Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 5 tuổi tại trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.69 KB, 21 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI
TẠI TRƯỜNG MẦM NON

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
Như Bác Hồ đã nói:
Hiền dữ phải đâu là tính sẳn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
Ý nghĩa của hai câu thơ trên đã giúp chúng ta nhận th ức được rằng
mỗi đứa trẻ sinh ra và lớn lên đều phụ thuộc vào sự giáo dục của gia đình,
nhà trường và xã hội. Chính vì vậy từ năm 2008 Bộ Giáo d ục và Đào t ạo đã
phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường h ọc thân thi ện h ọc sinh
tích cực” nhằm giúp giáo viên định hướng trong việc lập kế hoạch giáo
dục lồng ghép để thực hiện rèn luyện cho trẻ một số kỹ năng ứng x ử h ợp
lý với các tình huống, hành vi văn minh trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giáo dục cách sống tích c ực trong xã
hội hiện đại, nhằm xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đ ổi nh ững
hành vi thói quen tiêu cực giúp trẻ nhận thức được những hành vi tốt, thái
độ đúng đắn và thực hành các kỹ năng thích h ợp. Giáo dục kỹ năng s ống
cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho trẻ nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, s ớm
có ý thức, khả năng thích nghi với cuộc sống và làm ch ủ bản thân, h ướng
đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cộng đồng.


Việc xây dựng giáo dục lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho tr ẻ vào
chương trình chăm sóc giáo dục mầm non vô cùng cần thi ết và đó cũng là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành học mầm non. Kỹ năng
sống cho trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng: kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng
vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng h ợp tác chia s ẻ…
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ nh ững kinh nghiệm s ống c ủa
người lớn nhằm hình thành cho trẻ có kỹ năng x ử lý v ới nh ững khó khăn


trong cuộc sống, trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình đ ể
giải quyết vấn đề trong cuộc sống một cách tự lập.
Muốn đạt được điều đó người lớn phải tạo cho trẻ một môi tr ường
thực tế, cụ thể
để trẻ có cơ hội trải nghiệm thực hành. Nhưng trên thực tế xã hội hiện
nay các gia đình chỉ chú trọng việc dạy trẻ học kiến th ức mà quên đi vi ệc
hình thành và phát triển các kỹ năng sống cho trẻ, luôn bao bọc, nuông
chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ có tính ỷ lại, ích kỹ, không quan tâm đ ến ng ười
khác và các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống h ằng ngày r ất h ạn ch ế, t ừ
đó dẫn đến khó khăn cho trẻ trong việc xử lý tình huống bất ngờ x ảy ra. Ở
trường, giáo viên chủ yếu đi sâu truyền thụ những kiến th ức cho tr ẻ qua
các giờ học, ít chú trọng đến việc rèn các kỹ năng sống cho tr ẻ, nên h ầu
hết trẻ chưa có vốn kiến thức về kỹ năng sống.
Là giáo viên mầm non nhiều năm trong nghề, nh ận th ức đ ược tầm quan
trọng của kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôi đã luôn trăn tr ở
và suy nghĩ làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi có hiệu
quả. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù h ợp v ới l ứa tu ổi sẽ giúp
giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm đ ể d ạy tr ẻ. Tôi nh ận
thấy rằng đối với trẻ 4- 5 tuổi “ Giáo dục kỹ năng sống” không phải là nói
cho trẻ biết thế nào là đúng, thế nào là sai như ta thường làm. Các ph ương


pháp cổ điển như bài giảng đi theo những chuẩn mực, cô hỏi trẻ ch ủ đ ộng
trả lời sẽ hoàn toàn thất bại vì chúng chỉ cung c ấp thông tin, mà t ừ thông
tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rất l ớn. Giáo
dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa ch ọn gi ữa nh ững
giải pháp khác nhau.
Với những lý do trên, năm học này tôi đã m ạnh dạn trao đ ổi v ới ch ị em
đồng nghiệp đề tài: “ Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ 4-5 tuổi tại trường mầm non” .

2. Điểm mới của đề tài: So với trước đây, điểm mới của đề tài mà tôi đề
cập đến đó là:
- Giáo viên thực sự dạy trẻ hiểu rõ hơn về kỹ năng sống, điều quan tr ọng
là trẻ có ý thức tự giác, tư duy, mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo, linh
hoạt, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ… hình thành nếp sống văn minh, có hành vi
ứng xử, giao tiếp theo quy tắc, chuẩn mực phù h ợp.
- Tạo ra một môi trường giao tiếp thật sự cởi mở, thân thiện gi ữa cô v ới
trẻ, giữa trẻ với
trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia
sẻ, giải bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè nh ờ
vậy mà giáo viên hiểu trẻ nhiều hơn, trẻ hiểu nhau h ơn, từ đó vi ệc hình
thành và giáo dục kĩ năng sống cho trẻ có hiệu quả.
* Đối tượng và phạm vi áp dụng đề tài: Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Thực trạng của nội dung nghiên cứu:


Năm học 2018 – 2019 bản thân tôi trực tiếp giảng dạy lớp mẫu giáo 4
- 5 tuổi với tổng số trẻ là 39 cháu. Trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, tôi nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau:
1.1. Thuận lợi:
Được tham gia tập huấn chương trình giáo dục kĩ năng sống POKI do
phòng tổ chức
Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của nhà trường trong việc tri ển
khai kế hoạch nội, dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tổ chuyên môn hoạt động có nề nếp nên bản thân có cơ hội học h ỏi,
trao đổi kinh nghiệm với chị em đồng nghiệp.
Giáo viên trong lớp có sự phối hợp đồng thuận, nh ất trí cao trong
việc tổ chức các hoạt động học tập và vui chơi của trẻ.

Các cháu đã có nề nếp học tập và vui chơi liên tục t ừ các l ớp d ưới lên
nên đã có được một số kiến thức và kỹ năng nhất định.
Luôn được sự quan tâm chia sẻ và ủng hộ của phụ huynh.
1.2. Khó khăn:
Tuy các cháu cùng độ tuổi và được theo học liên tục t ừ các l ớp d ưới
lên nhưng vẫn còn đa số trẻ chưa mạnh dạn, thiếu tự tin, ch ưa có tính ch ủ
động.
Các kỹ năng về nhận thức, sự tự tin, tính tự lập, s ự h ợp tác, t ự ph ục
vụ, quan hệ xã hội, giao tiếp ứng xử, ý thức bảo vệ môi trường… của trẻ
không đồng đều.
Đa số trẻ nam hiếu động chưa có ý th ức trong các hành vi hành đ ộng
của mình.


Việc xây dựng lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng s ống cho tr ẻ vào
các hoạt động trong ngày chưa xuyên suốt, còn ôm đồm.
Mặt khác do nhận thức của các bậc phụ huynh luôn coi trẻ là “trẻ
con” và hơn thế nữa là họ cưng chiều con quá mức, luôn làm thay trẻ dẫn
đến khiến cho trẻ khó hình thành các kỹ năng như lao động t ự ph ục vụ, kỹ
năng tự bảo vệ mình, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng giao tiếp ứng x ử, kỹ
năng bảo vệ môi trường… thậm chí vì sự nuông chìều mà đôi lúc ph ụ
huynh vô tình chấp nhận theo cái sai của con trẻ.
Do tác động của xã hội làm cho trẻ bị ảnh h ưởng một s ố thói quen
xấu nên việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ có phần khó khăn.
Qua khảo sát đầu năm kết quả cụ thể như sau;
1.3. Khảo sát thực tế trẻ:
BẢNG KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU NĂM
Số trẻ đạt
STT


Các mặt phát triển

Số trẻ chưa đạt

Tỉ
Số trẻ

lệ

%

Tỉ lệ %

20

51,3

21

54

20

51,3

1

Kỹ năng tự phục vụ

19


2

Kỹ năng tự bảo vệ

18

3

Kỹ năng vệ sinh

19

4

Kỹ năng giao tiếp- ứng xử

17

44

22

56

5

Kỹ năng bảo vệ môi trường

16


41

23

59

1.4. Nguyên nhân:

48,7

Số trẻ

46
48,7


- Do đặc thù của ngành học phần lớn thời gian dành cho công tác tr ực ti ếp
CSGD trẻ
nên ít có thời gian nghiên cứu tài liệu nên việc lựa chọn các kỹ năng đưa
vào từng chủ đề dạy trẻ còn chưa khoa học
- Tài liệu về chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ch ưa đ ược phong
phú.
- Một số trẻ được bố mẹ nuông chiều, thường làm hộ trẻ mọi việc.
- Một số trẻ hiếu động, còn chưa chú ý và chưa nghe theo lời h ướng d ẫn
của cô giáo.
- Một số phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng của việc giáo d ục kĩ
năng sống
cho trẻ.
- Lớp học còn chật, học sinh đông nên còn khó khăn trong vi ệc t ổ ch ức d ạy

kĩ năng sống cho trẻ.
2. Các giải pháp chính của sáng kiến:
* Giải pháp 1: Tạo tình huống và xây dựng môi trường giáo dục trong
và ngoài lớp học:
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non là t ư duy tr ực quan
hình tượng, vì vậy những kiến thức, nôi dung giáo dục cho trẻ phải cụ th ể,
gần gũi, dễ hiểu và trẻ được trãi nghiệm tiếp xúc qua th ực tế và th ường
xuyên như phương châm “mưa dầm thấm lâu” chính vì v ậy tôi đã ch ọn
những hình thức để giáo dực trẻ như sau:
- Hình thức tạo tình huống:


+ Kỹ năng chào hỏi, giao tiếp:
Đây là một kỹ năng quan trọng và cần thiết nhất của con người như
câu tục ngữ đã nói “lời chào cao hơn mâm cỗ”. Trước đây tôi cũng th ường
xuyên dạy trẻ là phải biết chào khách khi có khách đến thăm l ớp và ph ải
trả lời câu hỏi khi được hỏi không gật hay lắc đầu. Với ph ương pháp này
thì trẻ lớp tôi cũng đã một phần nào biết chào khách nh ưng tr ẻ ch ỉ hoàn
toàn thụ động vào sự hướng dẫn và nhắc nhỡ của cô giáo không có tính
chủ động vì vậy tôi đã thực hiện như sau:
Tôi phối hợp với giáo viên trong trường thường xuyên đến thăm lớp tôi
và đặc câu hỏi về sự quan tâm của mình đối với trẻ để tạo cơ h ội cho trẻ
có cơ hội thực hành trãi nghiệm cách chào hỏi và giao tiếp, m ỗi l ần d ạo
chơi tôi dẫn trẻ đến từng lớp để thăm lớp các anh ch ị, lớp các em t ừ đó t ạo
cơ hội cho trẻ được tiếp xúc với nhiều đối tượng qua đó giúp trẻ m ạnh
dạn trong giao tiếp và phát huy tính tích cực của trẻ nhằm hình thành cho
trẻ có tính chủ động trong việc chào hỏi.
+ Kỹ năng bảo vệ môi trường:
Trước giờ hoạt động ngoài trời tôi cố tình tạo một môi trường “bẩn” có
nhiều loại rác như: lá cây, hộp sữa, bì ohsi…quanh địa đi ểm chu ẩn b ị cho

trẻ hoạt động để lồng giáo dục cho trẻ biết phải bỏ rác đúng n ơi quy định
và biết nhặt rác khi có rác làm cho môi trường bẩn và sau đó tiến hành cho
trẻ lao động làm vệ sinh sân trường từ đó tôi đã hình thành thói quen cho
trẻ biết tự chủ động trong việc bảo vệ môi tr ường sân ch ơi cũng nh ư
trong lớp học.
- Hình thức tạo môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học:
Với hình thức này tôi kết hợp trao đổi với giáo viên trong tr ường qua
các buổi sinh hoạt chuyên môn bàn bạc đưa ra tầm quan tr ọng c ủa vi ệc


giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non và khuyến khích vận đ ộng ch ị em
sưu tầm tranh ảnh có những hành động đúng - sai trang trí trong và ngoài
lớp học để giáo dục trẻ. Tôi thường xuyên cho trẻ đi dạo ch ơi tham quan
môi trường của các lớp học và gợi ý cho trẻ xem tranh và nh ận xét v ề n ội
dung bức tranh, từ đó giáo dục trẻ thực hiện theo hành động đúng và tuy ệt
đối không bắt chước hành động sai. Với những hình ảnh và việc làm nh ư
vậy trẻ đã được khắc sâu và chủ động hơn trong hành động của mình.
Qua thực hiện giải pháp trên tôi thấy trẻ lớp tôi đã tiến bộ rất nhiều
trẻ biết chủ động chào khách, mạnh dạn trong giao tiếp, biết nhặt rác khi
môi trường bẩn, biết bỏ rác đúng nơi quy định và ý thức được việc làm
đúng, sai của mình.
* Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch tuần theo từng chủ đề và l ồng
ghép vào các hoạt động trong ngày
- Xây dựng kế hoạch:
Việc xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất l ượng
chương trình chăm sóc trẻ, từ mục tiêu kế hoạch tuần giáo viên có th ể đ ặc
ra mục đích yêu cầu cụ thể cho việc thực hiện kế hoạch từng ngày đ ạt kết
quả. Vì vậy tôi đã chú trọng đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào trong
kế hoạch tuần nhằm giáo dục trẻ một cách có hiệu quả. Mỗi tuần tôi ch ỉ
chú trọng đưa vào 1 hoặc 2 tiêu chí và chú ý h ơn để rèn luy ện cho tr ẻ còn

các tiêu chí khác chỉ nhắc nhở.
Ví dụ: Với chủ đề: Trường mầm non
Tuần 1: Tiêu chí biết chào hỏi, biết cách xưng hô
Tuần 2: Tiêu chí đi lại nhẹ nhàng, không chạy nh ảy, leo trèo.


Tuần 3: Tiêu chí biết chủ động chào khách, biết bỏ rác đúng n ơi
quy định
Tuần 4: Tiêu chí biết chủ động rửa tay, lau mặt
Tuần 5: Tiêu chí sắp xếp đồ chơi gọn gàng, đúng nơi quy định
Với việc lên kế hoạch tuần cụ thể không những giúp trẻ th ực hiện có
hiệu quả mà còn giúp cho giáo viên dễ dàng trong việc quản lý hành động
của trẻ.
- Lồng vào các hoạt động trong ngày:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một nội dung không có hoạt động
tách bạch riêng lẽ mà chủ yếu chỉ lồng ghép vào các hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ trong ngày. Chính vì vậy để năng cao chất lượng trong việc
hình thành kỹ năng sống cho trẻ giáo viên phải th ường xuyên t ổ ch ức các
hoạt động trong ngày sao cho phù hợp và xuyên suốt. Đối v ới trẻ mỗi hoạt
động trong ngày đều nhằm đạt một mục đích giáo dục nh ất đ ịnh và ho ạt
động nào cũng có ưu thế, tính chất riêng của nó nh ưng nó l ại hòa quy ện và
gắn kết với nhau. Thông qua các hoạt động trong ngày cô giáo luôn g ương
mẫu và là người hướng dẫn, gợi ý giúp trẻ phát huy tính tích c ực ho ặc làm
mẫu cho trẻ làm theo. Từ đó giúp trẻ biết vận dụng nh ững kiến th ức, kỹ
năng kỹ xảo vốn có vào thực hành luyện tập một cách linh ho ạt và thành
thạo. Tôi đã lồng ghép vào các hoạt động như sau:
+ Thể dục buổi sáng: Sau khi thực hiện bài tập thể dục, điểm danh xong
nếu là ngày thứ hai đầu tuần tôi đưa ra các tiêu chuẩn để th ực hiện trong
tuần, với những ngày khác còn lại tôi gợi ý để trẻ nhắc lại nhằm kh ắc sâu
tiêu chí cần thực hiện trong tuần.



+ Hoạt động có chủ định: Thông qua hoạt động có chủ định giúp trẻ phát
triển đồng đều các lĩnh vực “thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình c ảm xã
hội, và thẩm mỹ”. Qua việc giáo viên đặt câu h ỏi gợi m ở ho ặc t ổ ch ức cho
trẻ chơi trò chơi sẽ tạo cho trẻ sự hứng thú, giúp trẻ phát tri ển tư duy và
pháy huy tính tích cực trong học tập, chủ động phám phá, tìm tòi biết v ận
dụng vốn kiến, thức kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về một số đồ đồ chơi ở lớp, cô có th ể đặc câu
hỏi:
Những đồ dùng đồ chơi... do ai làm ra?
Cô chú công nhân đã vất vả để tạo ra những đồ dùng đ ồ ch ơi cho các
con vì vậy khi sử dụng đồ dùng đồ chơi các con phải nh ư th ế nào?...
Từ đó giáo dục trẻ biết yêu thương kính trọng người đã làm ra đồ dùng
đồ chơi, biết giữ gìn, bảo quản đồ dùng đồ chơi.
Hoặc thông qua hoạt động âm nhạc tôi tổ chức cho trẻ ch ơi “đoán nhanh
hát đúng” tôi tổ chức trò chơi như sau:
Chia trẻ thành hai đội đứng thành hai vòng tròn, cô đúng gi ữa, cô ch ỉ
tay về một đội bất kỳ rồi nói ký hiệu của công việc, ti ếng kêu hay n ơi ho ạt
động của một con vật nào đó thì đội đó sẽ hát m ột bài hát đúng v ới ch ức
năng cô vừa nêu
Ví dụ: Cô nói: “Meo meo” trẻ hát bài “Thương con mèo hoặc vì sao mèo r ửa
mặt”
“Lội bờ ao” trẻ hát bài “Một con vịt hoặc đàn vịt con”
“Đánh thức mọi người” Trẻ hát bài “Con gà trống”
“Bay thấp thì mưa” Trẻ hát bài “Con chuồn chuồn”…


Thông qua việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi và cách đ ặt câu h ỏi
gợi mở đã giúp trẻ mạnh dạn tự tin, biết diễn đạt câu từ trọn v ẹn hình

thành cho trẻ những kỹ năng tư duy, phán đoán, phát huy tính tích c ực
trong mọi hoạt động đồng thời giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
+ Hoạt động vui chơi (hoạt động góc):
Trẻ được vui chơi trong giờ hoạt động góc sẽ tạo cho trẻ nhi ều h ứng
thú và đây cũng chính là cơ hội cho trẻ tự thể hiện mình qua các công việc
của người lớn. Qua đó tôi nhắc nhỡ trẻ về kỹ năng giao tiếp, thái độ trong
khi chơi, biết hợp tác chia sẻ cùng nhau để hoàn thành nhi ệm vụ.
+ Hoạt động ngoài trời:
Cho trẻ vui chơi ngoài trời sẽ tạo cơ hội cho trẻ đ ược quan sát, ng ắm
nhìn, trẻ được khám phá trải nghiệm những sự việc, cảnh vật và hiện
tượng xung quanh từ đó trẻ có cảm nhận về vẽ đẹp của thiên nhiên, môi
trường sống của loài vật xung quanh trẻ sẽ giúp trẻ nhận th ức sâu h ơn về
kỹ năng giữ gìn và bảo vệ môi trường ở trường, lớp, gia đình và n ơi công
cộng.
Ví dụ: Cho trẻ lao động nhặt rác vệ sinh sân tr ường, Chăm sóc cây ở góc
thiên nhiên…
+ Hoạt động vệ sinh, ăn, ngủ:
Hoạt động vệ sinh ăn ngủ được thực hiện đều đặn, th ường xuyên sẽ
giúp trẻ có nề nếp thói quen trong sinh hoạt từ đó giúp trẻ có ý th ức bi ết
giữ gìn vệ sinh thân thể, lao động tự phục vụ và giữ gìn đồ dùng cá nhân.
Lúc đầu đến giờ ăn tôi cho trẻ ngồi vào bàn và ổn định bằng cách đặt câu
hỏi “bé ngoan bé biết làm gì”? Trẻ trả lời bằng bài th ơ:
Bé ngoan bé biết vâng lời


Rửa tay thật sạch mới ngồi vào ăn
Đánh răng sau mỗi bửa cơm
Rửa tay lau mặt bé thơm cả ngày.
Thế là tôi nhắc nhở trẻ đi rửa tay lau mặt, sau khi ăn xong tôi g ợi ý cho
trẻ đi đánh răng, tôi nhắc nhở trẻ mở nhỏ nước vừa dùng, không làm ước

áo, không vẫy nước làm ước nền nhà vì nền nhà ước rất dễ tr ược ngã.
Đến giờ ăn, giờ ngủ tôi luôn gợi cho trẻ nhớ lại tiêu chuẩn bé sạch, bé
ngoan trong tuần để trẻ thực hiện (giờ ăn không nói chuyện, không bốc
tay, không nhai nhồm nhoàm...)
Sau mỗi hoạt động trong ngày mỗi lần trẻ làm được một việc tốt đúng
như tiêu chí trọng tâm trong tuần là được tặng một hình ảnh khuôn m ặt
cười gắn lên bảng bé ngoan, trẻ vi phạm sẽ gắn khuôn mặt buồn.
+ Nêu gương cuối ngày:
Nêu gương cuối ngày là một việc làm quan trọng nhất đ ể tổng k ết l ại
các hoạt động trong ngày của trẻ. Tôi cho trẻ nêu lên ba tiêu chu ẩn đ ầu
tuần để cho trẻ tự nhận xét. Tôi nêu lên những trẻ nào trong ngày đ ược
tặng khuôn mặt vui để khen trước lớp và tặng cờ đỏ cho trẻ, nh ắc nh ở
những trẻ vi phạm có khuôn mặt buồn rồi tặng cờ xanh đ ể nh ắc nh ở
động viên trẻ hôm sau cố gắng làm những việc tốt như bạn để đ ược
cờ đỏ. Với việc làm như trên lớp tôi đã sớm đi vào nề nếp và trẻ đã có tính
chủ động
trong mọi hoạt động.
* Giải pháp 3: Thông qua nội dung bài thơ, câu chuyện


Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non là r ất thích nghe
kể chuyện, những nội dung bài thơ, câu chuyện th ường để l ại cho tr ẻ ấn
tượng khó phai mờ. Chính vì vậy tôi đã chú trọng vào t ừng n ội dung c ủa
bài thơ câu chuyện để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ:
Với câu chuyện “Gấu con bị đau răng” thông qua nội dung câu chuyện
gợi cho trẻ biết được lý do và sao gấu con bị đau răng. T ừ đó giáo d ục cho
trẻ phải đánh răng sạch sẽ sau khi ăn buổi sang ngủ dậy và m ỗi bu ổi t ối
trước khi đi ngủ.
Hoặc với bài thơ “Cô dạy” tôi đặc câu hởi gợi mở để giúp trẻ hiểu rằng vì

sao phải giữ gìn tay sạch sẽ và vì sao phải nói lời hay (gi ữ gìn tay s ạch là
để không bẩn áo, phải nói lời hay là để cho miệng xinh đẹp).
Với câu chuyện “Tích Chu” gợi cho trẻ biết được tính th ờ ơ, ham ch ơi
của Tích Chu không biết quan tâm đến bà dẫn đến h ậu quả là bà ph ải hóa
thành chim để bay đi uống nước. Và hỏi trẻ nếu là tr ẻ khi có bà ho ặc
người than bị ốm trẻ sẽ làm gì? Từ đó hình thành cho trẻ tình c ảm yêu
thương biết quan tâm chăm sóc đến người thân và mọi người xung quanh
trẻ.
Câu chuyện “Cáo, thỏ và gà trống” giáo dục trẻ tính thật thà, dũng
cảm không tranh giành đồ chơi của bạn.
Hoặc bài thơ “Ong và bướm” giáo dục tính siêng năng, chăm ch ỉ phải hoàn
thành nhiệm vụ được giao mới được đi chơi, giáo dục trẻ biết sắp xếp đ ồ
chơi gọn gàng sau khi chơi.
Chuyện “Cây táo thần” giáo dục trẻ không tham lam, ích kỹ, bi ết
nhường nhịn và chia sẻ với bạn, với mọi người.


Hay chuyện “Củ cải trắng” giáo dục trẻ nếu mình làm vi ệc t ốt thì sẽ
hưởng được sự quan tâm của người khác và mọi điều tốt lành sẽ đ ến v ới
mình.
Chuyện “Qua đường” giáo dục trẻ biết chấp hành luật giao thông khi
tham gia
giao thông.
Ngoài những bài thơ, câu chuyện có trong chương trình tôi đã s ưu t ầm
thêm một số câu chuyện có nội dung gần gũi, sát với thực tế để kể cho trẻ
nghe vào mỗi buổi chiều nhằm hình thành và nâng cao chất lượng kỹ năng
sống cho trẻ.
Ví dụ:
Chuyện “Trong phòng tắm” nội dung giáo dục trẻ không ngh ịch n ước,
chạy nhảy vì khi đang tắm nền ướt rất trơn, dễ bị ngã.

Chuyện “Cái vỏ chuối” nội dung giáo dục trẻ biết bỏ rác đúng n ơi quy
định nếu không sẽ bị dẫm lên võ chuối sẽ bị ngã và làm bẩn môi tr ường.
Chuyện “Vì sao bé nín khóc” nội dung giáo dục trẻ biết kiên nh ẫn ch ờ
đợi không lẫy, không giận hờn làm mẹ buồn.
Chuyện “Kiến con đi ô tô” nội dung giáo dục trẻ bi ết nh ường nh ịn và
lễ phép với người lớn.
Chuyện “Chiếc ổ khóa” nội dung giáo dục trẻ khi đ ến nhà ng ười khác
không phá phách, không tò mò, tự ý hoặc đòi lấy đ ồ đ ạc trong nhà đ ể
chơi…


Qua thực tiển áp dụng giải pháp trên tôi thấy rằng trẻ lớp tôi ti ến b ộ
rất rõ rệt không những giúp trẻ có ý thức trong mọi hoạt động mà còn
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và mạnh dạn trong giao tiếp.
* Giải pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh
Bên cạnh việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường tôi cũng chú
trọng đến việc trao đổi với phụ huynh để cùng phối h ợp giáo dục thêm
cho trẻ lúc ở nhà. Vào những buổi họp phụ huynh l ớp, lúc tr ả tr ẻ tôi trao
đổi với phụ huynh về nội dung tuyên truyền đ ể các bậc ph ụ huynh hi ểu
rằng để giúp trẻ phát triển toàn diện thì việc giáo dục và hình thành kỹ
năng sống cho trẻ là phải bắt đầu ngay từ “tuổi lên ba”, đó là giai đoạn bức
phá về khả năng nhận biết, giao tiếp được thể hiện m ột cách rõ rệt qua
các hành động của trẻ và được gọi là “khủng hoảng của trẻ lên ba”. Vì v ậy
với độ tuổi này phụ huynh không nên làm hộ trẻ, phải hình thành cho tr ẻ
tính tự lập ngay từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về kỹ năng sống,
nhận biết mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ v ững vàng
vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Chính vì vậy cách bảo v ệ
trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ thực hiện tốt kỹ năng sống của một con
người chính nghĩa.
Việc dạy trẻ kỹ năng sống phải là một quá trình liên tục và th ường

xuyên vì đặc điểm của trẻ là chóng nhớ mau quên do đó nh ững vi ệc làm
thường xuyên sẽ giúp trẻ hình thành thói quen và có kỹ năng tốt.
Trong cuộc sống hằng ngày nên dạy trẻ cách xử lý nh ững tình hu ống
bất trắc có thể xảy ra với trẻ bằng hình th ức trò chuy ện, tạo tình hu ống,
gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải quyết, không cấm đoán, áp đ ặt tr ẻ, hãy nói
những lời khuyến khích trẻ không nên nói những lời làm cho trẻ th ất vọng
Ví dụ: Không nên nói:


Con còn nhỏ thì biết gì, đó là chuyện của người lớn
Thấy chưa mẹ biết là con không làm được mà
Những đứa trẻ khác nhỏ hơn con mà làm được thì con phải làm đ ược
Tại sao con không giống như các anh chị của con…
Mà nên nói:
Mẹ biết con mà, mẹ chắc là con sẽ làm được
Con có tiến bộ lắm
Mẹ cảm ơn con đã giúp mẹ làm việc
Mẹ rất vui vì hôm nay con mẹ đã biết chủ động chào khách…
Hoặc thay vì nói “Con không được làm thế này th ế kia” thì hãy đ ưa ra
một vài tình huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ hiểu được tại sao
không được làm như thế.
Ví dụ: Muốn giáo dục trẻ không được leo trèo, ch ạy nh ảy thì nên liên
hệ một trẻ nào đó và kể cho trẻ nghe chuyện bạn đó bị đau chân hôm nay
không đi học được và cho trẻ tìm ra lý do rồi từ đó giáo d ục tr ẻ và th ường
xuyên nhắc nhở trẻ khi trẻ chạy nhảy, leo trèo…
Phụ huynh phải tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ, tôn trọng ý kiến
của trẻ,
không áp đặt ý kiến của mình, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đặt
câu hỏi để khiến trẻ phải suy nghĩ và đưa ra câu tr ả l ời, không v ội vàng
phê phán đúng – sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận đ ể đ ưa ra k ết

luận.


Chính từ những lời nói khuyến khích những suy nghĩ của trẻ để tìm
cách giải quyết các tình huống cụ thể đó giúp trẻ dần dần có kỹ năng suy
đoán, biết áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày. T ừ đó d ần hình thành
cho trẻ kinh nghiệm kỹ năng ứng xử, hành vi văn minh và bảo v ệ mình
trong cuộc sống sau này.
3. Hiệu quả của sáng kiến:
Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm để giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ 4-5 tuổi ở lớp tôi phụ trách, bản thân tôi đã thu được một số kết qu ả
như sau:
* Đối với giáo viên:
- Biết cách lựa chọn và xây dựng kế hoạch nội dung kỹ năng s ống cho
trẻ một cách khoa học, liên hoàn.
- Biết cách tạo tình huống và xử lí tình huống khi d ạy kĩ năng s ống cho
trẻ.
- Phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong
việc dạy trẻ các kỹ năng sống
* Đối với trẻ:
- Trẻ mạnh dạn, tự tin chủ động trong giao tiếp.
- Trẻ biết nói và trả lời câu hỏi rõ ràng, trọn câu.
- Biết yêu thương, giúp đỡ, đoàn kết và nhường nhịn bạn.
- Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, chủ động làm một số công việc
như: sắp xếp đồ chơi gọn gàng, biết nhặt rác và bỏ rác đúng n ơi quy đ ịnh.


- Trẻ có ý thức trong mọi hoạt động (không nói chuy ện riêng trong gi ờ
học, giờ ăn, giờ ngủ, biết cảm ơn và xin lỗi, trao đổi nhỏ trong khi ch ơi,
không leo trèo, ít chạy nhảy).

- Trẻ có kĩ năng sống thể hiện rõ trong bản điều tra trẻ trong thời
gian tôi áp dụng giáo dục vừa qua:
BẢNG KHẢO SÁT TRẺ
Số trẻ đạt
STT

Các mặt phát triển

Số trẻ chưa đạt

Tỉ

lệ

Tỉ

Số trẻ

%

Số trẻ

%

1

Kỹ năng tự phục vụ

24


61,5

15

38,5

2

Kỹ năng tự bảo vệ

22

56

17

44

3

Kỹ năng vệ sinh

21

54

18

46


4

Kỹ năng giao tiếp- ứng xử

20

51,3

19

48,7

5

Kỹ năng bảo vệ môi trường

20

51,3

19

48,7

Với kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ bước đầu đã thực hiện
thành công ở lớp tôi, với hướng phấn đấu giáo dục trẻ kĩ năng s ống đ ến
cuối năm, kết quả giáo dục kĩ năng sống cho trẻ sẽ đạt 95% - 100% về các
mặt phát triển.

III. KẾT LUẬN

1. Ý nghĩa của đề tài:

lệ


Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là việc làm vô cùng quan
trọng bởi thông qua giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ tự tin chủ động và biết
cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi g ợi khả năng t ư duy, sáng
tạo của trẻ góp phần thúc đẩy sự phát triển nhân cách và hình thành cho
trẻ các nề nếp thói quen, hành vi văn minh trong sinh hoạt hiện t ại. Trẻ
em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì kh ả năng thích nghi và thành công
trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, đây chính là bước đầu trong việc đặt nền
tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và khả năng tự ch ủ trong
tương lai.
Thực tế, kỹ năng sống của trẻ lứa tuổi mầm non chỉ đơn giản là giao
tiếp tốt, biết vui chơi với bạn, biết xin lỗi hoặc cảm ơn đúng lúc, đ ể thích
nghi với môi trường khác nhau….Một đứa trẻ chờ đến lượt chơi sẽ là
người biết kiên nhẫn, một đứa trẻ được tập thích nghi với đám đông sẽ
trở thành người biết tự chủ và tự tin sau này. Đó chính là nh ững l ợi ích về
lâu dài để các bậc phụ huynh ngày nay quan tâm nhiều h ơn đến vi ệc trang
bị kỹ năng sống cho con ngay từ tuổi mầm non. Cũng cần nói thêm r ằng
trẻ lứa tuổi mầm non chỉ có thể tích luỹ kỹ năng sống thông qua nh ững
trải nghiệm thực tế. Trong mỗi đứa trẻ đều có những tài năng tiềm ẩn. Sự
chuẩn bị kỹ càng từ lúc đầu đời chính là chìa khoá thành công cho t ương lai
mỗi cháu. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non chính là
cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, th ẩm mỹ
là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. Giáo viên hãy luôn
khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động, tự tin vào bản thân.
Đồng thời, khuyến khích trẻ khi tham gia vào trò ch ơi, cần bi ết cải ti ến,
sáng tạo các cách chơi và cố gắng đạt mục đích, đây chính là nh ững kỹ

năng cơ bản để sống và làm việc sau này. Thường xuyên ch ỉ ra cái m ới mà
người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái bằng nhiều cách, hãy trao đ ổi v ới


trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới tìm thấy cho trẻ th ấy r ằng
học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử thách.
Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích nh ững
hành vi, lời nói tốt của trẻ. Các bậc làm cha m ẹ, cô giáo, nh ững ng ười l ớn
cần nhẹ nhàng, khéo léo khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, không nên hạ
thấp khả năng của trẻ, không dọa nạt hay bắt trẻ phải làm nh ững việc
quá sức của trẻ. Người lớn không nên nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá,
không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so v ới kh ả năng tiếp nh ận
từng lứa tuổi của trẻ. Người lớn cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu h ỏi g ợi
mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp nh ằm khuy ến khích trẻ
tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ, chia sẻ nh ững cảm xúc v ới
người khác bằng lời nói và hành động cụ thể. Đây là một trong những kỹ
năng hết sức quan trọng để khi lớn lên trẻ có đủ tự tin, bản lĩnh trong
cuộc sống. Nhằm giúp trẻ hình thành tính tự lập và khả năng biết tự chăm
lo cho mình, không bị phụ thuộc vào bố mẹ, ngay từ nh ỏ chúng ta c ần đ ể
trẻ làm tất cả mọi thứ mà chúng có thể, đừng vì quá thương con mà nuông
chiều chúng quá mức. Vì thế cần có phương pháp dạy con phù hợp với độ
tuổi và
nhận thức của trẻ để trẻ có thể tiếp thu và học cách sống t ự lập tốt
hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất:
* Đối với Phòng giáo dục & Đào tạo Lệ Thủy:
Tăng cường liên hệ với các chương trình giáo dục kĩ năng s ống đ ể t ổ
chức tập huấn cho giáo viên toàn huyện về giáo dục kĩ năng s ống cho trẻ.



* Đối với nhà trường: Trang bị thêm tài liệu về kỹ năng sống để giáo
viên nghiên cứu học tập thêm kinh nghiệm.
Trên đây là một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi,
bước đầu đã thực hiện thành công ở lớp tôi phụ trách. Với thời gian nghiên
cứu hạn hẹp, nên cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi r ất mong
nhận được sự góp ý bổ sung của các cấp lãnh đạo, sự chia sẻ đóng góp
chân tình của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được tốt h ơn và
được áp dụng rộng rãi cho trẻ 4 – 5 tuổi ở các trường mầm non trong năm
học này và những năm học tiếp theo đạt hiệu quả cao.



×