Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Quan hệ hợp tác quảng trị (việt nam) savanakhẹt (lào) từ năm 1986 đến 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.35 KB, 131 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
Mục lục……………………………………………………………………

1

A. Mở đầu …………………………………………………………….….

4

B.

Nội

dung.................................................................................................

10
Chương 1: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ hợp tác hai tỉnh
Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến 2008……………...........................

10

1.1 Sự tương đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa QuảngTrị-Savanakhẹt….. 10
1.1.1 Sự tương đồng về địa lý…………………………………………….. 10
1.1.2 Sự tương đồng về lịch sử, văn hóa………………………………….. 14
1.2 Quan hệ Quảng Trị- Savanakhẹt trước năm 1986……………………. 17
1.2.1 Quan hệ Quảng Trị- Savanakhẹt trước 1954………………………..

17



1.2.2 Quan hệ Quảng Trị- Savanakhẹt giai đoạn 1954- 1975……………. 22
1.2.3 Quan hệ Quảng Trị- Savanakkhẹt giai đoạn 1976- 1986…………...

28

1.3 Những nhân tố tác động đến mối quan hệ hợp tác
Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến 2008………………………………... 43
1.4 Quan hệ Quảng Trị- Savanakhẹt trong bối cảnh quan hệ
Việt Nam- Lào……………………………………………………………

47

Tiểu kết chương 1……………………………………………………….

53

Chương 2: Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa- giáo dục và an ninh
quốc phòng Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986-2008………....................

55

2.1 Quan hệ hợp tác kinh tế Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến 2008…

55

2.1.1 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực nông- lâm nghiệp và thủy lợi…….

55


2.1.2 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực công nghhiệp và xây dựng cơ bản

61

2.1.3 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thương mại……………….............

64

2.2 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục Quảng Trị-


2

Savanakhẹt từ 1986 đến 2008…………………………………………...

69

2.2.1 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, xã hội…………………..

69

2.2.2 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo………………….

77

2.3 Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực an ninh- quốc phòng
Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến 2008……………………………….

83


2.3.1 Quan hệ hợp tác về an ninh quốc phòng…………………………...

83

2.3.2 Quan hệ hợp tác về bảo vệ biên giới……………………………….

85

Tiểu kết chương 2……………………………………………………….

95

Chương 3: Một số nhận xét trong quan hệ hợp tác
Quảng Trị-Savanakhẹt…………………………………………………

97

3.1 Những thành tựu trong quan hệ hợp tác
Quảng Trị- Savanakhẹt…………………………………………………..

97

3.2 Những khó khăn, thách thức trong quan hệ hợp tác
Quảng Trị- Savanakhẹt………………………………………………….. 103
3.3 Triển vọng trong quan hệ hợp tác Quảng Trị- Savanakhẹt………….. 108
C. KẾT LUẬN………………………………………………………….. 112
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………. 115
E. PHỤ LỤC…………………………………………………………….. 124



3

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ASEAN

:Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – Association of Southeast
Asian Nation

AFTA

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – ASEAN Free Trade Area

CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân
ĐCS

: Đảng Cộng sản

NXB

: Nhà xuất bản

TTLT

: Trung tâm lưu trữ

UBCQ

: Ủy ban chính quyền


UBND

: Ủy ban nhân dân.

USD

: United States of Dollas – Đô la Mỹ

VNĐ

: Việt Nam đồng


4

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Quảng Trị - Savanakhẹt là hai tỉnh thuộc hai nước Việt Nam và Lào, là
hai tỉnh láng giềng “kết nghĩa anh em” gắn bó keo sơn, không chỉ gần gũi
nhau về địa lý, lịch sử mà còn gần gũi nhau về văn hóa. Cho nên hai tỉnh có
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau từ lâu đời. Trong quá trình dựng nước
và giữ nước, nhân dân hai tỉnh Quảng Trị - Savanakhẹt đã phát huy được
truyền thống yêu nước của mình. Qua những thăng trầm biến cố của lịch sử,
quan hệ giữa hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt vẫn không ngừng củng cố và
phát triển. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, sự phối hợp tác chiến của nhân dân hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt đã
góp phần cùng nhân dân hai nước Việt Nam và Lào hoàn thành sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1975), cùng với sự

chuyển biến giữa hai quốc gia Việt Nam và Lào, mối quan hệ giữa hai tỉnh
Quảng Trị- Savanakhẹt cũng gắn chặt hơn không chỉ về chính trị, đối ngoại,
mà còn có bước chuyển biến mới trong quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh
vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa- xã hội và an ninh quốc phòng. Trong
đó quan hệ hợp tác về kinh tế và chính trị có vị trí quan trọng và là cơ sở chủ
yếu của mối quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt nói riêng và
Việt Nam- Lào nói chung đánh dấu tình hữu nghị, tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau, cùng nhau “chia ngọt sẽ bùi”, kết tình anh em của hai tỉnh Quảng TrịSavanakhẹt. Tất cả vì thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
của hai dân tộc.


5

Ngày nay với xu thế “toàn cầu hóa”, “khu vực hóa” đang diễn ra và phát
triển mạnh mẽ như vũ bão. Việc duy trì, củng cố và phát triển quan hệ hữu
nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam- Lào nói
chung cũng như hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt nói riêng vô cùng quan trọng
và cần thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách hoàn chỉnh có hệ
thống về mối quan hệ hợp tác này hết sức cần thiết, mang tính khoa học và có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Quan hệ Việt Nam- Lào nói chung và quan hệ Quảng Trị- Savanakhẹt
nói riêng đang diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều
thay đổi. Xu thế hội nhập quốc tế diễn ra, buộc các nước cùng nhau tham gia
hội nhập, cùng nhau phát triển. Hòa chung với các quốc gia trên thế giới và
khu vực, Việt Nam và Lào cũng đã tham gia vào hội nhập các quốc gia Đông
Nam Á (gọi tắt ASEAN) và còn tăng cường hơn nữa sự hợp tác kinh tế, coi
hợp tác kinh tế là chủ yếu, sự hợp tác và phát triển là yêu cầu của mỗi quốc
gia. Hai bên tham gia trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, hiểu biết lẫn nhau.
Qua đây cho thấy, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt là
một phần nằm trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam- Lào. Do đó, việc đẩy

mạnh và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh không những đem lại
thành tựu thiết thực trong mọi lĩnh vực mà còn góp phần làm cho quan hệ hợp
tác giữa hai nước được tăng cường hơn nữa cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để hai nước Việt Nam- Lào vững chắc hơn
trên con đường hội nhập khu vực và thế giới. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu mối quan hệ hợp tác Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến 2008 nhằm thúc
đẩy hơn nữa quá trình hợp tác cũng như tăng cường tình đoàn kết, gắn bó giữa
hai tỉnh cũng như hai nước ngày càng bền vững.
Xuất phát từ những lý luận thực tiễn trên, chúng tôi quyết định chọn đề
tài “Quan hệ hợp tác Quảng Trị (Việt Nam) - Savanakhẹt (Lào) từ 1986 đến


6

2008” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình, nhằm góp phần thêm trong
việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương. Thông qua đề tài chúng tôi
mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình giúp nhân dân hai tỉnh
Quảng Trị - Savanakhẹt hiểu rõ hơn về mối quan hệ hợp tác, góp phần thúc
đẩy mạnh mẽ và tăng cường tinh thần đoàn kết gắn bó của nhân dân Quảng
Trị - Savanakhẹt, cũng như nhân dân hai nước Việt Nam- Lào ngày càng bền
chặt hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có nhiều công trình đã nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ hợp tác giữa
hai nước Việt Nam và Lào. Nhưng chưa có một công trình cụ thể nào đi sâu
nghiên cứu về quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh thuộc khu vực hành lang kinh tế
Đông- Tây, là hai tỉnh giáp ranh thuộc tỉnh nghèo của Việt Nam và Lào. Cho
nên việc nghiên cứu về quan hệ hợp tác giữa Quảng Trị - Savanakhẹt nằm
trong tổng thể của mối quan hệ Việt- Lào. Nghiên cứu về đề tài này đã có
nhiều tác giả khai thác, nhưng ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó có một
số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:

Trong cuốn “Lịch sử Đông Nam Á” các tác giả: Lương Ninh, Đỗ Thanh
Bình, Trần Thị Vinh Nxb giáo dục (2005), đã chỉ ra mối quan hệ của các nước
trong khu vực, trong đó có nói đến quan hệ Viêt- Lào.
Trong cuốn “Quan hệ Việt- Lào, Lào - Việt” của trường Đại học khoa
học xã hội nhân văn - ĐHQGHN xuất bản năm 1993 đã đề cập đến vấn đề
quan hệ hợp tác của hai quốc gia.
Trong cuốn “ Quan hệ Việt Nam - Lào từ 1975 - 2005 của Nguyễn Thị
Phương Nam- Luận án tiến sĩ (2007) đã nêu lên một cách cụ thể về hợp tác
giữa hai nước trên mọi phương diện.
Trong cuốn “ Ngoại giao Việt Nam” Nhà xuất bản Công an nhân dân
phát hành 2004, tác giả Lưu Văn Lợi đã trình bày khá rõ nét về ngoại giao


7

Việt Nam. Trong đó có đề cập đến ngoại giao Việt – Lào.
Trong cuốn “ 25 năm hợp tác kinh tế, văn hóa khoa học kỹ thuật Việt
Nam- Lào” của tác giả Vũ Công Quý, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, đã nêu
nổi bật lên quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa- xã hội giữa hai
nước Việt Nam- Lào trong giai đoạn mới.
Tạp chí “ Mối quan hệ giữa Việt Nam- Lào trong bối cảnh Đông Nam
Á” Hội thảo khoa học 25 năm quan hệ hợp tác Việt - Lào và 40 năm quan hệ
ngoại giao hai nước, cũng nêu lên mối quan hệ của hai nước.
Tạp chí “Nhìn lại quan hệ hợp tác Việt - Lào trên lĩnh vực kinh tế, chính
trị, an ninh thời kỳ 1991 - 2001” của Nguyễn Hoàng Giáp cũng nêu rõ về mối
quan hệ hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh.
Những công trình nghiên cứu nêu trên, về cơ bản phản ánh mối quan hệ
hợp tác Việt Nam- Lào, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu
đề cập đến quan hệ hợp tác giữa Quảng Trị- Savanakhẹt. Tuy nhiên, cũng có
mọt số ít các công trình khai thác, khám phá về quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh,

nhưng đó chưa phải là những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu
đầy đủ, toàn diện về mối quan hệ hợp tác Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến
2008.
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi đã tham khảo các nguồn tư liệu
khác nhau như: các báo cáo tổng kết, các văn kiện, nghị quyết, các văn bản
thống kê, ngoài ra còn có các sách, báo, tạp chí có liên quan về quan hệ hợp
tác Việt Nam - Lào nói chung và Quảng Trị - Savanakhẹt nói riêng, làm cho
luận văn thêm sinh động phong phú.
Từ những thực tiễn trên cho thấy, đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào đi sâu vào mối quan hệ hợp tác giữa Quảng Trị- Savanakhẹt.
Vì thế việc tìm hiểu về mối quan hệ hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986
đến 2008 là một vấn đề cấp thiết, còn khá mới mang tính khoa học.


8

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ hợp tác Quảng Trị Savanakhẹt từ 1986 đến 2008.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ yếu vào quan hệ hợp tác Quảng TrịSavanakhẹt trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa giáo dục và an ninh quốc
phòng.
Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu đến những nhân tố tác động đến
quan hệ như về nhân tố địa lý, văn hóa lịch sử và những bước phát triển mới.
Về mặt thời gian: Luận văn bao quát từ 1986 đến 2008.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là hệ thống hóa toàn bộ tiến trình phát triển của
quan hệ hợp tác Quảng Trị - Savanakhẹt trên các lĩnh vực. Từ đó đưa ra
những nhận xét chung về chiều hướng và triển vọng của quan hệ hợp tác hai
tỉnh.

Nhiệm vụ của luận văn là giải quyết một cách có hệ thống các sự kiện,
cố gắng dựng lại một cách chân thực, khách quan, khoa học và có hệ thống
toàn bộ tiến trình lịch sử giữa hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt từ 1986 đến
2008.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi đã tham khảo các nguồn tư liệu
khác nhau, nhưng chủ yếu là dựa trên những nguồn tài liệu cơ bản sau:
Các báo cáo tổng kết, các văn bản, các biên bản ghi nhớ quá trình hợp
tác giữa hai tỉnh lưu tại trung tâm lưu trữ và một số trung tâm khác của Quảng
Trị. Một số văn kiện của ĐCS Việt Nam và Đảng NDCM Lào, ngoài ra còn có
những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam- Lào


9

của nhiều tác giả có liên quan đến đề tài này.
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi còn tham khảo thêm một số các
sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án… có liên quan về quan hệ hợp tác Việt
Nam- Lào nói chung và Quảng Trị- Savanakhẹt nói riêng, làm cho luận văn
thêm sinh động, phong phú.
Về mặt phương pháp: luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm chủ
nghĩa duy vật lịch sử, là kim chỉ nam để chúng tôi xử lý những nguồn tư liệu,
phân chia giai đoạn lịch sử. Trong luận văn này, chúng tôi còn sử dụng
phương pháp lịch sử, phương pháp logíc, phương pháp tổng hợp thống kê và
các phương pháp khác có liên quan như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, đối chiếu, tổng kết kinh nghiệm sử dụng nhằm giải quyết các vấn đề đặt
ra.
6. Đóng góp của đề tài
Theo ý kiến chủ quan của bản thân, luận văn có những đóng góp chủ
yếu sau:

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ hợp tác Quảng TrịSavanakhẹt giai đoạn từ 1986 đến 2008. Luận văn đã phác họa lại một cách
tổng thể và khách quan về mối quan hệ giữa hai tỉnh.
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ hợp tác Quảng Trị- Savanakhẹt, luận
văn đã đưa ra một số nhận xét, đánh giá và một số kết luận chung, một số
định hướng có tính tham khảo thiết thực cho quan hệ hợp tác giữa Quảng TrịSavanakhẹt trong giai đoạn mới.
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử địa phương giữa Quảng
Trị- Savanakhẹt nói chung.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:


10

Chương 1: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ hợp tác Quảng TrịSavanakhẹt từ 1986 đến 2008.
Chương 2: Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa- giáo dục và an ninh quốc
phòng giữa Quảng Trị - Savanakhẹt từ 1986 đến 2008.
Chương 3: Một số nhận xét về quan hệ hợp tác Quảng Trị - Savanakhẹt
từ 1986 đến 2008.


11

B. NỘI DUNG

Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN
HỆ HỢP TÁC QUẢNG TRỊ - SAVANAKHẸT TỪ 1986 ĐẾN 2008

1.1 Sự tương đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa giữa hai tỉnh Quảng
Trị - Savanakhẹt

1.1.1 Sự tương đồng về địa lý
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng, gần
gũi nhau về địa lý, lịch sử và văn hóa- xã hội. Thực tiễn đã khẳng định, trong
quan hệ quốc tế ít có nơi nào và nước nào cũng có đựợc mối quan hệ đặc biệt,
đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng như mối quan hệ Việt Nam –
Lào. Cùng với cả nước, Quảng Trị (Việt Nam)- Savanakhẹt (Lào) cũng không
nằm ngoài truyền thống quý báu đó.
Quảng Trị- Savanakhẹt là hai tỉnh láng giềng “núi liền núi, sông liền
sông”. Trong kháng chiến chống xâm lược cũng như trong lao động sản xuất,
hai tỉnh luôn luôn phối hợp giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Cùng chung
đường biên giới, lại có hệ thống giao thông đi lại thuận tiện, đó là những yếu
tố thúc đẩy để hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt mở rộng quan hệ hợp tác phát
triển kinh tế, văn hóa- xã hội và an ninh quốc phòng một cách bền vững, lâu
dài và tốt đẹp.
Quảng Trị là một tỉnh có vị trí địa lý và lịch sử quan trọng trong lịch sử
nước nhà. Ngày nay với cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, cửa khẩu quốc gia La
Lay, đường biên giới kéo dài với nước bạn Lào, cho nên Quảng Trị có nhiều
cơ hội hội nhập, quan hệ với các tỉnh bạn. Là tỉnh thuộc Trung Trung Bộ của
Việt Nam- khúc ruột của đất nước, phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam
giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía tây giáp tỉnh Savanakhẹt (CHDCND Lào),


12

phía đông giáp biển Đông. Với 206km đường biên giới, 86km chiều dài bờ
biển. Diện tích tự nhiên 5120km², tính đến hết năm 2007 dân số Quảng Trị là
626.300người [31;14].
Đặc điểm cơ bản của lãnh thổ Quảng Trị là sự phân hóa rõ rệt về mặt tự
nhiên từ Nam ra Bắc, từ Đông sang Tây theo chiều thẳng đứng và các hợp
phần tự nhiên trong hệ thống các bồn khu vực, được tạo ra do bởi những

ngách núi của dải Trường Sơn đâm ngang ra biển. Bên cạnh đó, Quảng Trị
còn có quốc lộ 1A, đường xe lửa xuyên Việt chạy qua, có đường 9 xuyên Á
nằm trong hệ thống hành lang kinh tế Đông- Tây (EWEC), từ các tỉnh miền
Trung Việt Nam qua Lào, Thái có khu kinh tế thương mại. Đặc biệt, trung tâm
kinh tế thương mại Lao Bảo với những chính sách ưu đãi là những lợi thế cơ
bản của Quảng Trị trong việc thực hiện các chương trình hội nhập kinh tế,
quan hệ với các tỉnh của các nước trong khu vực và thế giới.
Ở vị trí là khúc ruột của Việt Nam, Quảng Trị có địa hình tương đối đa
dạng, có rừng núi chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, có đồng bằng trung du,
có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, có nguồn nước và sinh vật đa
dạng.
Từ xa xưa Quảng Trị đã là một địa bàn có vị trí quân sự trọng yếu, một
trung tâm kinh tế, văn hóa- xã hội phát triển. Nhân dân Quảng Trị đã đổ nhiều
sương máu để đánh đuổi giặc ngoại xâm như: Nguyên, Minh, thực dân Pháp,
đế quốc Mỹ, giữ gìn độc lập của tổ quốc, xây dựng quê hương ngày một giàu
đẹp. Đặc biệt, nhân dân Quảng Trị có truyền thống đoàn kết với nhân dân
Savanakhẹt cùng nhau đấu tranh chống mọi kẻ thù. Hơn thế nữa, với tinh thần
đoàn kết hữu nghị, nhân dân hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt đã chia sẽ những
kinh nghiệm trong lao động sản xuất cũng như trong sự nghiệp phát triển
chung của đất nước.
Savanakhẹt là tỉnh miền núi của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, có


13

tổng diện tích tự nhiên là 21.774km², với số dân 824.662 người (số liệu điều
tra năm 2005). Địa thế Savanakhẹt nằm thoai thoải theo dòng sông Mêkông,
nhìn chung thuộc dạng đồng bằng, do đó từ thuở nào Savanakhẹt là vựa lúa
quan trọng cho cả xứ Lào.
Bên kia sông, phía tây giáp tỉnh Moukdahane của Thái Lan, phía đông

giáp tỉnh Lao Bảo (Việt Nam), toàn tỉnh có 15 huyện và một thành phố lấy tên
gọi là “thành phố Savanakhẹt”, đây là thành phố lớn thứ hai sau thủ đô Viêng
Chăn của Lào, trong huyện có tổng số 1502 làng lớn nhỏ khác nhau. Trên địa
bàn tỉnh có hai cửa khẩu chính là Đensavẳn- Lao Bảo (Quảng Trị) và
Moukdahane (Thái Lan)- Savanakhẹt, có đường số 9 Việt- Lào.
Cũng như các tỉnh khác của Trung Lào, Savanakhẹt là tỉnh có nhiều đồi
núi và trung du chiếm trên 2/3 diện tích đất đai, Savanakhẹt có địa hình thoai
thoải, giáp sông Mêkông nên nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ
trung bình trong năm từ 20- 34ºc, với hai mùa rõ rệt, mùa khô kéo dài 6 đến 7
tháng, mùa mưa kéo dài khoảng 4 đến 5 tháng. Mùa mưa là mùa tạo điều kiện
thuận lợi cho các loại cây trồng phát triển, đặc biệt rất thuận lợi cho việc gieo
trồng, sản xuất lúa. Đặc trưng của Savanakhẹt là lúa nếp, có thể nói, nơi đây
là nguồn cung cấp gạo lớn không chỉ cho riêng Lào mà còn là vựa gạo xuất
khẩu lớn ra bên ngoài.
Bên cạnh đó, Savanakhẹt là tỉnh có tài nguyên rừng phong phú và đa
dạng, rất thuận lợi cho việc phát triển nông- lâm nghiệp, có trữ lượng gỗ lớn
với nhiều loại gỗ quý hiếm có giá trị như lim, gỗ lát hoa, tràm và pơmu…
ngoài ra còn có các loại động vật qúy hiếm như voi, gấu đen Á châu, méo
vàng Á châu, bò tót Á châu, còn có đến 15 loài chim và các loại cây thơm quý
khác.
Rừng không chỉ là tài nguyên quý báu trong việc phát triển kinh tế- xã
hội, mà còn là nơi ở của nhân dân các bộ tộc Lào. Bên cạnh tài nguyên rừng,


14

Savanakhẹt còn có thế mạnh về sông, nằm trên dòng sông Mêkông và sông
Sêpôn rộng lớn, cùng với các con sông lớn nhỏ, hàng năm bồi đắp lượng phù
sa lớn, đem lại nhiều tiềm năng phát triển kinh tế cho Savanakhẹt. Là tỉnh
không có thế mạnh phát triển về đường bộ và đường sắt nên đường sông là

đầu mối giao thông quan trong đối với Savanakhẹt trong quá trình luân vận
chuyển, trao đổi giao lưu, quan hệ hợp tác với bên ngoài.
Tuy có nhiều thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên, nhưng Savanakhẹt
cũng gặp nhiều khó khăn, đó là trình độ dân trí còn thấp, người dân chủ yếu
sống bằng nghề nông và khai thác lâm sản. Là một tỉnh nghèo, chậm phát
triển, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, hệ thống giao thông đi lại chưa hoàn chỉnh,
khó khăn. Cho đến nay hệ thống đường sắt vẫn chưa có, hệ thống đường bộ
mấy năm trở lại đây mới khai thông nhưng bị xuống cấp hư hỏng nghiêm
trọng, việc giao lưu, trao đổi với bên ngoài đang là rào cản rất lớn đối với sự
phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội của tỉnh Savanakhẹt.
Với 206km đường biên giới chung, đã tạo thuận lợi cho hai tỉnh Quảng
Trị- Savanakhẹt nhiều tuyến giao thông quan trọng, mở ra những cơ hội, triển
vọng lớn về hợp tác trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa- xã hội và an ninh
quốc phòng. Hiện nay, dọc đường biên giới của Quảng Trị- Savanakhẹt có
nhiều tuyến đường giao thông qua lại, đặc biệt là cặp cửa khẩu Lao BảoĐensavẳn.
Thực hiện thỏa thuận hợp tác tiểu vùng Mêkông (GMS) và chủ trương
cải cách thủ tục hành chính giữa các nước trong khu vực, nhằm đẩy mạnh hệ
thống hoạt động giao lưu, hợp tác hơn nữa với nước bạn Lào, tỉnh Quảng Trị
đã tiến hành ký kết với Đensavẳn (Savanakhẹt) về việc triển khai kiểm tra
“một lần, một điểm dừng” tại cửa khẩu đầu tiên giữa việt Nam- Lào, tiên
phong đi đầu trong 6 nước tiểu vùng cùng thực hiện thí điểm mô hình này và
bước đầu có nhiều kết quả khả quan, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động


15

xuất nhập khẩu tại cặp cửa khẩu này.
Đặc biệt, ngoài 206km đường biên giới chung, Quảng Trị còn có đường 9 dài
85km gắn với đường xuyên Á, là cửa ngõ giao thương quan trọng đối với
Savanakhẹt, là mạch máu giao thông xuyên suốt. Ngoài ra, Quảng Trị còn có

5 cửa khẩu như: cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, cửa khẩu quốc gia La Lay và 3
cửa khẩu phụ bản Thanh, bản Cheng, Tà Rung, là các cặp cửa khẩu quan
trọng trong quá trình giao lưu, trao đổi với các tỉnh bạn.
Ngoài những tuyến đường cơ bản, đường sông đóng một vai trò quan
trọng trong giao thông giữa Quảng Trị- Savanakhẹt. Quảng Trị có nhiều thuận
lợi cho hệ thống giao thông đường thủy, đặc biệt hai tuyến theo sông Mỹ Lệ
và sông Bến Hải, quan trọng hơn cả là cảng Cửa Việt. Cảng này đã góp phần
nâng cao hệ thống chuyên chở hàng hóa, giao thương với các tỉnh thành trong
nước và quốc tế, trong đó có các tỉnh bạn Lào. Như vậy, đường thủy là tuyến
đường giao thông quan trọng tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy hơn nữa trong
quan hệ hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội và an ninh quốc phòng
giữa hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt.
Như vậy, Quảng Trị- Savanakhẹt là hai tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi
để mở rộng quan hệ hợp tác trong mọi lĩnh vực. Với xu thế của thời đại,
những tiềm năng đó không thể quyết định sự phát triển quan hệ hợp tác của
hai tỉnh mà yếu tố quan trọng là Quảng Trị- Savanakhẹt phải có một cơ chế
quản lý, chính sách hợp tác cụ thể, đề ra mục tiêu có tính thiết thực nhằm thắt
chặt mối quan hệ hợp tác với nhau về mọi mặt. Để thực hiện điều đó, hai tỉnh
Quảng Trị- Savanakhẹt phải biết phát huy khả năng sẵn có của mình, khắc
phục những yếu kém, tận dụng sức mạnh ngoại lực có hiệu quả, thì sẽ tạo cơ
hội cho quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa- xã hội của hai tỉnh phát triển tốt đẹp
hơn.
1.1.2 Sự tương đồng về lịch sử, văn hóa


16

Từ sự tương đồng, gần gũi về điều kiện địa lý, trong quá trình hình thành
và phát triển, Quảng Trị- Savanakhẹt còn có sự tương đồng, gần gũi về lịch
sử, văn hóa.

Xét về địa bàn cư dân của Quảng Trị- Savanakhẹt, có nhiều tộc người
khác nhau, nhất là khu vực miền núi dọc biên giới giữa hai tỉnh. Nơi đây cư
dân chủ yếu thuộc các nhóm bộ tộc Việt- Thái, Khơme, Môn, tuy nhiên lịch
sử cư trú của các tộc người ở đây không đồng nhất, có tộc người di cư đến
sớm nhưng cũng có tộc người di cư đến muộn. Theo số liệu khảo sát năm
2005, trong tổng số 82.662 người của Savanakhẹt thì người Lào Lùm (Thái)
chiếm 72,85%, người Lào Thơng (Môn, Khơme) chiếm 19,63% và Lào Xủng
chiếm 6,7%, ngoài ra người Việt có 2813 người [26;31]. Trong khi đó, trên
địa bàn Quảng Trị, người kinh chiếm trên 90% dân số, rồi đến người Vân
Kiều, Pakô và một số dân tộc khác như Hoa, Mường, Thái, Cà Tu, Nùng,
Xêđăng, Dao. Họ chủ yếu định cư ở vùng rừng núi, nhất là dân tộc Vân Kiều.
Mặc dù, các dân tộc cư trú trên đất Quảng Trị- Savanakhẹt có khác nhau,
nhưng giữa các nhóm tộc người không có sự bài trừ, kỳ thị lẫn nhau, trái lại
họ chung sống hòa bình, đoàn kết giúp đỡ nhau, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi
trong lao động sản xuất cũng như chiến đấu chống ngoại xâm. Từ lâu nhân
dân hai tỉnh đã “kết nghĩa anh em”, coi nhau như anh em một nhà.
Chính điều này đã tạo nên nét tương đồng giữa Quảng Trị và
Savanakhẹt, giống nhau về điều kiện tự nhiên và xã hội, cho nên về phương
diện định canh, định cư cũng gần gũi, họ sống chủ yếu dựa vào nghề nông, có
một ngành nông- lâm phong phú và đa dạng, ngoài việc trồng lúa họ còn biết
phát rừng làm nương rẫy, làm ruộng bậc thang, biết chăn nuôi gia súc, gia
cầm, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải…Những nét tương đồng trong phương thức
canh tác của nhân dân Quảng Trị- Savanakhẹt đã kéo họ xích lại gần nhau hơn
trong các phong tục tập quán. Không chỉ có trong lao động sản xuất, mà trong


17

sinh hoạt vật chất thường ngày của nhân dân hai tỉnh cũng có nhiều điểm
giống nhau, họ ở nhà sàn, ăn cơm gạo nếp, gạo tẻ, mặc váy đối với con gái,

đóng khố cởi trần đối với con trai. Trong trang phục của con gái thường được
trang trí bởi những hoa văn thẩm mỹ, giàu trí tưởng tượng, sự đoàn kết gắn bó
trong cộng đồng các dân tộc, đặc biệt là những bộ váy áo của dân tộc Thái.
Bên cạnh đời sống vật chất, quá trình giao lưu, tiếp xúc diễn ra thường
xuyên giữa nhân dân các dân tộc hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt, đã tạo nên
một bức tranh về đời sống văn hóa, tinh thần phong phú và đa dạng. Nhiều
phong tục tập quán trong nghi lễ như cưới hỏi, ma chay, thờ cúng ông bà tổ
tiên hay cúng thần linh…những nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của
nhân dân hai dân tộc Việt- Lào được nhân dân hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt
kế thừa lưu truyền và phát huy từ đời này sang đời khác. Cuộc sống của họ
luôn vui vẻ, chan hòa, lạc quan yêu đời trước những thử thách khắc nghiệt của
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Những ngày lễ hội họ luôn tỏ ra
yêu đời, thích được ca hát, vui chơi bởi trong môi trường này là cơ hội thuận
lợi được giao tiếp, giao lưu với nhau sau những ngày lao động.
Hiện nay, mặc dù Quảng Trị- Savanakhẹt có đường biên giới quốc gia,
nhưng đôi khi đường biên giới chỉ có ý nghĩa tương đối. Do đặc thù của địa
bàn định canh, định cư, do mối quan hệ mật thiết giữa các nhóm dân cư dọc
biên giới, thậm chí là mối quan hệ thân tộc, đồng tộc. Nên trên thực tế, đường
biên giới quốc gia không thể chia cắt được mối quan hệ giữa các cộng đồng
dân cư vốn có từ lâu đời của nhân dân hai tỉnh sống dọc biên giới. Chính sự
tương đồng của nền văn hóa này mà trong suốt chiều dài lịch sử các thế lực
xâm lược đã không thể chia cắt, phá vỡ được tình đoàn kết gắn bó lâu đời của
Quảng Trị- Savanakhẹt.
Nói một cách tổng thể, nền văn hóa hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt


18

không những đã kết tinh được những tinh hoa văn hóa của dân tộc hai nước
Việt Nam- Lào, mà còn tiếp thu được những giá trị nền văn hóa nhân loại. Nét

đặc trưng thể hiện trong văn hóa của hai tỉnh là phong phú về loại hình, đa
dạng về màu sắc, vừa có tính độc lập lại vừa có tính thống nhất. Trong điều
kiện hiện nay, nét đặc trưng, sự tương đồng gần gũi về văn hóa lịch sử là điều
kiện tốt để tăng thêm sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau trong quá trình giao lưu,
hợp tác phát triển toàn diện.
Tuy nhiên, bên cạnh sự tương đồng tạo điều kiện trong quan hệ hợp tác,
giữa hai tỉnh vẫn còn có những khó khăn, nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
trong đời sống của cư dân Quảng Trị- Savanakhẹt. Đó là nạn di dân, di cư tự
do, vượt biên trái phép, các nhu cầu giao tiếp, đi lại giữa những người vốn
cùng đồng tộc, cùng ngôn ngữ văn hóa, làm cho việc quản lý xã hội, an ninh,
chính trị gặp nhiều khó khăn. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm nhưng cũng rất
phức tạp, nếu không được giải quyết tốt sẽ để lại hậu quả khó lường và sẽ có
ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ giữa Quảng Trị- Savanakhẹt nói riêng
và Việt Nam- Lào nói chung. Điều đó đặt ra yêu cầu cần phải thắt chặt hơn
nữa mối quan hệ hợp tác để giải quyết có hiệu quả các khó khăn và gìn giữ
phát huy được mối quan hệ đặc biệt này, đặc biệt là đối với các cấp lãnh đạo
hai tỉnh cần phải đưa ra những biện pháp, chính sách và những hoạch định
đúng đắn, thống nhất phù hợp với đường lối phát triển trên cơ sở hợp tác phát
triển cùng có lợi.
1.2 Quan hệ hợp tác Quảng Trị- Savanakhẹt giai đoạn trước năm
1986
1.2.1 Quan hệ Quảng Trị- Savanakhẹt trước 1954
Là hai tỉnh “núi liền núi, sông liền sông”, Quảng Trị- Savanakhẹt luôn
phải đối mặt với những khó khăn, thử thách. Chính trong hoàn cảnh lịch sử đó
mà hình thành nên truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái giữa nhân dân


19

hai tỉnh trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Viêt- Lào. Đặc biệt là

trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nước tư bản phương Tây mở
rộng quá trình tìm kiếm và cướp bóc thị trường thuộc địa ở các nước Á, Phi
và Mĩ latinh, trong đó có Việt Nam và Lào. Thực dân Pháp, cũng như đế quốc
Mỹ lần lượt nhảy vào Đông Dương, dùng lãnh thổ nước này làm bàn đạp
đánh chiếm tấn công nước kia, ra sức chia rẽ khối đoàn kết ba dân tộc Đông
Dương. Mối quan hệ chiến đấu của ba nước Đông Dương, liên minh chiến
đấu Việt- Lào được hình thành một cách tự nhiên.
Hòa chung vào không khí của nhân dân hai nước Việt- Lào, nhân dân hai
tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt, ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, với tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước
chống thù trong giặc ngoài đã khơi dậy và phát triển mạnh mẽ. Vào những
năm phong trào Cần Vương phát triển (1855), sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam trổi dậy, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang nhân dân đã
nổ ra trên khắp địa bàn Quảng Trị như: Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ và nam
cảng Cửa Việt.
Tháng 6/ 1886 nghĩa quân đã tiến công đốt phá nha phủ Triệu Phong,
đặc biệt chúng tấn công vào các đồn Đệ Nhất ( Khe Cây Giang), đệ nhị (Khe
Chử), đệ tam (Bến Me). Sau khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng bị đàn áp,
phong trào Cần Vương chấm dứt, nhiều nhà yêu nước trong cả nước nói
chung, ở Quảng Trị nói riêng vẫn tiếp tục nổi dậy chống Pháp, cứu nước
[85;30]. Nhà ngục Lao Bảo do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 để giam
giữ các “quốc sự phạm” miền Trung, trong tổng số 200 tù nhân giam ở nhà
đày Lao Bảo năm 1915, hầu hết đều bị bắt trong các phong trào văn thân, Cần
Vương, Duy Tân Hội…Theo kế hoạch phá ngục, ngày 28/9/1915 đoàn tù khi
trên đường về gần đến cổng nhà đày thì toàn thể anh em tù xông lên chém tên


20


cai ngục và 3 tên lính. Cùng lúc đó, 36 anh em tù chính trị còn lại tại nhà tù
Lao Bảo kịp thời hưởng ứng nổi dậy giết lính gác, cướp 26 khẩu súng, 16 lưỡi
lê, 5000 viên đạn, lập căn cứ ở vùng Ban Tạ Cha (Savanakhẹt). Đối diện với
kẻ thù, nhân dân hai tỉnh đã phát huy tinh thần đoàn kết, cùng nhau chống lại
thực dân Pháp xâm lược. Ngày 28/9/1915 thực dân Pháp bắt đầu tấn công vào
cửa khẩu, nhân dân cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị)- Đensavẳn (Savanakhẹt)
một lần nữa, đoàn kết nổi dậy chống mọi kẻ thù và có tiếng vang lớn đối với
nhân dân vùng Hướng Hóa- Quảng Trị và nhân dân tỉnh Savanakhẹt.
Sang thế kỷ XX, khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), phong
trào đấu tranh của nhân dân hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt chống Pháp diễn
ra mạnh mẽ và sôi nổi. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc trên
địa bàn hai tỉnh cũng đã có quan hệ mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp với nhau,
làm thất bại mọi âm mưu xâm lược, kế hoạch đen tối của địch nhằm chia rẽ
truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời của nhân dân hai tỉnh.
Tuy nhiên, cũng như phong trào chống Pháp của nhân dân Việt NamLào nói chung, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân hai tỉnh Quảng
Trị- Savanakhẹt nói riêng đều bị thất bại, mà nguyên nhân dẫn đến sự thất bại
đó là thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn, thiếu sự phối hợp tác chiến chưa
có quy mô rộng và lớn, nguyên nhân chính là chưa có một Đảng chân chính
lãnh đạo cách mạng. Tuy nhiên, với sự hợp tác chiến đấu lúc đầu của nhân
dân hai tỉnh đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu đối với thời kỳ phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ với hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt
nói riêng và cả nhân dân hai nước Việt Nam- Lào nói chung. Ngoài ra, còn đặt
cơ sở vững chắc cho sự tác chiến của nhân dân hai tỉnh trong giai đoạn tiếp
theo.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương (1930) là một sự kiện to lớn
đối với cách mạng hai nước Việt- Lào và tạo nên một bước chuyển biến trong


21


phong trào đấu tranh chống Pháp nói chung và hai tỉnh Quảng TrịSavanakhẹt nói riêng. Chỉ sau 15 năm (1930-1945), dưới sự lãnh đạo của
Đảng mà cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân hai nước giành thắng lợi
vẻ vang. Cũng chính sự kiện này, đã đặt ra cho hai nước Việt Nam và Lào mối
quan hệ hợp tác.
Vào ngày 12/10/1945 Vương quốc Lào tuyên bố được thành lập và lập
ra Chính phủ lâm thời, ngày 16/10 tại Viêng Chăn ( Lào), hai nước Việt Nam
và Lào ký hiệp định tương trợ lẫn nhau. Từ đây, liên minh hai nước, hai dân
tộc được chính thức xác lập về mặt nhà nước, cũng là cơ sở pháp lý cho sự
hình thành trên thực tế mối liên hệ phối hợp chiến đấu giữa các địa phương
của hai nước cũng là cơ sở chung cho mối quan hệ giữa hai tỉnh Quảng TrịSavanakhẹt.
Hòa bình đến với hai dân tộc Việt Nam- Lào chưa được lâu thì với bản
chất hiếu chiến của kẻ thù, lại nhờ vào sự giúp đỡ của thực dân Anh, cùng với
một số nước đồng minh, thực dân Pháp đã tiến hành đưa quân trở lại xâm
chiếm Việt Nam- Lào. Đứng trước tình thế đó, Đảng Cộng sản Đông Dương
và chính quyền cách mạng còn non yếu của hai nước, đặt hai nước trong sự
lựa chọn: một là đấu tranh vũ trang trong điều kiện không cân sức, hai là tranh
thủ thời gian để củng cố lực lượng, qua đó tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành
cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp. Tỉnh Quảng Trị được trung ương
giao nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào, coi nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào
là nhiệm vụ quốc tế của Đảng. Chính vì vậy, mà trong thời kỳ cách mạng,
phối hợp với nhân dân cả nước, nhân dân Quảng Trị luôn có mặt tại Lào, đặc
biệt là Trung Lào, nhân dân Quảng Trị đã cùng với nhân dân Trung Lào gây
dựng và phát triển phong trào cách mạng, tổ chức các chi bộ Cộng sản, tổ
chức đấu tranh dưới mọi hình thức.
Đường 9 là mạch máu giao thông quan trọng xuyên suốt mà địch muốn


22

tập kích. Chính nơi đây, nhân dân hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt đã giành

nhiều chiến công, đã sát cánh bên nhau hợp thành “liên minh chiến đấu ViệtLào”. Trận tiến công địch ở Sêpôn tháng 11/1945 đã diệt và bắt sống 53 tên,
thu toàn bộ vũ khí, sau đó tiếp tục tiến công địch ở Mường Phìn, Phà Lan,
Huội Cay, Cầu Thà Khống gây cho chúng nhiều tác hại.
Chiến thắng Sêpôn và một số nơi khác ở đường số 9 đã tiêu diệt được
một bộ phận sinh lực địch, bước đầu đánh bại âm mưu “chiếm giữ chặt hành
lang Thái Phiên- Thuận Hóa- Đông Hà, Lao Bảo- Savanakhẹt, bám chặt
đường 9, chia cắt Việt Nam làm đôi” [236;31]. Sự phối hợp, giúp bạn chiến
đấu đã góp phần bảo vệ chính quyền ở các tỉnh miền Tây vùng biên giới, tạo
điều kiện cho phong trào cách mạng hai tỉnh phát triển.
Sang năm 1946, sau khi bình định xong Lào, thực dân Pháp tiến hành
âm mưu đưa quân chiếm đóng một số tỉnh biên giới của Lào tiếp giáp với Việt
Nam như: Xiêng Khoảng, Khăm Muộn, Savanakhẹt, Salavan…nhằm nhanh
chóng đưa quân sang đánh chiếm Việt Nam. Lúc này thực dân Pháp một mặt
chuyển một bộ phận quân đội về đóng ở Huế, mặt khác, chúng âm mưu ráo
riết chuẩn bị xâm lược nước ta như đưa quân từ Lào áp sát biên giới Thừa
Thiên Huế, Quảng Trị, các trục đường số 9, số 8, số 7 và đưa quân từ Trung
Lào xuống uy hiếp Quảng Trị.
Đầu 1947 thực dân Pháp đánh ra các vùng Bình- Trị- Thiên, xúc tiến kế
hoạch bình định và mở rộng phạm vi chiếm đóng. Bộ tư lệnh Bắc Trung Bộ
đóng ở Huế, do tướng Lơbarit cầm đầu. Chúng chia Bình- Trị- Thiên thành ba
phân khu, mỗi phân khu có các tiểu khu, có hệ thống pháo binh để khống chế
chiến khu, vùng du kích, vùng tự do của ta. Đặc biệt ở vùng Trung Lào địch
có 38 vị trí chiếm đóng với 6 sân bay (Thà Khẹt, Salavan, cây số 35, Lạc Xao,
Nape và Sêpôn) mục đích chiếm đóng của địch là ngăn chặn và cắt liên lạc tại
các vùng trọng yếu giữa ta và Lào.


23

Tháng 12/1949, phân khu Bình- Trị- Thiên điều một tiểu đoàn 364 cùng

liên khu tổ chức đoàn 120 sang hoạt động ở Trung Lào. Lúc này Trung ương
Lào và lực lượng Itxala có những thay đổi: giải tán ủy ban Tây Lào và Đông
Lào, thành lập Ủy ban Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào. Lúc này, dưới sự
chỉ huy của Bộ tư lệnh quân khu IV, quân và dân Quảng Trị đã ra sức củng cố
lực lượng và giúp đỡ nhân dân vùng Trung Lào.
Sau chiến thắng biên giới 1950, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn trên
chiến trường Đông Dương, Quảng Trị cùng với nhân dân cả nước, ra sức
đóng góp sức người, sức của, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sang hoạt
động trên đất bạn Lào, thành lập các cơ quan tiếp nhận, cụm vận tải tiếp tế,
các điểm tập trung quân nhu, quân lực và huy động được 110 tấn lương thực,
thực phẩm cho chiến trường Lào. Quảng Trị cùng với các tỉnh liên khu IV như
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã trở thành căn cứ địa, hậu phương vững
chắc cho cách mạng Lào. Biểu hiện cao nhất của mối quan hệ hợp tác chiến
đấu giữa quân và dân Quảng Trị đối với Savanakhẹt là chiến dịch giải phóng
Thà Khẹt (25/12/1953). Trong chiến dịch này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp
tác chiến với bộ đội Lào tiêu diệt và làm thiệt hại 2 tiểu đoàn Âu Phi, xóa bỏ
căn cứ điểm do Pháp vừa xây dựng lên ở Khăm He và Kha Ma (Savanakhẹt).
Cũng trong chiến dịch này, Quảng Trị đã huy động nguồn nhân công cho Lào,
phục vụ chiến đấu. Thắng lợi rực rỡ này đã làm cho cục diện chiến trường ở
Trung Lào thay đổi nhanh chóng và còn làm rung chuyển toàn bộ hệ thống
của địch.
Tháng 1/1954, liên quân Lào- Việt mở chiến dịch Trung Lào, nhân dân
Quảng Trị được vinh dự giao nhiệm vụ cung cấp sức người, sức của cho chiến
dịch. Để thực hiện kế hoạch và bảo đảm vùng biên giới Việt- Lào, Bộ tư lệnh
quân khu IV quyết định giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 364 của tỉnh đội Quảng
Trị đang đóng ở Hướng Hóa có nhiệm vụ bám sát địch ở vùng biên giới Việt-


24


Lào.
Nhìn chung, sự phối hợp chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau giữa quân và
dân hai tỉnh Quảng Trị- Savanakhẹt trong chiến tranh chống thực dân Pháp,
đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của nhân dân hai nước, đồng thời
đập tan âm mưu sử dụng vùng chiến lược Quảng Trị- Savanakhẹt để chia cắt
ba nước Đông Dương. Bên cạnh đó, chiến thắng trong chiến tranh chống thực
dân Pháp còn thắt chặt khối liên minh chiến đấu Việt- Lào trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
1.2.2 Quan hệ hợp tác Quảng Trị- Savanakhẹt giai đoạn 1954- 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định
Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương, sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) thuộc
tỉnh Quảng Trị trở thành ranh giới chia cắt hai miền Nam- Bắc. Quảng Trị vừa
tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa là tỉnh đầu cầu của miền Nam.
Vị trí chiến lược quan trọng của Quảng Trị càng đặt ra yêu cầu phải nâng cao
hơn nữa mối quan hệ quốc tế Việt-Lào để đảm bảo sự chi viện của miền Bắc
vào miền Nam, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, thống nhất nước
nhà.
Để tiếp tục lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh chống giặc Mỹ xâm
lược, theo chỉ thị của cấp trên, phải nối liên lạc với Vĩnh Linh, nối đường dây
liên lạc Vĩnh Linh với đường 9. Trạm liên lạc đầu tiên trên tuyến đường dây
bí mật Bắc-Nam, điểm xuất phát đầu tiên từ Bãi Hà Vĩnh Linh được mở. Từ
Bãi Hà mở thông vào đường 9 phải vào Cơn Tam, Cam Sơn, Xã Ruộng, Kê,
La Tông, Cheng vào trạm Thống Nhất của tỉnh (gọi là đường Thống Nhất).
Hoạt động của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị- Savanakhẹt ở trên hai
tuyến đường bị kẻ địch đánh hơi được. Chúng tăng cường hệ thống đồn bốt,
bổ sung lực lượng tuần phòng dọc đường số 9, ráo riết gom dân vào các trại
tập trung, tung biệt kích rình mò, lùng sục ngày đêm. Hoạt động đánh phá của


25


kẻ địch, cùng với khí hậu nghiệt ngã của núi rừng Trường Sơn làm cho hoạt
động của bạn và ta trên tuyến đường Thống Nhất, Lam Sơn gặp không ít khó
khăn. Để bảo đảm thông suốt tuyến đường, anh em các dân tộc đông-tây
Trường Sơn tìm cách xoi đường giữa lùm cây rậm rạp, trong lau lách đầy sên
vắt, trên đá tai mèo sắc nhọn, có những đoạn đường bắt buộc mọi người phải
"đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng". Trên những đoạn đường
mới sơ khai, ta đã xây dựng được một số cơ sở ở đất bạn Lào và chính những
cơ sở này đã giúp Đoàn 559 rất nhiều trong buổi ban đầu còn nhiều khó khăn,
bở ngỡ.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chủ trương
mở rộng tuyến vận tải Trường Sơn theo phương châm: “kiên trì giữ vững
hành lang phía đông, khẩn trương mở đường vận tải phía tây Trường Sơn”.
Đầu 6/1959, đoàn trưởng Đoàn 559 Võ Bẩm vào Vĩnh Linh chủ trì cuộc họp
bàn cụ thể việc mở đường vào Nam. Dự họp có các đồng Trương Chí Công Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Lê Hành - Tỉnh ủy viên Quảng Trị, Hồ Sĩ Thản - Bí
thư đặc khu Vĩnh Linh, Pả Cương-Thường vụ Huyện ủy Hướng Hoá và một
số cán bộ thông thạo địa hình như: Hồ Ôi ở Ra Gã, Hồ Nuồn ở Chăng Hin khe Nước Chảy, Hồ Tèo khu vực đường 9.
Khe Hó-Vĩnh Linh được chọn làm điểm khởi đầu cho tuyến đường lịch
sử. Đoàn 301, dựa vào đường Thống Nhất để làm công việc vận tải. Trong
điều kiện Mỹ ngụy đánh phá quyết liệt, chuyển hàng qua đường 9 là việc làm
vô cùng khó khăn, nguy hiểm. Qua nghiên cứu địa hình, được sự cho phép
của hai chính phủ Việt và Lào, tuyến vận tải bằng ô tô theo đường 12A từ Khe
Ve qua Mụ Dạ sang đất Lào, đến ngã ba Lằng Khằng (Ba Na Phào) rồi mở
các tuyến 129, 128 xuôi về phía nam gặp đường số 9 - nam Lào; xuôi tiếp và
rẽ ngang sang các vùng căn cứ kháng chiến của Quảng Trị, Thừa Thiên và
Liên khu V được mở. Thực hiện nhiệm vụ, Tỉnh uỷ Quảng Trị mà trực tiếp là


×