với khơng ít thách thức. Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa
yêu nước trong quân đội đang là một đòi hỏi bức thiết. Để làm được điều đó cần có
sự luậ giải một cách khoa học những cơ sở lý luận và thực tiễn, cần tìm ra n1giải
pháp hữu hiệu.
Những năm qua công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội đã thu
được nhiều thành tựu đất nướcág kể, góp phần quan trọng làm cho quân đội ta tiếp
tục phát huy truyền thống vẻ vang: ".... trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng
hồn thành, khó khăn nào cũng vợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" (34, 349).
Tuy vậy, trước tình hình mới cơng tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội
ta nói chung, trong từng đơn vị nó riêng cịn bơc lộ nhiều bất cập, đang gặp nhiều
khó khăn và lúng túng cả về nhận thức, nội dung, chương trình, hình thức, phương
pháp và cách thức tổ chức giáo dục.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu "Nâng cao chất lượng giáo dục chủ


nghĩa yêu nước trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" là một đề tài rất
cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về llv à thực tiễn, góp phần xây dựng quân đội
ta về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội đáp ứng
yêu cầ nhiệm vụ mới của cách mạng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là một đề tài
rộng lớn thu hút sự quan tâm của các lãnh tụ cách mạng, của các nhà lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và quân đội, của cac sự nghiệpàh khoa học trong và ngoài nước.
Ở nước ngồi đã có nhiều cơng tình khoa học, sách chun khảo về chủ
nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước nói chung, trong quân đội nói
riêng. Tuy nhiên, những tài liệu đó chỉ có thể dùng để tham khảo trên một số vấn
đề lý luận chung, bởi lẽ chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước bao
giờ cũng gắn liền với những đặc điểm, điều kiện, truyền thống cụ thể của một dân
tộc nhất định. Những tài liệu đó bàn về những vấn đề rất khác chúng ta từ phương
pháp tiếp cận đến quan điểm và nội dung các vấn đề nghiên cứu.
Ở trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và các lãnh tụ cảu Đảng luôn
quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong nhân dân
và quân đội, nhất là thế hệ trẻ, đã để lại nhiều bài nói, bài viết và nghị quyết bàn về
vấn đề đó. Tiêu biểu là: những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu
nước và thi đua u nước (trong Hồ Chí Minh tồn tập); Lê Duẩn với: "Chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản"; "Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt
Nam"; "Yêu nước ngày nay phải gắn liền với yêu CNXH"... Trường Chinh với
"Nhận định về cái yêu nước trước khi có Đảng"...; Phạm Văn Đồngvới "Chủ nghĩa
yêu nước và CNXH"; "Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản"...
Các nhà khoa học ở nước ta và trong qn đội cũng đã có nhiều cơng trình
khoa học, sách và bài báo bàn về những vấn đề liên quan tới đề tài. Tiêu biểu như:
"Chủ nghĩa yêu nước - tình cảm và tư tưởng lớn nhất của con người Việt Nam";

"Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" của GS. Trần Văn Giàu;
"Mấy vấn đề chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam" và "Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
thời địa Hồ Chí Minh" của GS. Trần Xuân Trường; "Tìm hiểu hoạt động giáo dục
truyền thống yêu nước bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử dân tộc" (Thế kỷ X đến trước
1930), đề tài Nhà nước KX.07.19; "Đẩy mạnh giáo dục yêu nước trong quân đội
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh" của PGS. Lê Hồng Quang; "Sự thống nhất
giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong cách mạng Việt Nam" Luận án TS. Triết học của Lương Gia Ban; "Nhận thức tính qui luật sự phát triển
tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" Luận án TS Triết học của Lê Như Cử...
Các cơng tình khoa học, sách chun khảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các
nhà lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học đã đề cập đến những vấn đề
cơ bản như:
- Quan niệm về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam và chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời
đại Hồ Chí Minh.


- Những cơ sở và điều kiện hình thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam
- Quá tình hình thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
- Nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước truyền thống và hiện đại
- Mối quan hệ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản; giữa
truyền thống và hiện đại.
- Về giáo dục chủ nghĩa yêu nước ở một số đối tượng cụ thể
- Về thi đua yêu nước...
Tuy nhiên đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu cơ bản,
toàn diện và trực tiếp mang tính chất chuyên biệt về nâng cao chất lượng giáo dục
chủ nghĩa yêu nước trong Quân đội nhân dân Việt Nam trước tình hình mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của
nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất, kiến giải mục tiêu, yêu cầu và giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội, góp
phần xây dựng quân đội ta về chính trị - tinh thần.
Để thực hiện mục tiêu trên đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản
sau:
- Làm rõ thêm về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại; biểu hiện của nó trong nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta
hiện nay.
- Luận giải vai trò của giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với nâng cao chất
lượng chính trị - tinh thần của quân đội ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước
trong quân đội ta hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Làm rõ những nhân tố tác động đến chất lượng và hiệu quả giáo dục chủ
nghĩa yêu nước trong quân đội những năm đầu thế kỷ 21.
- Xác định mục tiêu, yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong Quân đội nhân dân Việt Nam trước tình
hình mới.
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ abrn vảu chủ nnml, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng ủy Quân sự Trung
ương về chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong nhân
dân và quân đội.


Đề tìa cũng tiếp thu, kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu có liên
quan đã được cơng bố của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, của các nhà
khoa học trong và ngoài nước.
Cơ sở thực tiễn của đề tài là dựa vào những kết quả khảo sát thực tiễn đã
được thực hiện trước đây và hiện nay (chủ yếu của ban đề tài) về giáo dục chủ
nghĩa yêu nước nói chung, trong quân đội nói riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác Lênin và các KHXH&NV khác. Trong đó đặc biệt chú ý các phương pháp kết hợp
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; kết hợp lơgíc và lịch sử; điều tra xã hội
học; sử dụng chun gia; mơ hình hóa; trừu tượng hóa...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa tổng quát của đề tài là góp phần xây dựng qn đội ta về chính trị tinh thần.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội; cung
cấp những luận cứ khoa học, định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội ta trước thời kỳ mới của cách mạng.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu về chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam và giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong các nhà trường,
đơn vị quân đội.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 2 chương (6 tiết)
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa yêu nước
Để làm rõ mục tiêu, yêu cầu, đề xuất những giải pháp hữu hiệu nâng cao
chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội ta hiện nay, trước hết cần
làm rõ: chủ nghĩa yêu nước là gì? cơ sở hình thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam; biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong quân đội ta hiện nay? Thiết
nghĩ một khái niệm đúng, mang tính khoa học về chủ nghĩa yêu nước sẽ là cơ sở


phương pháp luận, là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề tiếp theo của đề

tài.
Hiện nay trong nhiều tài liệu, văn phẩm cả trong và ngoài nước, chủ nghĩa
yêu nước được quan niệm khác nhau.
Theo Bách khoa thư Liên Xơ 1973: "Chủ nghĩa u nước - tình u Tổ quốc,
trung thành với Tổ quốc, ước vọng phục vụ lợi ích của Tổ quốc bằng hành động
của mình.
Về mặt lịch sử, các yếu tố của chủ nghĩa yêu nước dưới dạng tình cảm gắn
bó với mảnh đất, ngơn ngữ và truyền thống quê hương đã hình thành từ cổ xưa.
Trong xã hội có giai cấp, nội dung của chủ nghĩa u nước mang tính giai cấp vì
mỗi một giai cấp thể hiện thái độ của mình với Tổ quốc thơng qua lợi ích đặc biệt
của riêng mình".
Bách khoa thư Trung Quốc 1994 định nghĩa: "chủ nghĩa yêu nước - những
quan điểm, tư tưởng và cách ứng xử, hành vi của con người xuất phát từ tình cảm
nồng nàn đối với Tổ quốc. Đó cũng là qui phạm, chuẩn mực đạo đức để diều tiết
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích Tổ quốc, biểu hiện là cương quyết bảo vệ lợi ích Tổ
quốc, làm trịn nghĩa vụ đối với Tổ quốc, khi cần có thể hy sinh vì Tổ quốc. Đồng
thời căn cứ vào đó để đánh giá hành vi là thiện hay ác, phù hợp với chuẩn mực
đạo đức không.
Chủ nghĩa yêu nước là một phạm trù lịch sử, biểu hiện cụ thể là yêu dân tộc,
yêu mảnh đất ni dưỡng dân tộc mình, u chữ viết, văn hóa và lịch sử của đất
nước mình. Vì sự phồn vinh, giàu mạnh của Tổ quốc ra sức học tập, công tác và
lao động, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, kiên quyết
chống lại sự xâm nhập của kẻ thù bên ngoài, kiên quyết chống lại sự phân biệt
chủng tộc và phân biệt quốc gia".
Grand Larousse universel của Pháp, 1995 quan niệm: "Chủ nghĩa u nước sự gắn bó tình cảm với đất nước, với Tổ quốc biểu hiện thành ý chí bảo vệ và thúc
đẩy sự phát triển của đất nước mình".
Theo Từ điển Triết học: "Chủ nghĩa yêu nước - tình yêu, lòng trung thành
với tư, ý thức phục vụ Tổ quốc" (54,577). Từ điển Chính trị lại cho rằng "Chủ
nghĩa yêu nước là tình yêu Tổ quốc, dân tộc mình. Chủ nghĩa yêu nước là một hiện
tượng xã hội - lịch sử có nội dung xã hội khác nhau, trong các thời kỳ khác

nhau" (53, 455). Trong khi đó Từ điển CNXH khoa học đưa ra định nghĩa của
V.I.Lênin về chủ nghĩa yêu nước là "...một trong những tình cảm sâu sắc nhất đã
được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt
lập" (56, 433 - 435).
Ở nước ta, Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Chủ nghĩa yêu nước là lòng thếit
tha đối với Tổ quốc của mình, thường biểu hiện ở tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ
quốc" (52, 173). Cịn Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam lại quan niệm chủ


nghĩa yêu nước là "...nguyên tắc đạo đức về chính trị mà nội dung là tình u, lịng
trung thành, ý thức phục vận động Tổ quốc. Xã hội nguyên thủy đã có những mầm
mống của chủ nghĩa yêu nước, dựa trên tinh thần máu mủ giữa các thành viên của
thị tộc hay bộ tộc. Từ khi xã hội nguyên thủy ta rã, tình cảm tự nhiên gắn bó với
q hương, tiến mẹ đẻ, các truyền thống... kết hợp với nhận thức về nghĩa vụ của
người dân đối với cả cộng đồng xã hội đã được thiết lập. Cùng với sự hình thành
dân tộc và nhà nước dân tộc, chủ nghĩa yêu nước từ chỗ chủ yếu là một số yếu tố
trong tâm lý xã hội, đã trở thành hệ tư tưởng. Nó trở thành lực lượng tinh thần vơ
cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo vệ Tổ quốc chống lại mọi cuộc
xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước chân chính thể hiện ở lịng tủng thành với Tổ quốc
vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc và đấu tranh
cho sự phồn vinh của đất nước" (55, 518).
Qua những quan niệm trên, tuy cịn có sự khác nhau nhưng có thể rút ra một
số nội dung cơ bản về chủ nghĩa yêu nước theo quan điểm của chúng ta.
- Chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống quan điểm, tư tưởng, tình cảm đối với
đất nước, Tổ quốc, biểu hiện ở tình u q hương, xử sở, tiếng nói, văn hóa; ở sự
gắn bó vì những lợi ích chung của cộng đồng, của quốc gia - dân tộc; ở ý thức xây
dựng và bảo vệ đất nước...
- Chủ nghĩa yêu nước là một phạm trù lịch sử, hình thành, phát triển và biến
đổi qua các thời kỳ lịch sử. Tinh thần u nước, lịng u nước có thể nảy sinh từ
rất sớm từ khi nhà nước mới hình thành, cộng đồng quốc gia mới xuất hiện. Nhưng

chủ nghĩa yêu nước đòi hỏi một bước phát triển cao của tinh thần yêu nước, khi
tình cảm yêu nước được nâng lên một trình độ nhận thức sâu sắc, có hệ thống, chi
phối một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người.
- Chủ nghĩa yêu nước là tình cảm vừa có tính phổ qt của nhân dân các
quốc gia, dân tộc, vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia dân tộc do điều kiện
tự nhiên, đặc điểm tộc người và hòan cảnh, nội dung lịch sử cụ thể của từng nước
qui định. Trong xã hội có giai cấp, chủ nghĩa yêu nước mang tính giai cấp, biểu thị
quyền lợi và nguyện vọng khác nhau, của các giai cấp khác nhau, nhưng vẫn
khơng loại trừ tình cảm u nước của cả cfộng đồng và trước lợi ích chung của
cộng đồng các giai cấp có thể liên kết lại trong cuộc đấu tranh chung vì lợi ích
cộng đồng. Về phương diện này, chủ nghĩa yêu nước được coi là một chuẩn mực
đạo đức và có thể giữ vai trị điều tiết lợi ích và mối quan hệ giữa các giai cấp, các
nhòm xã hội trong cộng đồng.
Tuy nhiên, các định nghĩa trên chưa nói rõ được chủ thể, khách thể trong
khái niệm chủ nghĩa yêu nước, đồng thời cũng chưa nó rõ các thuộc tính căn bản,
đặc trưng chủ yếu của nó.
Dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc
tính hợp lý trong cấu trúc, nội dung nghiên cứu của các nhà khoa học, từ thực tiễn


Việt Nam bước đầu có thể nêu lên một định nghĩa tổng quát: Chủ nghĩa yêu nước
là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng, tình cảm đối với đất nước, biểu hiện ở
tình yêu quê hướng, xứ sở, yêu thương đồng bào; sự cống hiến sức lực, tài năng và
trí tuệ, tinh thần xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là một giá trị
văn hóa quý báu và bền vững, một động lcực tinh thần to lớn phát huy sức mạnh
dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng,
tình cảm, thái độ yêu quý và trách nhiệm cao với Tổ quốc. Người yêu nước nhất
của mõi dân tộc phải là những người chân chính, đem lợi ích của mình gắn liền với

sự phồn vinh, vận mệnh của Tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với mỗi dân
tộc, là nguồn sức mạnh của dân tộc. Chủ nghĩa u nước là ìtnh cảm, tình u chân
chính của nhân dân đối với đất nước, trước hết là đối với q hương, gia đình, làng
xóm, phố phường, nơi họ sinh ra và lớn lên. Đso cịn là tình u đối với các cảnh
quan thiên thiên, những giá trị văn hóa - tinh thần do nhân dân sáng tạo nên, là tình
cảm bao la, rộng lớn, cao quý của con người với con người, của mỗi dân tộc riêng
biệt và đó cịn là ý thức tự tơn, tự hào về các giá trị văn hóa dân tộc. Chủ nghĩa yêu
nước chân chính địi hỏi mỗi người phải biết nâng niu, quý trọng, bảo tồn, phát
triển những giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Chủ nghĩa yêu nước hàm chứa những tình cảm, thái độ chính trị của mỗi con
người với thể chế chính trị của dân tộc mình đnag sống. Chủ nghĩa yêu nước bao
giờ cũng mang bản chất giai cấp nhất định, khơng thể có thứ chủ nghĩa u nước
chung chung, phi giai cấp. Giai cấp vơ sản có chủ nghĩa yêu nước triệt để. Hình
thức cao nhất chủ nghĩa yêu nước của giai cấp vô sản là chủ nghĩa yêu nước xã hội
chủ nghĩa, đoàn kết tất cả giai cấp cơng nhân, nơng dân, đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ nghĩa yêu
nước xã hội chủ nghĩa kết hợp hữu cơ với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân. Chủ nghĩa yêu nước chân chính của nhân dân lao động thống nhất với chủ
nghĩa yêu nước XHCN, với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Thứ hai, chủ nghĩa yêu nước không chỉ là tư tưởng, tình cảm mà cịn được
biểu hiện thành ý chí, hành động, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ
quốc.
Chủ nghĩa yêu nước đòi hỏi mỗi người, nhóm xã hội phải đem sức lực, trí
tuệ của mình ra để xây dựng Tổ quốc, làm cho Tổ quốc phồn vinh, bình yên mãi
mãi. Một khi Tổ quốc bị lâm nguy chủ nghĩa yêu nước trở thành sức mạnh vơ địch
nhấn chìm bè lũ cướp nước, bán 'nước; địi hỏi mỗi con người dám xả thân vì
nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Tổ quốc và nhân
dân mãi mãi tôn vinh những người anh hùng dân tộc. Trong lịch sử tư tưởng của
mỗi dân tộc không thể thiếu được thể loại anh hùng ca. Chủ nghĩa yêu nước của



mỗi dân tộc từng bước đề cao anh hùng cá nhân, tiến lên hình thành chủ nghĩa anh
hùng tập thể của mỗi dân tộc.
Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước là một hiện tượng xã hội - lịch sử gắn với một
dân tộc nhất định. Bất cứ dân tộc nào từ lúc sơ khai đến độ trưởng thành đều mang
trong mình một chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước của mỗi dân tộc bao giờ cũng phản ánh những giá trị
chung về đặc điểm tâm lý xã hội, quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi công dân trong cộng
đồng quốc gia dân tộc đó. Chủ nghĩa yêu nước được coi là chất keo liên kết giữa
các thành viên trong xã hội với nhau và là cơ sở để điều tiết các mối quan hệ xã hội
của cộng đồng theo xu hướng đồng thuận trong những điều kiện lịch sử cụ thể,
nhất là trước những biến cố lịch sử đe dọa đến sự tồn vong của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước gắn với một dân tộc cụ thể, nhưng không thể đồng nhất
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính hội tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất của dân
tộc, tọa nên sức mạnh vô địch của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi, cực đoan, sô vanh nước lớn đều đi ngược
lại với lợi ích của dân tộc, kìm hãm sự phát triển của dân tộc và sự mở rộng giao
lưu quốc tế. Điều đó vừa có hại cho dân tộc mình vừa hại cho cuộc đấu tranh
chung của các dân tộc vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH [51,15].
1.1.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống.
"Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống" là một quan niệm được dùng
để phân biệt và so sánh với một giai đoạn phát triển mới của nó là "Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh" - Yêu nước XHCN.
1.1.2.1. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống là nội dung cốt lõi của tư tưởng
Việt Nam, của nhân sinh quan và thế giới quan Việt Nam; là lý luận và đường lối
chính trị, quân sự của Nhà nước phong kiến dân tộc Việt Nam. Giáo sư Trần Văn
Giàu viết: "Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam hẳn không phải là một
truyền thuyết thâm viễn, ctĩng khơng phải là một tín ngưỡng

huyền diệu; nó là một hệ thống tư tưởng nhận thức và ứng xử đơn giản nhưng vừa
đủ để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và tồn tại trong danh dự" [15,6].
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống được thể hiện trên những nội
dung cơ bản sau đây:
* Tình yêu quê hương, đất nước, con người
Trong ý niệm về Tổ quốc của con người Việt Nam bao giờ cũng có ý niệm
về quê hương cụ thể nơi họ sinh ra va flớn lên với bao hình ảnh thân thương: cây
đa, giếng nước, sân đình, con người cụ thể trên mảnh đất đó. Tổ quốc chung, rộng
lớn bao giờ cũng gắn với một cái làng riêng biệt. Trong thực tế đã hình thành lên
mối quan hệ Nhà - Làng - Nước trong sự hình thành, phát triển của dân tộc Việt


Nam, trong tổ chức nhà nước, trong tư tưởng, tình cảm con người Việt Nam. Điều
đó làm cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam có độ sâu sắc, mạnh mẽ và
độc đáo.
Yêu nước của người dân Việt Nam là một tình u cụ thể, khơng trừu tượng,
từ u những cảnh quan thiên nhiên nơi mảnh đất họ sinh ra, đến tình yêu Tổ quốc
bao la.
Tư tưởng yêu nước gắn với thương nòi, đã sản sinh ra những hành động yêu
nước rất cụ thể, hành động của chủ nghĩa anh hùng trong sản xuất, chiến đấu hình
thành nên những tình cảm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của những người con
Lạc, cháu Hồng.
*Tình cảm gắn bó, cố kết cộng đồng, hướng về dân, lấy dân làm gốc.
Thực tiễn sản xuất để mưu sinh, chiến đấu bảo vệ, giữ vững độc lập dân tộc,
đòi hỏi một cách khách quan các tầng lớp dân cư phải có sự đồn kết, cố kết với
nhau tạo thành sức mạnh cộng đồng vững mạnh, sức mạnh của tất cả quần chúng
nhân dân, sức mạnh ấy được ví như "nước". Nói như Nguyễn Trãi : chở thuyền
cùng là dân, lật thuyền cũng là dân. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam trải qua các
triều đại khác nhau, nhưng có cùng mục đích: "Việc nhân nghĩa, cốt ở yên
dân", tạo nên sự bình yên của mỗi làng quê và trên toàn bộ mọi vùng của Tổ quốc.

Ở Việt Nam ngoài ba mối quan hệ Vua - Tơi, Cha - Con, Chồng - Vợ cịn có mối
quan hệ thứ tư là quan hệ giữa Nước và Dân, "Nước lấy dân làm gốc".
* Ý thức bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá, văn minh Việt Nam là kết quả của quá trình lao động chinh
phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống, của các cuộc đấu tranh chống xâm lược,
chống sự đổng hoá của các thế lực bên ngoài đối với dân tộc Việt Nam.
Ý niệm về lịch sử và văn hố chung giữ vai trị rất quan trọng trong nhận
thức và tình cảm yêu nước (huyền thoại, truyền thuyết, truyện lịch sử, lễ hội dân
gian).
Quan niệm bảo vệ văn hoá dân tộc chủ yếu là bảo vệ bản lĩnh, bản sắc dân
tộc gắn với độc lập, chủ quyền quốc gia, khơng mang tính bảo thủ, hẹp hịi. Theo
đó, chủ nghĩa u nước địi hỏi mỗi cư dân, cả cộng đồng phải có trách nhiệm bảo
vệ những bản sắc văn hố của dân tộc mình, gắn với bảo vệ độc lập chủ quyền
quốc gia. Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc nhưng cũng biết tiếp thu có chọn lọc, hợp
lý tinh hoa văn hố thế giới. Bảo vệ nhưng khơng đóng cửa, bảo vệ gắn liền với sự
phát triển. Ở mỗi bước phát triển của lịch sử dân tộc có bước phát triển của một
nền văn hố cao hơn. Đó là tính quy luật của sự phát triển văn hoá Việt Nam.
* Ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta đã có ba bản Tuyên
ngôn độc lập. Bản Tuyên ngôn lần thứ nhất vào mùa xuân 1077 sau khi chiến
thắng quân Tống xâm lược, Lý Thường Kiệt viết bài thơ bất hủ:


"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
Năm 1428 sau khi cuộc chiến tranh giải phóng khỏi ách đơ hộ của nhà Minh
- Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc đã viết "Bình ngô đại cáo", bản Tuyên ngôn
độc lập lần thứ II.

Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ II do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố ngày
02 tháng 9 năm 1945 khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tất cả các bản Tuyên ngôn đều khẳng định quyền dân tộc tự quyết của Việt
Nam; ý chí quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá Việt
Nam; nghị lực, quyết tâm của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt
Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Từ tình yêu quê hương, xứ sở nâng lên thành ý thức bảo vệ non sông đất
nước, giang sơn, tổ quốc, sơn hà xã tắc (ý niệm sâu sắc về lãnh thổ quốc gia) là
bước trưởng thành của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống.
Thế kỷ XV Lê Thánh Tông đã khẳng định: "Một thước núi, một tấc sông
của ta không thể vất bỏ... Ai dám đem một thước núi, một tấc sông của Vua Thái
Tổ để lại làm mồi cho giặc thì tội phải tru di".
Ngay trong thời kỳ phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài, nhân dân 2 miền
cũng không ai coi mỗi miền là quốc gia riêng.
* Ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc và lịng tự tơn dân tộc
Biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa yêu nước là ý thức coi độc lập dân tộc là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm - tinh thần tự tôn dân tộc.
Mỗi lần Tổ quốc bị xâm lăng thì mọi tầng lớp nhân dân ln đặt lợi ích đất
nước lên trên hết và sẵn sàng gạt bỏ mọi lợi ích riêng, chấp nhận mọi gian nan, thử
thách, hy sinh vì độc lập dân tộc.
Tuy nước nhỏ, có lúc bị mất nước hàng trăm, hàng nghìn năm, những vẫn
giữ vững niềm tự tin, tự tôn dân tộc. Chính trên tinh thần đó về sau Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khái qt: "Khơng có gì q hơn độc lập , tự do".
Ý thức tự tôn, tự lập của dân tộc được hình thành rất sớm và các triều đại nối
tiếp nhau đều có ý thức bảo vệ lịng tự tơn, tự lập của dân tộc, xây dựng nên bản
sắc, cốt cách riêng của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam ln ln hồ nhập
với thế giới, nhưng khơng bao giờ chúng ta bị hồ tan, mất đi cái bản sắc riêng có
của mình.
* Ý thức xây dựng đất nước.
Việt Nam là một nước có tiềm năng lớn về tài nguyên, nhưng nền kinh tế

kém phát triển. Vì vậy, trong tâm thức của mỗi người Việt Nam qua các thế hệ đều
coi việc xây dựng đất nước phồn vinh sánh vai cùng các cường quốc là một biểu


hiện rất cụ thể của lịng u nước. Chính trong quá trình cùng nhau chung lưng,
đấu cật lao động xây dựng đất nước, chống chọi với thiên nhiên mà tình yêu
thương con người, yêu quê hương, đất nước nảy nở và không ngừng được củng cố,
phát triển. Nhân dân ta rất quý trọng những nhân tài của đất nước, những người có
cơng lao trong lao động, sản xuất làm cho đất nước ngày càng thêm giàu đẹp. Đó
là một giá trị văn hoá cao đẹp thể hiện chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam.
1. 2. 2. 2. Cơ sở hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
truyền thống.
* Điều kiện khách quan.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Việt Nam đã gắn bó con người với
thiên nhiên, quê hương đất nước.
Nước ta nằm trên bán đảo Đơng Dương, trong vùng nhiệt đới gió mùa; do
điều kiện kiến tạo của trái đất, nên đất nước ta nằm trong vùng có nhiều tài nguyên
thiên nhiên quý, hiếm. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên đó đã tạo nên những tiềm
năng to lớn của sự phát triển kinh tế, nhưng cũng tạo ra những khó
khăn thử thách lớn đối với dân tộc ta.
Trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng đất nước... chúng ta vừa tìm
cách thích nghi với điều kiện tự nhiên, vừa tìm cách khai thác điều kiện tự nhiên để
phục vụ cho sự tồn tại, phát triển của mình. Trong quá trình săn bắn, trồng trọt,
chăn ni, những cư dân Việt Nam đã có cuộc sống ổn định, với một nền sản xuất
vật chất, những giá trị tinh thần mang bản sắc riêng và đạt đến trình độ cao của nền
văn minh lúa nước.
Qua thực tiễn đấu tranh chống lại thiên nhiên hà khắc, những cư dân Việt
Nam dần dần liên kết lại với nhau, cùng nhau làm thuỷ lợi, đắp đê sông, đê biển để
chống đỡ lụt lội, hạn hán. Kinh tế phát triển, sự giao lưu giữa các vùng trong nước

từng bước được mở mang. Đó là q trình từng bước tạo nên sự gắn bó giữa các cư
dân, cộng đồng với nhau; là cơ sở hình thành tình yêu quê hương, đất nước, sự gắn
bó, đùm bọc lẫn nhau.
Sự phát triển biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử Việt
Nam ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần, ý thức dân tộc và chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đem lại cho người ta sự lý
giải đúng đắn về sự biến đổi, phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển xã hội
loài người gắn liền với sự biến đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
Việt Nam không giống như nhiều nước trên thế giới, khơng trải qua tuần tự
5 hình thái kinh tế - xã hội một cách tự nhiên. Việt Nam không trải qua thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, từ chế độ công xã nguyên thuỷ chúng ta tiến lên chế độ phong
kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam là chế độ phong kiến phương Đơng, nó cũng


khác với chế độ phong kiến phương Tây. Chế độ phong kiến Việt Nam khơng có
thời kỳ tồn tại chế độ lãnh địa với quan hệ lãnh chúa - nông nô; không trải qua thời
kỳ phân quyền, cát cứ lâu dài, đặc điểm này có ảnh hưởng chi phối đến sự cố kết
cộng đồng và sự phát triển của dân tộc.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858) xã hội Việt Nam chuyển từ
xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội đó tồn tại hai mâu
thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm
lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với bọn địa chủ phong kiến. Sự vận
động của hai mâu thuẫn cơ bản trên dẫn đến mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc Pháp xâm lược và bè lũ tay sai. Những
chuyển biến đó tác động sâu sắc đến việc hình thành sự đồn kết, cố kết dân tộc
trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do của nhân dân.
Trong thời kỳ thống trị của chủ nghĩa thực dân, giai cấp tư sản Việt Nam có
nảy sinh và phát triển ở mức độ nào đó, song rất non yếu. Do đó, chủ nghĩa dân tộc
tư sản tuy có một số ảnh hưởng nhất định, nhưng khơng giữ vai trị chi phối và

không thay thế cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã có bước phát
triển nhảy vọt về chính trị, giành được độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân và từng bước tiến lên CNXH. Đó là q trình biến đổi căn bản về sự đồn
kết dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng chuyển sang giai đoạn phát triển
mới về chất, yêu nước gắn liền với yêu CNXH, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân. Đó là cơ sở tạo nên sức mạnh tinh thần
và sức mạnh vật chất mới, là nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân quan trọng của mọi
thắng lợi cách mạng Việt Nam.
Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta hun đúc nên tinh thần đồn kết, ý
chí đấu tranh bất khuất, kiên cường, niềm tự tôn dân tộc tác động sâu sắc đến sự
phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Nước Việt Nam nằm ở khu vực án ngữ đường giao lưu giữa Bắc Á và Nam
Á, Đông Á sang Tây Á, nơi có nhiều đường giao thơng quan trọng, cửa ngõ thông
thương với các nơi trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nơi có nhiều tài
ngun thiên nhiên quý hiếm. Vì vậy, từ xưa đến nay, nước ta luôn bị ci là "miếng
mồi béo bở", mảnh đất đầy hấp dẫn đối với nhiều đế quốc hung bạo. Kể từ cuộc
kháng chiến quân Tần (thế kỷ II - trước Công nguyên, đến năm 1975 kế thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước) trong vòng 22 thế kỷ, dân tộc ta có tới 12 thế kỷ
phải tiến hành kháng chiến chống lại nhiều kẻ thù thường có tiềm lực kinh tế và
quân sự vượt trội hơn ta gấp nhiều lần.
Những cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống quân xâm lược phương Bắc
trước đây, kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, kiểu mới trong thời hiện
đại đều là những cuộc chiến đấu không cân sức, diễn ra rất ác liệt cả về quy mô và


tính chất chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, khơng có con đường nào khác, cả
dân tộc đồng lịng nhất tề đứng dậy, cố kết với nhau, tạo thành sức mạnh to lớn
chiến đấu và chiến thắng quân thù. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Dân
ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa

đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước " [27, 171] .
Những điều kiện đó đã tác động sâu sắc tới quá trình hình thành và phát
triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, hình thành truyền thống đoàn kết, cố kết dân
tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước hình thành nên những phẩm chất đặc
biệt của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá dân tộc tác động lớn đến
sự hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Văn hoá, văn minh Việt Nam là một bộ phận của văn hoá, văn minh nhân
loại, đồng thời có bản sắc riêng, rất rõ nét của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất, mỗi dân tộc có truyền thống
văn hố riêng của mình (phong tục, tập qn, ngơn ngũ, tiếng nói) tạo nên một nền
văn hoá đa dạng, phong phú của nền văn hố thống nhất. Thống nhất trong tính đa
dạng, phức tạp.
Hơn thế, Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, là dải đất hẹp nằm
giữa núi cao trùng điệp, vừa tiếp giáp với các quốc gia trên đất liền vừa nối liền với
các quần đảo phía Nam. Việt Nam nằm giữa hai trung tâm văn hoá lớn nhất châu Á
là văn hoá ấn Độ và văn hoá Trung Hoa. Hai nền văn hoá ấy đã xâm nhập mạnh
mẽ vào đời sống văn hoá Việt Nam. Tuy vậy, nền văn hố Việt Nam khơng bị
đồng hố với văn hố bên ngoài. Trái lại, chúng ta vẫn giữ được cốt cách, bản sắc
riêng của mình. Đó là sự vững vàng về bản lĩnh, cốt
cách văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam, đồng thời rất nhạy bén thích nghi,
biết hội nhập, biết lựa chọn tinh hoa văn hoá thế giới biến nó thành giá trị văn hố
mang bản sắc dân tộc Việt Nầm. Tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức yêu nước, thương
nòi là một bộ phận cơ bản tạo thành văn hố Việt Nam. Nó vừa kết tinh những giá
trị tiêu biểu của truyền thống dân tộc, vừa kế thừa phát triển của nền văn hóa của
các dân tộc như là một cơ sở quan trọng để hình thành phát triển chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam.
Quá trình thống nhất quốc gia và sớm hình thành dân tộc độc lập dã tác

động mạnh mẽ đến sự hình thành phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam hình thành rất sớm, do yêu cầu chống thiên nhiên, chinh
phục thiên nhiên và do sự cố kết nhau lại để chống ngoại xâm. Truyền thống công
xã nông thôn Việt Nam đã là một yếu tố đóng vai trị đáng kể trong việc củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.


Quá trình hình thành, phát triển của nhà nước, gắn liền với quá trình thống
nhất quốc gia.
Tuy mỗi thời kỳ có tên gọi khác nhau, nhưng dân tộc Việt Nam được hình
thành là do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do nhu cầu trao
đổi kinh tế, văn hoá ngày càng gia tăng giữa các vùng, các miền lại với nhau, sớm
hình thành ý thức cộng đồng, đồn kết cố kết dân tộc. Đó là cơ sở của chủ nghĩa
yêu nước truyền thống.
* Nhân tố chủ quan.
Ngoài những điều kiện khách quan nêu trên tác động đến quá trình hình
thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chúng ta cần làm rõ những nhân tố
chủ quan - nhân tố quan trọng quyết định đến nội dung, hình thức của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam.
Từ khi hình thành nhà nước, từ nhà nước sơ khai ban dầu, đến nhà nước hiện
đại, bất kỳ nhà nước nào cũng quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, kế thừa và
phát triển truyền thống yêu nước của các thế hệ ông cha trong quá trình dựng nước
và giữ nước .
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, nội dung giáo dục truyền thống yêu
nước tập trung vào các mối quan hệ như: vua - nước (trung quân - ái quốc), làng nước (giữ làng - giữ nước), nước - nhà (nước mất - nhà tan), nước - dân (yêu nước
- thương dân)... Đó là các mối quan hệ rường mối của xã hội, trong đó quan hệ vua
- nước là cơ bản nhất. Với hệ tư tưởng Nho giáo, giáo dục tư tưởng trung quân là
cơ bản nhất. Giai cấp thống trị luôn giáo dục ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, giữ
vững sự thong nhất đất nước. Với mục đích bảo vệ quyền lợi, địa vị thống trị của
giai cấp bóc lột. Đất nước độc lập, quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị của họ được

bền vững, cịn khi đất nước khơng được độc lập thì điền trang, thái ấp, quyền uy
của giai cấp thống trị cũng khơng cịn. Đương nhiên, giáo dục ý thức độc lập dân
tộc khơng phải chỉ vì đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị, mà trong đó cịn có
quyền lợi của nhân dân. Chính vì vậy phong trào u nước chống giặc ngoại xâm
của quần chúng, chủ yếu là phong trào nông dân liên tiếp diễn ra dưới sự lãnh đạo
của các triều đại phong kiến. Quá trình đấu tranh của nhân dân đã khơi dậy, hun
đúc, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước sôi nổi của cả một dân tộc đặc biệt
trước hoạ xâm lăng.
Dân tộc ta thời nào cũng có những tấm gương yêu nước của các anh hùng,
nghĩa sĩ, các danh nhân trong các tầng lớp nhân dân đứng lên chống thiên tai, ngoại
xâm (nhưng chủ yếu là những tấm gương trong đánh giặc, giữ nước - gắn liền với
những chiến công, những sự nghiệp vẻ vang của lịch sử dân tộc). Những hình ảnh
về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Sơn Tinh trước kia, những tấm gương Bà Trưng
- Bà Triệu, Lê Lợi, Quảng Trung... mãi mãi là những hình tượng sáng ngời trong
bán đại anh hùng ca dựng nước, giữ nước bất hủ của dân tộc ta. Những tấm gương


đó được lưu truyền, kế tiếp và nâng lên tầm cao mới. Trong thời đại mới, cách
mạng Việt Nam do giai cấp vô sản lãnh đạo, tiếp tục giành, giữ, phát triển nền độc
lập của dân tộc theo tinh thần mới thì chủ nghĩa u nước có bước phát triển về
chất so với chủ nghĩa yêu nước thời phong kiến.
Tình u q hương đất nước, u thương giống nịi ln được gắn và bện
quyện với nhau trong ý thức của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, tình u đó đã
được chuyển thành ý thức biết nâng niu, quý trọng những giá trị văn hoá - tinh thần
của quần chúng, trở thành hành động thiết thực của quần chúng trong sự nghiệp
xây dựng đất nước. Đặc biệt trước hoạ xâm lăng, tình yêu ấy được chuyển sang
thái độ căm thù, ý chí quyết tâm chiến đấu của từng người dân, của cả cộng đồng
dân tộc đối với kẻ thù bán nước, cướp nước. Thái độ căm thù, khinh ghét kẻ thù,
tình yêu đất nước bao la đã trở thành giá trị đạo đức của truyền thống lịch sử dân
tộc ta trong suốt mdy nghìn năm lịch sử. Đó là nhân tố chính trị, tinh thần tạo nên

truyền thống sức mạnh của dân tộc ta. Trải qua các triều đại khác nhau, sự giáo dục
truyền thống đó đều được quan tâm, phát triển đúng mức, một yếu tố quan trọng
hình thành, phát triển truyền thống yêu nước Việt Nam [4, 14].
Từ sự phân tích những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trên đây
chúng ta có thể kết luận rằng: lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi ra đời đến nay là lịch
sử dựng nước đi đôi với giữ nước. Sự đoàn kết, cố kết dân tộc, thống nhất Tổ quốc
là xu hướng cơ bản, chủ yếu của dân tộc ta. Trong mọi thời kỳ lịch sử của dân tộc
đều tồn tại, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - một sức mạnh tinh thần, vật
chất mạnh mẽ trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển của dân tộc Việt
Nam.
1.1.3. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại.
"Chỉ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại" là một quan niệm dùng để chỉ một
giai đoạn phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
- yêu nước XHCN.
1. 1. 3. 1. Bản chất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại.
Một trong những bài học kinh nghiệm tổng quát của cách mạng Việt Nam
do Đại hội toàn quốc lần thứ tư của Đảng (1976) nêu ra là: "Giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử
cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách
mạng Việt Nam" [57,183]. Với việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH,
Đảng ta cũng đồng thời nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên tầm cao mới - chủ
nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh . Đó là "... Sự kết hợp nhuần nhuyễn trong
nội dung của nó truyền thống tinh hoa hàng nghìn năm của dân tộc ta với tinh
thần cách mạng của thời đại mới, với chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học của giai cấp công nhân hiện đại" [51, 48].


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại ra đời từ khi cách mạng Việt Nam có
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hơn 70 năm qua chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam hiện đại đã đóng vai trị động lực tinh thần to lớn trong việc huy động sức

mạnh của dân tộc vào sự nghiệp đấu tranh giành, giữ độc lập dân tộc trong giai
đoạn đã qua, đang và sẽ đóng vai trị quan trọng trong cơng cuộc xây dựng đất
nước từng bước quá độ lên CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam hiện đại đó là chủ nghĩa yêu nước XHCN, dựa trên cơ sở lập
trường của giai cấp công nhân, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh - chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, xã hội Việt Nam trở thành xã hội
thuộc địa nửa phong kiến. Để giải phóng dân tộc, đưa lại hạnh phúc cho nhân dân,
nhiều phong trào cứu nước đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước,
tiêu biểu như các phong trào Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục,
phong trào Duy Tân, kháng thuế ở Trung kỳ - đã liên tiếp nổ ra và thất bại. Điều đó
chứng tỏ không thể dùng sức mạnh của một chế độ đang suy tàn (chế độ phong
kiến) để chống lại một chế độ đang lên (CNTB); không thể giương cao ngọn cờ
dân chủ tư sản để chống lại chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách mạng Việt Nam đầu
thế kỷ XX đen tối, khủng hoảng về đường lối, khơng có đường ra. Vào thời điểm
như thế, Nguyễn ái Quốc, người thanh niên Việt Nam yêu nước xuất hiện, phát
hiện ra những nhu cầu lịch sử và tìm cách đáp ứng được nhu cầu đó của đất nước.
Trải qua chiêm nghiệm của những cuộc khởi nghĩa trước đó, nghiên cứu sự thành
cơng và thất bại của các cuộc cách mạng trên thế giới, tìm hiểu bản chất của chủ
nghĩa đế quốc và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Người rút ra những kết luận quan
trọng: "Mn cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác, con
đường cách mạng vô sảm, [29, 314] và "Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới
giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới" [27,4161.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo con đường của cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn của
cách mạng Việt. Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh
đạo ra đời, với cương lĩnh đúng đắn ngay từ đầu đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng
đường lối cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm đơ hộ của thực dân Pháp (l8581930).
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, trở

thành người cộng sản. Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn và chính
người cùng những người cộng sản Việt Nam đã thực hiện con đường cứu nước
mới. Một chủ nghĩa yêu nước mới của dân tộc Việt Nam xuất hiện. Chủ nghĩa yêu
nước theo hệ tư tưởng cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời và
đóng vai trị động lực tinh thần mạnh mẽ của nhân dân ta trong hai cuộc kháng


chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ
quốc; mở ra thời đại mới cả nước độc lập thống nhất đi lên CNXH.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là tiếp thu, kế thừa và
phát triển những giá trị tinh hoa truyền thống yêu nước do lịch sử để lại. Tình yêu
quê hương đất nước, yêu thương giống nòi; đùm bọc che chở lẫn nhau, ý thức phục
vụ Tổ quốc; tinh thần sẵn sàng hy sinh vì dân, vì nước... Tuy nhiên, chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh có bản chất giai cấp hồn tồn khác và có
biểu hiện cụ thể khác với chủ nghĩa yêu nước truyền thống.
Cơ sở lý luận - Tư tưởng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; là lý tưởng cách mạng độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đứng trên lập trường
của giai cấp cơng nhân để xem xét, lý giải các vấn đề về quê hương đất nước, con
người với văn hoá dân tộc, chế độ chính trị của đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam hiện đại có hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi
sáng, lập trường yêu nước hiện đại có thế giới quan, niềm tin cộng sản chỉ đạo
hướng dẫn. Mục tiêu, phương hướng hành động của chủ nghĩa yêu nước hiện đại
bao giờ cũng được xác định từ những cơ sở lý luận, thực tiễn sâu sắc, đồng thời chỉ
ra những điều kiện, phương thức để thực hiện mục tiêu đề ra.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là sự hoà quyện các yếu tố dân tộc,
giai cấp, quốc gia, quốc tế; dân tộc, giai cấp và nhân loại không đối lập nhau.
Chủ nghĩa. yêu nước Việt Nam hiện lại !à động lực tinh thần, vật chất mạnh
mẽ, hướng mọi khả năng, sức mạnh của dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập

dân tộc thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên CNXH.
1.1.3.2. Nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại không đó lập mà kế thừa và phát
triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên tầm cao mới, chất lượng mới. Đó là chủ
nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, "... đòi hỏi phải gắn liền làm một lòng yêu Tổ
quốc với lòng yêu chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa" (50, 60). Những nội
dung chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa là:
Đó là một chủ nghĩa yêu nước theo lập trường chính trị của giai cấp công
nhân Việt Nam. Khi giai cấp cơng nhân bước lên vũ đãi chính trị đảm nhận sư
mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng, một giai cấp có khả năng nắm vững và giải
quyết đúng đắn về dân tộc, đưa dân tộc tiến lên thì cũng đồng thời làm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam mang hệ tư tưởng mới, tiên tiến nhất của thời đại, hệ tư
tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Giai cấp công nhân trở
thành địa biểu chân chính cho dân tộc, đại biểu qyền lợi cho dân tộc và cho nhân
dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn chặt và thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động, của dân tộc.


Tình cảm yêu nước của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là tình yêu
quê hương, đất nước một cách tồn diện (u q hương làng xóm, nơi "chơn rau,
cắt rốn" của mỗi con người, tiến lên yêu quý sự toàn vẹn, thống nhất Tổ quốc Việt
Nam, đấu tranh với những tư tưởng cát cứ, chia cắt đất nước, miền Nam - miền
Bắc, miền ngược, miền xi). Tình u Tổ quốc bắt nguồn từ tình u gia đình,
dịng họ, huyết thống tiến lên tình yêu đồng bào bao la rộng lớn, yêu quý, kính
trọng tất cả các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tình yêu quê hương,
đất nước cịn được biểu hiện ở tình đồng chí, đồng đội, tình u của những người
cùng chí hướng, mục đích. Tình u Tổ quốc gắn bó chặt chẽ với yêu chế độ
XHCN, người yêu nước phải là con người XHCN, yêu CNXH là người yêu nước
nhất.
Về ý chí và hành động, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại đề cao tinh

thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và CNXH. Độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH là đường lối cơ bản, chỉ đạo cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng
Cộng sản. Độc lập dân tộc trong thời đại mới có nội dung sâu sắc hơn đó là độc lập
vê fmặt lãnh thổ (khơng có sự xâm lược, nơ dịch của nước ngồi) độc lập về kinh
tế, chính trị, văn hóa... Độc lập dân tộc loại trừ khả năng nạn dân tộc này đe dọa,
thơn tính dân tộc khác. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; xây dựng thành công
CNXH là tạo ra những tiền đề cần thiết để bảo vệ, củng cố vững chắc nền độc lập
dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại đòi hỏi mọi người phải biết kế
thừa, bảo vệ, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt trong điều kiện mở rộng
giao lưu quốc tế và tham gia ngày càng sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế đa
phương, đa dạng, chúng ta thực hiện hịa nhập, nhưng khơng hịa tan. Trong q
trình tham gia hợp tác với cac sns khu vực và trên thế giới chúng ta vẫn giữ vững
mục tiêu CNXH, giữ vững cốt cách, bản sắc văn hóa Việt Nam. Chủ nghĩa yêu
nước hiện đại không cho phép chúng ta cam chịu đói nghèo lạc hậu. Mỗi người
phải phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và sự nghiệp xây
dựng đất nước theo don đường xã hội chủ nghĩa, biến nước ta thành nước xã hội
chủ nghĩa có cơng nghiệp phát triển, hiện đại.
Chủ nghĩa u nước Việt Nam hiện đại là sự hoà quyện, kết hợp hài hoà
các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại; chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân; giải quyết hài hồ giữa lợi ích cá nhân gia đình - tập thể - xã hội. Sự kết hợp này được biểu hiện thông qua từng con
người, từng tổ chức và cả cộng đồng dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, chủ nghĩa sô vanh nước lớn, sự kỳ thị dân tộc, sắc tộc, chủng
tộc, tính tự ty dân tộc, dân tộc hẹp hòi, từ bỏ sự giúp đỡ quốc tế đối với các dân tộc
khác.


Như vậy, nội dung của chủ nghĩa yêu nước hiện đại thể hiện tập trung mục
tiêu, lý tưởng của dân tộc ta, nhân dân ta là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1.1.4. Biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong quân đội ta hiện
nay.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức xã hội đặc biệt, công cụ bạo lực
sắc bén của nhà nước chun chính vơ sản. Qn đội ra đời là do yêu cầu của cuộc
đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, luôn tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại,
phát triển của nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Quân đội nhân dân Việt Nam, thành phần nòng cột của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam, là quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ mang
bản chất của giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam có trách nhiệm cùng toàn dân bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và chế độ XHCN,
bảo vệ nhân dân, bảo vệ mọi thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ chủ yếu của quân đội là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong
mọi tình huống; vận động, giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước; lao
động sản xuất; làm tròn nhiệm vụ quốc tế.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân cách mạng của dân, do dân, vì dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm những người khoẻ, trẻ, tiêu biểu cho ý chí,
hành động mưu trí, sáng tạo, dũng cảm nhất của quần chúng nhân dân trong mọi
giai đoạn cách mạng. Môi trường, điều kiện hoạt động của quân đội ta là nơi thể
hiện đầy đủ các nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại. Mặt khác, do
tính chất, nhiệm vụ đặc thù của quân đội nên những nội dung đó vừa có những
biểu hiện chung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, vừa có những nét đặc thù
riêng. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong quân đội
ta hiện nay là:
Nhận thức sâu sắc trách nhiệm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân,
bảo vệ mọi thành quả cách mạng trong bất kể tình huống nào.
Ngày nay Tổ quốc đã giành được độc lập, thống nhất đang từng bước quá độ

đi lên CNXH. Tuy vậy, nền độc lập dân tộc của chúng ta đang đứng trước những
thách thức mới, kẻ thù đang tiến hành âm mưu xoá bỏ nền độc lập dân tộc, sự
thống nhất của Tổ quốc ta, xố bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Chúng khơng từ một
thủ đoạn nào: "diễn biến hồ bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ gây xung đột xã hội
và không loại trừ khả năng chúng dùng lực lượng trực tiếp phát động cuộc chiến
tranh bằng vũ khí cơng nghệ cao tiến hành xâm lược nước ta như chúng đã làm ở


một số nơi trên thế giới. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, hơn lúc nào
hết chủ nghĩa yêu nước của quân đội phải thể hiện ở sự nhận thức sâu sắc nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ
Đảng, bảo vệ nhân dân... trong bất kỳ tình huống nào. Đảng, Tổ quốc, nhân dân
ln tin tưởng, trơng đợi vào qn đội. Về phần mình, qn đội cũng luôn ý thức
được trọng trách nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang của mình trước Đảng, Tổ quốc,
nhân dân. Nhận thức sâu sắc về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của quân đội phải được
thể hiện ở nhận thức và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH;
kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tăng cường vai trị lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới hiện nay; giữ vững bản
chất giai cấp công nhân và tăng cường vai trò, năng lực quản lý xã hội của Nhà
nước ta; giữa vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển của đất nước ta
hiện nay v.v...
Hơn lúc nào hết, chủ nghĩa yêu nước trong quân đội phải được thể hiện ở
lịng trung thành vơ hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; có ý chí qyuết
chiến, quyết thắng, sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì CNXH, vì
hạnh phúc của nhân dân; ln đặt lợi ích dân tộc, lợi ích cách mạng lên trên lợi ích
cá nhân. Đó chính là việc phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân
đội trước đây trong vào điều kiện mới.
Hiện nay đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, khoa học - công nghệ, bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực:

chính trị, kinh tế, khoa học - cơng nghệ, văn hóa, qn sự, đối ngoại; bảo vệ Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Vì vậy, lịng trung thành
tuyệt đối của quân đội đối với Tổ quốc phải được thể hiện cụ thể bằng hành động
thực tế để làm cho yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN được thực
hiện trong mọi tình huống. Trong điều kiện chiến tranh trước dây, lịng trung thành
vơ hạn với Tổ quốc của quân đội được kiểm nghiệm thực tế bằng hành động chiến
đấu và chiến đấu thắng lợi chống kẻ thù xâm lược. Ngày nay, lòng trung thành đó
lại có những yêu cầu và nội dung mới hơn, gắn với những tiêu chí về nhận thức,
tình cảm và hành động bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều
kiện mới [38].
Quân đội luôn được giao những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, ác liệt, khẩn
trương với yêu cầu phải hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ đó trong mọi tình
huống. Do đó, mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội phải xây dựng cho mình sự kiên
định, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi
nhiệm vụ Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó, ln làm trịn chức năng đội quân
chiến đấu, sản xuất, công tác.


Chủ nghĩa yêu nước trong quân đội hiện nay được biểu hiện cụ thể ở nhận
thức sâu sắc về đối tượng tác chiến và có thái độ đúmg, hành động kịp thời, kiên
quyết, sáng suốt trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Nhận rõ kẻ thù (kẻ thù cơ bản lâu dài, kẻ thù nguy hiểm trực tiếp trước mắt)
và bản chất, âm mưu thủ đoạn của chúng là yêu cầu thường xuyên được đặt ra đối
với quân đội, và hiện nay lại càng hết sức cấp thiết. Bởi lẽ, âm mưu, thủ đoạn của
chúng ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong suy nghĩ, hành động của mình, hơn ai
hết, qn đội ta phải ln hiểu rõ mình hành động, chiến đấu và chiến đấu thắng
lợi với kẻ thù nào, chiến đấu vì ai, cho ai? Khơng một chút mơ hồ, lơ là mất cảnh
giác với các loại kẻ thù hiện nay.
Lịch sử chứng minh, quân đội ta luôn phải chiến đấu với những kẻ thù hung
hãn có vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, với nhiều thủ đoạn thâm độc. Để đánh

thắng chúng, đòi hỏi quân đội ta khơng những phải có bản hành chính trị vững
vàng, có ý chí quyết chiến, quyết thắng, mà phải biết thắng kẻ thù bằng đường lối,
nghệ thuật quân sự, cách đánh sáng tạo, tài tình của dân tộc Việt Nam. Qua thực
tiễn, quân đội ta từng bước hình thành nên cách đánh phù hợp, từ đánh du kích tiến
lên đánh chính quy, từ vận động chiến, tiến lên đánh tập trung tiêu diệt cụm tập
đoàn cứ điểm của địch; lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn... Đó vừa là nghệ thuật
quân sự và cách đánh độc đáo, vừa thể hiện ý chí, quyết thắng, biết đánh, biết
thắng đúng lúc, dúng cách của quân đội ta đối với mỗi ke thù trong những điều
kiện, tình huống cụ thể.
Chủ nghĩa yêu nước trong quân đội hiện nay còn được biểu hiện ở tinh thần
vì nhân dân chiến đấu, vì nhân dân phục vụ, vì nhân dân quên mình.
Quân đội ta là quân đội của dân do dân, vì dân, chức năng chủ yếu của quân
đội là chiến đấu đồng thời quân đội ta còn là đội quân sản xuất và đội quân công
tác. Hơn ai hết mỗi cán bộ, chiến. sĩ đều hiểu rõ mục đích chiến đấu, cơng tác của
họ là vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân trong đó có quê
hương, gia đình người thân của họ. Trong chiến tranh ác liệt cũng như trong hồ
bình xây dựng, kiến thiết Tổ quốc, ở đâu quân đội cũng thể hiện rõ tinh thần vì
nhân dân quên mình, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, bảo vệ, che chở, giúp đỡ
nhân dân. Biết bao tấm gương sáng dám hy sinh quyền lợi, thậm chí tính mạng của
gia đình, bản thân mình để cứu dân, giúp dân trong những trận chiến đấu ác liệt
trong phịng chống thiên tai, trong xố đói giảm nghèo... trong cuộc sống hàng
ngày hiện nay là biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân đội
ta. Đảng, Tổ quốc và nhân dân mãi mãi tin cậy, tự hào về quân đội ta.
Chủ nghĩa yêu nước trong qn đội hiện nay cịn được thể hiện ở tình cảm
gắn bó, yêu mến của mỗi cán bộ, chiên sĩ đối với đơn vị mình nói riêng, với qn
đội nói chung.


Chủ nghĩa yêu nước là một phạm trù có nội hàm rất rộng lớn nhưng lại được
biểu hiện rất cụ thể ở lý trí và tình cảm của mỗi con người gắn với vai trị xã hội và

mơi trường hoạt động cụ thể, khơng có chủ nghĩa u nước chung chung, trừu
tượng. Vì vậy, đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội thì yêu nước phải được biểu hiện ở
sự quan tâm chăm lo xây dựng đơn vị mình ln vững mạnh với tình cảm thực sự
u thương, gắn bó; phải giải quyết đúng đắn, hài hoà các mối quan hệ xã hội
trong đơn vị với tinh thần trách nhiệm chính trị cao (quan hệ cán bộ - chiến sĩ,
chiến sĩ - chiến sĩ, cá nhân - tập thể, tập thể - tập thể, lãnh đạo, chỉ huy và phục
tùng). Khơng có từng đơn vị mạnh, sẽ khơng có qn đội mạnh và do đó cũng
khơng có lực lượng nịng cốt bảo vệ Tổ quốc mạnh. Đối với cán bộ, chiến sĩ trong
qn đội hiện nay khơng thể nói "tơi u nước" mà lại khơng u mến đơn vị
mình, khơng đưa hết sức lực và trí tuệ của mình để xây dựng đơn vị mình vững
mạnh, khơng góp phần tơ thắm thêm truyền thống vẻ vang của đơn vị và của qn
đội, khơng nâng cao lịng tự hào về người quân nhân cách mạng và về Quân đội
nhân dân Việt Nam. Hiện nay, trong điều kiện thời bình, trước tác động của nhiều
yếu tố xã hội thì những vấn đề trên tưởng như cũ mà lại mang những sắc thái, yêu
cầu và nội dung rất mới cần phải có ở những người quân nhân cách mạng yêu
nước, yêu CNXH.
Quân đội nhân dân Việt Nam khơng những đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
đối với dân tộc, mà cịn hồn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế bằng mọi khả năng,
điều kiện của mình. Từ giúp đỡ bằng tinh thần, ủng hộ các cuộc chiến tranh chính
nghĩa của nhân dân các dân tộc, lên án các cuộc chiến tranh phi nghĩa, đến sự giúp
đỡ vật chất, thậm chí cả xương máu của mình cho độc lập tự do, hạnh phúc của
nhân dân các dân tộc anh em. Do yêu cầu của các dân tộc anh em, quân đội ta sẵn
sàng giúp bạn chiến đấu. Khi hoàn thành nhiệm vụ, quân đội ta lại trở về Tổ quốc.
Vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, với tinh thần quốc tế trong sáng của quân đội cách
mạng, mang bản chất của giai cấp công nhân, hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" ln toả
sáng, được kính trọng trong lịng nhân dân các dân tộc trên thế giới... Đó chính là
một biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước XHCN Việt Nam hiện nay cần
được phát huy hơn nữa.
Những biểu hiện trên đây của chủ nghĩa yêu nước trong quân đội ta đòi hỏi
rất cao ở sự thống nhất ý chí, hành động mn người như một; ở sự giác ngộ sâu

sắc, đồng đều, ổn định, bền vững của mọi cán bộ, chiến sĩ các đơn vị và toàn
quân; ở tinh thần hy sinh quên mình, ln đặt lợi ích cách mạng, dân tộc lên trên
lợi ích cá nhân; ở lịng trung thành vơ hạn, tuyệt đối với Tổ quốc với Đảng, với
nhân dân; lòng thuỷ chung với bè bạn trên thếgiới; xử lý kịp thời, kiên quyết, có
hiệu quả các tình huống đem lại thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng.


Tóm lại, biểu hiện tập trung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong quân
đội ta hiện nay là cụ thể hoá, hiện thực hoá với yêu cầu mới, chất lượng mới truyền
thống, bản chất của quân đội trong điều kiện mới: Trung với Đảng,
Hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng như lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự tơn vinh
của nhân dân ta.
1. 2. Vai trò của giáo dục chủ nghĩa yêu nước và các nhân tố quy định
chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội ta hiện nay.
1. 2.1. Vai trò của giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với quân đội ta.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội là hoạt động tự giác của các
chủ thể với mục tiên, yêu cầu, nội dung và phương pháp cụ thểphù hợp với tình
hình, nhiệm vụ của quân đội và cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, với
những điều kiện giáo dục nhất định tác động tới mỗi quân nhân và tập thể quân
nhân nhằm nâng cao giác ngộ chủ nghĩa yên nước, cả về tư tưởng, tình cảm, ý chí
và hành động u nước, thực hiện "tồn qn một ý chí" "qn với dân một ý chí"
nhằm xây dựng thành cơng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đó là quá trình diễn ra thường xuyên, liên tục theo những tư tưởng chỉ đạo
nhất quán và bằng nhiều hình thức, biện pháp phong phú, đa dạng.
Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức của mỗi quân nhân và tập thể quân
nhân nói chung, chủ nghĩa yêu nước trong họ nói riêng, khơng bao giờ hình thành
và phát triển một cách tự phát. Quân nhân trong quân đội ta, dù là những chiến sĩ
mới, trong mỗi người đều có tinh thần yêu nước ở các mức độ khác nhau. Đó là kết

quả của hoạt động giáo dục trong từng gia đình, ở nhà trường, của xã hội và quân
đội. Nhưng để đạt tới trình độ giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa u nước Việt Nam
trong thời đại Hổ Chí Minh thì họ cần phải được giáo dục, bồi dưỡng một cách cơ
bản, thường xun, có mục đích rõ ràng, có kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học để
nâng tinh thần u nước vốn có trong họ lên một trình độ cao hơn về chất - chủ
nghĩa yêu nước.
Mục tiêu của giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho quân nhân được quy định bởi
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng và quân đội. Mỗi quân nhân phải có
giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa yêu nước cả về tư tưởng, tình cảm, ý chí, hành động,
trung với nước và sẵn sàng xả thân vì đất nước. Mỗi giai đoạn cách mạng, đều có
những mục tiêu cụ thể phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của giai đoạn đó. Mục tiêu
giáo dục chủ nghĩa yêu nước càng rõ ràng và cụ thể bao nhiêu thì tính tự giác của
q trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước, chất lượng, hiệu quả giáo dục chủ nghĩa
yêu nước càng cao bấy nhiêu.


Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cũng như bất cứ loại hình giáo dục nào khác
đều có chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục. Tuy nhiên, không thể có ranh giới
tuyệt đối giữa chủ thể và đối tượng giáo dục. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan
hệ biện chứng.
Xét về hoạt động giáo dục thì chủ thể giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong
quân đội là những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và các cán bộ chuyên môn, kỹ thuật
khác; là những đảng viên và các tổ chức Đảng; Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, các tổ chức quần chúng và tập thể quân nhân. Các lực lượng giáo dục đó
hoạt động dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, sự điều hành, quản lý của hệ
thống chỉ huy, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chính trị các cấp. Hoạt động của
chủ thể giáo dục giữ vai trò quyết định về phương hướng, mục tiêu, nội dung và
chất lượng của giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Tuy nhiên, chủ thể giáo dục chủ
nghĩa u nước muốn thực hiện tốt vai trị đó phải đặt trong mối quan hệ và chịu
sự tác động của các yếu tố cấu thành quá trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước.

Trong hoạt động giáo dục thì đối tượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước là tất
cả các quân nhân không phân biệt cấp bậc, chức vụ, nghề nghiệp, tuổi đời và tuổi
quân. Nhưng trong hoạt động tự giáo dục thì họ lại là chủ thể. Như vậy họ vừa là
khách thể vừa là chủ thể của quá trình giáo dục chủ nghĩa u nước. Khơng ai
được phép đứng ra ngồi q trình ấy. Hoạt động của đối tượng giáo dục chịu sự
điều khiển của chủ thể giáo dục và chịu sự chi phối của mục tiêu, nội dung,
phương pháp, hình thức, phương tiện của quá trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước .
Phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục chủ nghĩa yêu nước hợp
thành những điều kiện giáo dục nói chung nhưng với nội dung cụ thể là chủ nghĩa
yêu nước, trong một môi trường với khách thể và chủ thể cụ thể là quân đội.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước là một nội dung cơ bản, có vị trí đặc biệt quan
trọng trong cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng của quân đội ta.
Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng ln có vai trị to lớn trong nâng cao
sức mạnh tổng hợp của quân đội mà trước hết là sức mạnh chính trị - tinh thần.
Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng góp phần quan trọng bảo đảm cho quân đội
ta hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Cơng tác
giáo dục chính trị - tư tưởng trong quân đội ta bao gồm nhiều nội dung như: giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước; tình hình nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của
quân đội, của đơn vị; giáo dục về truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc; vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; giáo dục về văn hóa, đạo đức,
lối sống, pháp luật,... Trong đó, giáo dục chủ nghĩa yêu nước vừa là một nội dung
cơ bản vừa là mục tiêu xun suốt của cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Sự
giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa yêu nước của quân nhân và tập thể quân nhân vừa là kết
quả trực tiếp của giáo dục chủ nghĩa yêu nước, vừa là kết quả tổng hợp do sự tác


động của các loại hình giáo dục khác. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước không những
là nội dung cơ bản của giáo dục chính trị - tư tưởng mà nó còn thúc đẩy sự phát
triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của tất cả các hoạt động giáo dục khác trong

quân đội; ngược lại, chất lượng của giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội
phụ thuộc vào kết quả của các hoạt động giáo dục khác. Đó là sự tác động biện
chứng của các quá trình giáo dục có cùng một mục tiêu nhằm hình thành những
phẩm chất cần thiết của người quân nhân cách mạng và bảo đảm cho quân đội
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao cho.
Những điều trình bày trên đây cho thấy, giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong
quân đội có vai trị cực kỳ quan trọng trong nâng cao sức mạnh chiến đấu và chất
lượng tổng hợp của qn đội trước hết là chất lượng chính trị.Vai trị quan trọng
đó của giáo dục chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện trên những nội dung cơ bản
sau:
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước là cơ sở để mọi quân nhân và quân đội kiên
định lý tưởng chiến đấu, lập trường cách mạng; nâng cao bản lĩnh chính trị, lịng
trung thành với Đảng, đối với Tổ quốc và dân tộc.
Lý tưởng chiến đấu, lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng,
lịng trung thành vơ hạn với Đảng, với Tổ quốc và dân tộc là yêu cầu quan trọng
hàng đầu và là phẩm chất chủ yếu, cơ bản nhất của mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội.
Đây là những yếu tố vừa phản ánh bản chất, nguồn gốc sức mạnh của quân đội,
vừa nói lên mục tiêu, phương hướng, yêu cầu xây dựng và chiến đấu của quân đội
ta trong tất cả các giai đoạn phát triển của mình. Những phẩm chất này có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu tồn trong bộ các hoạt động của quân đội.
Sự hình thành những phẩm chất đó ở người quân nhân và các tập thể quân
nhân do sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó
giáo dục chủ nghĩa yêu nước giữ vai trò hết sức quan trọng.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước góp phần làm cho người quân nhân cách mạng
giác ngộ sâu sắc lý tưởng chiến đấu của quân đội ta, nhận rõ mối quan hệ biện
chứng giữa yêu nước và yêu CNXH trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở đó mà
ln kiên định, vững vàng trước mọi biến động và thử thách, vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ, cống hiến hết sức mình cho mục tiêu lý tưởng đã lựa chọn.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh giúp cho
người quân nhân có khả năng "tự miễn dịch" trước tác động chiến lược "diễn biến

hồ bình" của chủ nghĩa đế quốc và những tiêu cực xã hội, làm cho họ ln có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc với nhân
dân. Họ có cơ sở để nhận thức sâu sắc rằng trung với Đảng, trung với nước, hiếu
với dân cũng chính là nhằm bảo vệ lợi ích của chính gia đình họ và bản thân họ,
của chính q hương, làng xóm thân yêu của họ.


×