MỤC LỤC
TÊN ĐỀ MỤC
Trang
1: MỞ ĐẦU.
1-2
1.1: Lí do chọn đề tài
1-2
1.2: Mục đích nghiên cứu
2
1.3: Đối tượng nghiên cứu
2
1.4: Phương pháp nghiên cứu
2
2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2-17
2.1: Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2-3
2.2: Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3-5
a: Thuận lợi
3
b: Khó khăn
c: Kết quả khảo sát ban đầu
4
5
2.3: Những biện pháp thực hiện
5-17
Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển
các kĩ năng sống
Biện pháp 2: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi
5-10
11-14
Biện pháp 3: Đánh giá kĩ năng sống của trẻ thường xuyên
13-14
Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ
2.4: Hiệu quả
14-17
3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1: Kết luận
17-18
17
2: Kiến nghị
17
18
1
1: Mở đàu
1.1: Lí do chọn đề tài:
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” có thể nói câu hát này cứ vang vọng
mãi trong tâm hồn của tôi - một cô giáo mầm non như luôn nhắc nhở cho tôi về
lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của mình chính là người góp một phần
nhỏ bé của mình vào việc ươm những mầm xanh tương lai của đất nước, góp
phần đào tạo một thế hệ là chủ nhân tương lai của đất nước phát triển toàn diện
về mọi mặt.
Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo là “Điểm khởi đầu”
của quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ là vô cùng quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước
những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước “ Học cách làm người”. Nếu các
kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền
vững. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho
tương lai của mỗi đứa trẻ.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên, phụ huynh chưa nhận thức rõ
ràng về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Trên thực tế có rất nhiều trẻ thiếu kỹ
năng sống: Trẻ sống thụ động, không biết ứng phó phù hợp trong những hoàn
cảnh nguy cấp, không biết cách tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân trước nguy
hiểm, luôn tìm kiếm sự giúp đỡ của người lớn khi gặp khó khăn...
Trong thực tế hiện nay của chúng ta mỗi gia đình chỉ có một đến hai con,
xuất phát tự lòng thương con của các bậc cha mẹ nên nhiều gia đình quan tâm
chăm sóc trẻ quá mức, gia đình luôn làm “hộ” trẻ từ những công việc nhỏ nhẹ
nhất như là tự đi dép quai hay mặc quần áo hay tự xúc cơm ăn... Chính từ việc
cưng chiều quá mức không để trẻ thực hiện những công việc đơn giản nên hiện
nay có rất nhiều trẻ đã học lớp 5 tuổi thậm chí là học sinh tiểu học vẫn còn chờ
bố mẹ đút cơm cho ăn... Từ lòng thương yêu con vô tình cha mẹ đã làm cho con
thiếu đi những kỹ năng cần thiết và thực tế đối với trẻ, từ đây sẽ ảnh hưởng đến
tính cách của trẻ sau này là sống thụ động, ỷ lại vào người khác.
Bên cạnh sự quan tâm quá mức của một số bậc cha mẹ ấy vẫn tồn tại
những gia đình vì quá mải mê với công việc mà sao nhãng tới việc quan tâm
1
chăm sóc con cái dẫn đến hậu quả trẻ thiếu tình thương và cách giáo dục đúng
đắn dẫn đến tình trạng trẻ có lối sống không lành mạnh như trẻ chơi bời, bạo lực
học đường, sống vô cảm không biết quan tâm tới người khác...
Một vấn đề đáng quan tâm hiện nay là tình trạng bắt cóc trẻ em, các tai nạn
thương tích ngày càng gia tăng tập trung ở lứa tuổi thiếu nhi, tôi thiết nghĩ tỉ lệ
trẻ bị bắt cóc, tai nạn thương tích ngày càng tăng một phần là do trẻ chưa có kỹ
năng ứng phó với những hoàn cảnh nguy cấp, chưa biết cách tự bảo vệ bản thân
trước những sự nguy hiểm có thể xảy ra.
Từ thực tế trên, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta làm tốt việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ chính là đặt nền móng giúp trẻ trở thành con người mới, chủ động,
sáng tạo. Giúp trẻ có được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những
điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách ứng xử
phù hợp trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. Tạo tiền đề
cơ bản để trẻ trở thành người có trách nhiệm và có tự chủ trong cuộc sống của
bản thân mình. Do nhận thấy hoạt động này có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ
nên tôi đã trăn trở tìm biện pháp khắc phục thực trạng trên. Tôi xin mạnh dạn
trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm mà tôi cho là tâm đắc với
đề tài: “Kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở
trường mầm non”. Tôi muốn rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản và
cần thiết với trẻ, giúp trẻ có được những kinh nghiệm sống để trẻ biết được mình
nên và không nên làm gì, giúp trẻ tự tin, chủ động trong cuộc sống, tạo cho trẻ
những nhân cách tốt cho sau này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực môn phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ
mầm non. Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi thực hiện tại
lớp mẫu giáo nhỡ B1 trường mầm non.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài thì tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp sưu tầm
- Phương pháp trực quan sư phạm
- Phương pháp dùng lời
- Phương pháp thực hành
- Phương pháp tuyên truyền.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Như chúng ta đã biết, giáo dục kỹ năng sống đang là nhu cầu cấp thiết
đối với thế hệ trẻ và đối với trẻ mầm non.
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là sự phát triển về kinh tế xã hội,
nếu một đứa trẻ không có các kỹ năng cơ bản thì làm sao trưởng thành trong
2
cuộc sống. Bên cạnh đó nếu trẻ có các kỹ năng sống tốt trẻ sẽ dễ dàng hòa nhập
với cuộc sống hơn.
Sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học công nghệ trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải có những con người
năng động, sáng tạo, có khả năng làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với môi
trường xung quanh và có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lúc còn bé là rất cần thiết.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cần được quan tâm và thực hành một cách
mạnh mẽ, toàn diện. Với thực tế hiện nay do việc cha mẹ nuông chiều con cái
không rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống đúng đắn dẫn đến tình trạng trẻ
sống lệch lạc về nhân cách dẫn tới hậu quả lớn cho tương lai sau này như trẻ
sống thụ động quá hoặc sống bạo lực do không được quan tâm giáo dục đúng
đắn.
Ví dụ như phụ huynh sống cưng chiều con không cho con tự lao động
phục vụ dẫn tới trẻ sống thụ động ỷ lại vào người khác từ đây làm thui chột ý chí
tự lập của trẻ, sau này trong cuộc sống trẻ không có ý chí phấn đấu dẫn đến việc
tham gia lao động kém hiệu quả.
Giáo dục kỹ năng sống nhằm tăng sức đề kháng, tăng năng lực cho trẻ
hôm nay và vững bước trong tương lai. Ở mỗi lứa tuổi, mỗi thời kỳ, trẻ có
những đặc điểm tăng trưởng và phát triển khác biệt mang tính chất phức tạp
riêng của nó.
Qua việc giáo dục kỹ năng sống trẻ sẽ được lĩnh hội các kiến thức phù
hợp với trẻ từ đó trẻ sẽ phát triển cân đối hài hòa cả về thể chất lẫn tâm hồn.
Với từng giai đoạn phát triển của từng lứa tuổi thì việc giáo dục kỹ năng
cũng đòi hỏi người giáo dục trẻ phải có kiến thức kỹ năng đúng đắn như vậy đây
cũng là cơ hội cho người giáo dục trẻ thêm cơ hội học hỏi và trau dồi kinh
nghiệm của bản thân từ đó có thể rút kết ra những kinh nghiệm để có cách giáo
dục trẻ tốt nhất.
Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ, vì đây là giai đoạn trẻ có đặc điểm về trí nhớ
đó là rất nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên nên việc nắm bắt tâm lý trẻ cũng
như việc dạy kỹ năng sống cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lớp tôi
gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi
Trường mầm non có khu trung tâm trường đặt tại trung tâm của khu dân
cư, có nhiều thuận lợi cho việc đưa đón trẻ. Trong những năm qua mặc dù điều
kiện kinh tế tài chính của nhà trường và địa phương còn khó khăn. Nhưng dưới
sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự tham gia tích cực của
các ban nghành đoàn thể, đặc biệt là hội cha mẹ học sinh đã luôn sát cánh cùng
với nhà trường thực hiện tốt công tác xây dựng sữa chữa cơ sở vật chất và mua
sắm trang thiết bị và kết hợp trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Đội ngũ các bộ giáo viên đủ về số lượng, hợp lí về cơ cấu, chuẩn về
trình độ, mẫu mực về đạo đức, yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công tác.
3
Tỉ lệ trẻ mẫu giáo hàng năm ra lớp đạt tỉ lệ cao, chất lượng giáo dục ngày
càng được nâng lên.
Công tác xã hội hóa, phổ cập giáo dục được quan tâm, phong trào khuyến
học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập của địa phương được triển khai tích cực
và ngày càng sâu rộng.
Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, có 28 đồng chí giáo viên trong
đó trình độ :
Đại Học 17 đồng chí = 61%
Cao Đẳng 3 đồng chí = 10,5 %
Trung cấp 8 đồng chí = 28,5 %
Số trẻ toàn trường 282 trẻ, 100% trẻ được ăn bán trú ở trường nên thuận
lợi cho việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ
Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự nỗ lực yêu ngành, yêu nghề của
đội ngũ giáo viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, học tập rèn luyện củng cố
kiến thức để đáp ứng với yêu cầu của ngành học nên năm học 2015-2016 trường
đã đạt là trường tiên tiến cấp huyện .
Riêng bản thân tôi đã học xong lớp đại học liên thông và đang thực hiện
theo chương trình giáo dục mầm non mới. Hàng năm BGH phân công tôi chủ
nhiệm các lớp 3-4 tuổi, 4-5 tuổi và năm học 2016-2017 được nhà trường tin
tưởng giao cho tôi đứng lớp 4-5 tuổi nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác
chăm sóc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Được sự giúp đỡ của BGH nên tôi đã
rút ra một số kinh nghiệm trong giảng dạy.
Các tài liệu, tập san về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ được nhà trường,
phòng giáo dục đầu tư kịp thời. Đặc biệt nhà trường có dàn máy vi tính kết nối
internet tạo điều kiện cho giáo viên cập nhật thông tin mới một cách nhanh
chóng và thuận tiện.
b. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên khi đi vào thực tế quá trình giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 4-5 tuổi còn gặp nhiều khó khăn:
- Là giáo viên trẻ, vốn sống cũng như kinh nghiệm giáo dục trẻ chưa có
nhiều nên việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng như dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp
không ít khó khăn.
- Có không ít cha mẹ trẻ nhận thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ chưa rõ
ràng. Họ đưa con đến trường rồi phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho
con đi học chỉ cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện thế là đủ, còn lại
các việc khác không quan trọng. Nhiều phụ huynh còn cho rằng trẻ con biết gì,
làm được gì mà dạy kỹ năng sống. Chính vì vậy việc phối hợp với các bậc phụ
huynh trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn.
Do nhu cầu mưu sinh nên nhiều bố mẹ đi làm ăn xa nhà để con ở nhà cho
ông bà trông nom, ông bà tuổi cao sức yếu, hoặc là cưng chiều cháu quá mức
dẫn đến trẻ có nhiều thói quen không tốt nên việc rèn luyện kĩ năng cho trẻ gặp
nhiều khó khăn hơn.
Một bộ phận phụ huynh nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của việc giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ, có phụ huynh khi thấy trẻ thực hiện các việc lao động
tự phục vụ như lau mặt, thay quần áo, rửa tay ... thì tỏ thái độ không hài lòng vì
cho rằng tất cả việc đó là giáo viên phải làm cho trẻ.
4
- Do gia đình chỉ có từ 1-2 trẻ nên gia đình rấ cưng chiều trẻ không cho
trẻ làm bất cứ việc gì nên dẫn đến tình trạng trẻ không biết cách tự phục vụ bản
thân mình như trẻ đã 4-5 tuổi mà vẫn chưa biết tự xúc cơm ăn, chưa biết cách
mặc áo quần,...
- Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị, phục vụ hoạt động đã có sự đầu tư
nhưng chưa đa dạng như đồ chơi ngoài trời còn ít. Vì vậy không thu hút được
hứng thú của trẻ, làm hạn chế kết quả của hoạt động.
- Bên cạnh đó, các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức lại không đồng
đều, có nhiều cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu thể lực không tốt, đây cũng
là một trong những nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
- Lớp tôi có 35 trẻ số trẻ đông, diện tích lớp quá hẹp, trẻ hoạt động đang
còn hạn chế nhất là giờ hoạt động góc.
c. Kết quả khảo sát ban đầu:
Với thực trạng trên, qua việc khảo sát các kỹ năng sống đầu năm trên trẻ
tại lớp mẫu giáo nhỡ B1 do tôi chủ nhiệm cho kết quả như sau:
Mức độ % trên trẻ
Tổng số
Đạt
Chưa đạt
trẻ
Lĩnh vực khảo sát
Số
trong
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
lượn
lớp
lượng
%
%
g
1. Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ
35
17 48,5% 18 51.5%
phép.
2. Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản
35
14
40%
21
60%
thân.
3. Kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.
35
10 28,5% 25 71,5%
4. Kỹ năng hợp tác.
35
9
26%
26
74%
5. Kỹ năng ứng xử phù hợp với
35
16
46%
19
54%
người xung quanh.
- Kết quả khảo sát trên cho thấy, tỉ lệ % trẻ có kỹ năng sống ở mức đạt
còn quá thấp, giao động từ 26 % đến 48,5%.
- Có tới 51,5 % đến 74 % trẻ ở mức chưa đạt.
2.3. Các sáng các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Đứng trước tình hình như vậy, tôi luôn đắn đo suy nghĩ làm thế nào để
nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận dụng kiến
thức kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kỹ năng đó trở thành thuộc tính
vững chắc trong nhân cách trẻ.
Bản thân tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu và thực hiện từ đó đã lựa
chọn được một số biện pháp có hiệu quả sau:
Biện pháp 1 : Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các
kỹ năng sống.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ
đạo trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ, khả năng
tập chung chú ý và ghi nhớ có chủ định còn hạn chế. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng
5
nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được củng cố bằng cách
luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch
cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển
bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch
cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới
gây được hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Khi dạy trẻ rửa mặt thì trước tiên tôi nói cho trẻ biết ý nghĩa của
việc giữ gìn mặt sạch sẽ đó là khuôn mặt sạch sẽ đáng yêu, và tôi cho trẻ biết khi
cần rửa mặt đó là lúc mặt bẩn, khi ngủ dậy, khi đi chơi về mặt bị bụi bẩn, trước
và sau khi ăn. Phải sử dụng khăn sạch, khăn riêng để lau mặt tránh bị lây nhiễm
các bệnh về mắt như mắt hột, mụn nhọt…, sau đó tôi hướng dẫn trẻ lau mặt
trước tiên cần săn tay áo lên cho khỏi bị ướt sau đó rửa tay bằng xà phòng trước
khi rửa mặt, tiếp theo là vò khăn sạch vắt ráo nước, trải khăn lên lòng bàn tay
phải rồi lần lượt lau: Lau hai mắt hai bên, dịch khăn lên lau trán, lau má, lau
mũi, lau cằm, rồi lật gấp khăn lau cổ gáy, vành tai từng bên. Lau xong giặt vò lại
khăn, giũ hai ba lần nước sạch, vắt khô, phơi lên dây phơi. Để hình thành thói
quen vệ sinh cho trẻ tôi cho trẻ rửa mặt ở các thời điểm trong ngày như trước và
sau khi ăn, khi ngủ dậy, khi đi chơi về…, tạo cho trẻ hình thành và phát triển
thói quen tốt này.
( Trẻ thực hành thao tác rửa mặt)
6
Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn,
khéo hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới
thiệu với trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược
cùng cô từ 5 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả
và tặng quà. Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc
cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy
trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp
theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo.
Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập thường xuyên và
có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. Với cách tổ chức có hệ
thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương
đối tốt.
( Trẻ Chơi thi đua “ Ai nhanh hơn, khéo hơn”)
Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không
gây ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi
7
ngồi ăn ghế phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp
dép phải xếp kẹp đôi, xếp lần lượt hết đôi này đến đôi khác theo thứ tự ... Nhờ
được tham gia và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp
hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt.
( Trẻ xếp ghế đúng nơi quy định)
Ví dụ: Hướng dẫn trẻ trải răng thực hiện thông qua trò chơi, làm động tác
mô phỏng, trẻ sẽ thấy thoải mái và bắt chước bạn làm theo dễ dàng hơn. Tôi tiến
hành hướng dẫn trẻ trước tiên trẻ lấy cốc nước, nhúng ướt bàn chải tay phải cầm
bàn chải, tay trái cầm tuýp kem đánh răng nhắc trẻ lấy vừa kem, không nhiều
quá để kem dây bẩn ra quần áo và bẩn tay, sau đó ngụm nước súc miệng để ướt
đều các mặt răng, tay phải cầm bàn chải chải lần lượt các mặt răng. Chải mặt
trước răng của hàm trên, hàm dưới. Sau đó chải mặt ngoài bên phải cửa hàm
răng trên và dưới sau đó chải mặt ngoài bên trái của hàm trên và hàm dưới, sau
đó chải mặt trong bên trái, mặt trong bên phải tiếp theo chải mặt nhai, chải mặt
trước trong cửa răng cửa hàm trên, và hàm dưới. Sau khi chải xong tôi hướng
dẫn trẻ lấy nước xúc miệng hai ba lần cho sạch xà phòng, chú ý nhắc trẻ khạc
8
nhổ nước bẩn vào chậu rửa quy định, không được nuốt vì có hại cho sức khoẻ.
Sau cùng tôi hướng dẫn trẻ cất bàn chải đúng nơi quy định. Trong quá trình
hướng dẫn tôi quan sát và động viên kịp thời trẻ để trẻ có thói quen vệ sinh tốt
giữ hàm răng sạch sẽ, không bị râu răng.
( Trẻ đang thực hành đánh răng)
Bên cạnh việc giáo dục trẻ những kĩ năng lao động tự phục vụ thì tôi còn
chú ý tới việc giáo dục trẻ với việc bảo vệ môi trường, giáo dục trẻ biết nhặt rác
bỏ vào thùng ngay cả ở trường lớp cũng như trong gia đình và nơi công cộng.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời khi cho trẻ dạo chơi sân trường nếu
nhìn thấy rác thay vì sai trẻ nhặt rác bỏ vào thùng cô sẽ là người thực hiện trước
và hỏi trẻ vì sao cô làm như vậy, sau đó cô phân tích cho trẻ hiểu là hành động
nhặt rác bỏ vào thùng là để góp phần làm cho môi trường sạch sẽ, khi đã hiểu
được ý nghĩa của việc làm có ích những lần khác trẻ thấy rác sẽ tự động thực
hiện mà không cần chờ cô nhắc nhở.Và cô hướng dẫn trẻ cách thực hiện như:
Khi thấy rác các con nhặt lên sau đó bỏ rác vào nơi quy định như thùng rác, sau
đó rửa tay cho sạch.
9
(Trẻ nhặt rác trong giờ hoạt động ngoài trời)
Với biện pháp này, các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện
một
cách chính xác. Kết quả đạt được rất khả quan nhưng chưa phải là đủ. Để cho
các kỹ năng sống của trẻ được hình thành và phát triển một cách liên hoàn tôi
tiến hành thực hiện biện pháp thứ 2.
10
Biện pháp 2 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng
sống của trẻ ở nhà. Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi
lúc mọi nơi.
Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thự c hiện nghiêm túc chế độ giờ
giấc trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục
có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu
của người lớn và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào
nội dung cụ thể của từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù
hợp. Thông qua giờ đón trẻ tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ như:
Biết lễ phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự
phục vụ bản thân và chấp hành quy định của lớp.
Ví dụ : Tôi dạy trẻ biết cất ba lô vào tủ, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh
đúng nơi quy định, biết chú ý nghe khi cô, bạn nói với mình, biết chờ đến lượt
khi được nhắc nhở, biết trao đổi thỏa thuận với bạn để cùng thực hiện hoạt động
chung…..)
Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để
tôi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ vào
nội dung của từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.
Ví dụ : Qua tiết học KPKH: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi
dạy trẻ kỹ năng sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý
thức giữ gìn, bảo vệ các bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời
phải đứng thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng… Kỹ năng tuân thủ quy
tắc giờ học như muốn nói phải giơ tay, chờ đến lượt cô mời mới được nói, không
nói leo, tập chung chú ý nghe cô… Chính vì thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong
giờ học biết chú ý lắng nghe, tuân thủ theo sự hướng dẫn của cô và đặc biệt rất
tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra.
- Ở lứa tuổi này các loại tình cảm bậc cao như tình cảm trí tuệ, tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mĩ đều ở vào thời điểm phát triển thuận lợi nhất, đặc
biệt là tình cảm thẩm mĩ, tình yêu cái đẹp trong tự nhiên và trong nghệ thuật
càng khiến trẻ gắn bó hơn với con người và thiên nhiên, từ đó trẻ mong muốn
làm những điều tốt đẹp cho mọi người và cho môi trường sống, như vậy qua
giáo dục thẩm mĩ đã có tác dụng giáo dục cả tình cảm đạo đức bởi thực chất với
trẻ nhỏ cái đẹp và cái tốt không thực sự được phân biệt rạch ròi, thông qua các
các phẩm nghệ thuật như các tác phẩm văn học thơ truyện tôi cho trẻ cảm nhận
cái tốt của các nhân vật trong tác phẩm từ đấy tôi có thể giáo dục trẻ làm nhiều
việc tốt đây cùng là một phần trong giáo dục nhân cách cho trẻ.
Ví dụ: Qua tiết học LQVH truyện “Cậu bé Tích Chu”. Tôi giáo dục cho
trẻ biết yêu quý, kính trọng người thân trong gia đình, biết vâng lời ông bà bố
mẹ, biết giúp đỡ ông bà bố mẹ những công việc phù hợp với sức của mình.
Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng
khác nhau như kỹ năng nhận biết được các nguy hiểm xung quanh mình như
11
những nguy hiểm từ lửa, điện, nước và sử lí một số tai nạn thương tích thường
gặp.
Ví dụ : Qua việc trò chuyện quan sát cái xích đu. Trẻ nhận biết được một
số nguyên nhân gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã.
Các kỹ năng tôi dạy trẻ đó là:
+ Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông
tin.
+ Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên xích đu chẳng may bị ngã bé
cần làm gì?( Nằm yên, chờ xích đu dừng hẳn mới ngồi dậy để tránh xích đu đập
vào đầu, bạn khác chạy đi báo với cô…)
+ Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã?
( Không đu quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên xích đu, nắm chắc tay
cầm…)
Hay qua hoạt động “Quan sát thời tiết”, tôi cho trẻ quan sát nhận biết thời
tiết trong ngày từ đó giáo dục trẻ ăn mặc phù hợp với thời tiết để giữ gìn sức
khỏe, bên cạnh đó tôi kết hợp lồng ghép dạy trẻ kỹ năng nhận biết mối nguy
hiểm của thiên tai như sấm, sét, tia lửa điện..., rèn cho trẻ các kỹ năng cần thiết
như không đi ra ngoài khi trời mưa to, không trú mưa ở các gốc cây to để phòng
tránh thương tích có thể xảy ra.
Thông qua giờ hoạt động góc: Chúng ta biết rằng: “Trẻ học mà chơi, chơi
mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ
tiếp thu một cách dễ dàng nhất.
Ví dụ : Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ
năng giao tiếp( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con, giao
tiếp giữa các thành viên trong gia đình), kỹ năng chăm sóc (biết lấy nước cho
con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học được cách chơi trong
nhóm chơi, biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi chơi xong trẻ
biết cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả
các góc chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở
lớp tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành
đồ chơi của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp ( ví dụ: xây ngôi
trường của bé, trẻ phân công nhau: Bạn A thì xếp hàng rào, bạn B chở gạch, bạn
C trang trí trường cây xanh, bạn D, E, F lắp ghép lớp,... )
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự
phục vụ qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng
cách và hành vi văn hoá văn minh như:
+ Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.
+ Tham gia chuẩn bị bữa ăn( tự kê ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia
bát…)
+ Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống
(Trẻ biết rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, khi ăn thì mời cô, mời bạn, biết vệ
sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành vi văn hoá như
12
không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời lấy tay che
miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…)
Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy, cất gối đúng nơi
quy định, biết lau chùi chân trước khi lên giường, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn
khi bạn đang ngủ.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt
động khác trong ngày như: Ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ...
Bằng việc tạo tình huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được
củng cố các kỹ năng của mình.
Ví dụ: Vào các giờ hoạt động chiều tôi tổ chức các trò chơi có luật , trò
chơi dân gian..., và tạo ra các câu hỏi tình huống cho trẻ giải quyết như: Khi
cháu đang ăn bánh mì bỗng gặp một bạn nhỏ đang rất đói vậy thì con phải làm
gì? Tôi dành thời gian cho trẻ suy ngĩ và cho trẻ nói ra suy nghĩ của mình. Sau
khi trẻ đã trả lời tôi dạy cho trẻ biết phải mời bạn ăn bánh mì và chia cho bạn
một nửa bánh mì mình đang có, bên cạnh đó tôi giải thích cho trẻ biết rằng giúp
đỡ người khác trong lúc khó khăn là một việc tốt đáng được khen ngợi, mình
biết giúp đỡ mọi người đến khi mình gặp khó khăn thì sẽ được người khác giúp
đỡ mình. Từ đó tôi giáo dục trẻ biết cách quan tâm chia sẻ với người khác, góp
phần vào việc hình thành nhân cách, tình cảm cho trẻ.
Tóm lại, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính
liên tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói quen,
thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng
tích hợp quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như
sẽ gây tâm lý nặng nề cho trẻ khi tham gia vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt
động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một
trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả.
Biện pháp 3 : Đánh giá kỹ năng sống của trẻ thường xuyên.
Việc nhìn nhận, xem xét lại các công việc đã làm trong một thời gian nhất
định sẽ rút ra được những bài học bổ ích, có những điều chỉnh hoặc cải tiến các
hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả hơn. Việc đánh giá các kỹ năng sống của trẻ
thường xuyên lại có vai trò đặc biệt hơn.
Sau mỗi hoạt động trong ngày, tôi luôn dành thời gian để nhận xét đánh
giá hoạt động đó nhằm cũng cố các kỹ năng cho trẻ và tìm ra biện pháp để hoạt
động sau cô cùng trẻ thực hiện tốt hơn.
Ví dụ: Qua hoạt động góc, tôi nhận xét đánh giá góc bán hàng: Hôm nay
bác Hường bán hàng thật là khéo, biết chào mời khách lịch sự, biết nhận tiền của
khách và đưa bằng 2 tay, biết cảm ơn khách, nhưng tôi thấy tiền của bác cất
chưa cẩn thận, tôi khuyên bác lần sau nếu có nhiều tiền như vậy nên cất vào túi,
đừng để lên bàn như vậy nhé! Khi nghe những lời nhận xét đơn giản như vậy, trẻ
có thêm tự tin vào bản thân, nắm được kỹ năng giao tiếp lịch sự, hình thành tính
cẩn thận cho trẻ. Hoặc qua việc nhận xét giờ ăn trưa: Hôm nay cô cảm ơn bạn
Bảo Ngọc, bạn Hiếu, bạn Xuân Anh đã giúp cô chuẩn bị bữa ăn cho các bạn, 3
bạn đã biết chia thìa vào bát, bê cơm cho các bạn bằng 2 tay và khi đưa cho các
bạn thì đặt nhẹ nhàng. Như vậy bản thân cháu Bảo ngọc, cháu Hiếu, cháu Xuân
13
Anh sẽ tự tin vào hoạt động của mình và các bạn khác trong lớp hôm sau cũng
cố gắng làm tốt như vậy để được cô khen.
Mỗi ngày tôi đều ghi chép vào nhật ký và đánh giá những biểu hiện tâm
sinh lý của trẻ trong các hoạt động. Tôi đặc biệt chú ý đến việc đánh giá các kỹ
năng, trạng thái cảm xúc và hành vi của trẻ. Tôi xác định những trẻ cần lưu ý để
có biện pháp chăm sóc riêng phù hợp và lấy đó làm căn cứ thước đo để đánh giá
cuối mỗi chủ đề.
Việc đánh giá kỹ năng cho trẻ ở mỗi chủ đề tôi dựa vào mục tiệu đạt
được trên trẻ ở chủ đề đó, sử dụng phiếu đánh giá cuối chủ đề ghi các thông tin
về các kỹ năng trẻ đã làm và chưa làm được trong chủ đề.
Ví dụ: Trong chủ đề gia đình: Tôi đánh giá sự tích cực của trẻ khi cùng
cô, cùng bạn tham gia các hoạt động trong chủ đề, đánh giá việc trẻ có thực hiện
một số quy tắc đơn giản trong gia đình như biết nghe lời bố mẹ, cất dọn đồ dùng
của mình ngăn nắp, có được một số kỹ năng chào hỏi, xin phép, biết được vị trí
của mình trong gia đình.
Bằng việc nhận xét đánh giá thường xuyên như vậy, tôi đã rút ra được nhiều
kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và cũng đã có nhiều kỹ năng sống
được hình thành và cũng cố trên trẻ. Trẻ giao tiếp tốt hơn, tự tin vào bản thân
hơn, nhận thức đúng vị trí của mình, biết nhận xét bạn, khéo léo hơn trong các
hoạt động lần sau. Thông qua việc nhận xét đánh giá khéo léo cuả cô, trẻ biết tự
điều chỉnh hành vi của mình sao cho tốt, sao cho được cô khen. Biện pháp đánh
giá đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ .
Tôi đã đạt được kết quả giáo dục như mong muốn nhưng mỗi biện pháp
thì có tác dụng riêng, để thực hiện có hiệu quả cần phải phối hợp nhiều biện
pháp khác nhau. Tôi tiếp tục sử dụng biện pháp tiếp theo.
Biệp pháp 4 : Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ
nhiệm lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia
đình nhà trường và xã hội trong việc giáo dục trẻ. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
không phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng
sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ xảo.
Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi
trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu
các kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả
cao. Mặt khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ
huynh nhất là trong thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích
cao trong học tập cũng như trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc
làm thế nào để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế nào để
trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì nhiều phụ huynh còn lúng túng trong vấn
đề này. Trên thực tế nhiều phụ huynh chưa có kiến thức về kỹ năng sống, không
biết kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ
những gì? Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ
hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương
pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên
14
truyền đến các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua
góc tuyên truyền, thông qua việc mời phụ huynh thăm quan hoặc tham gia trực
tiếp vào các hoạt động của lớp hay thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể:
Thông qua giờ đón – trả trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức
khoẻ, vệ sinh cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng
của trẻ để cùng phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Ví dụ: Ở lớp tôi có cháu Uyên Vân, thời gian đầu đi học cháu không thể
tự mình kéo quần lên sau mỗi lần đi vệ sinh, không biết đi dép có quai, thậm chí
không biết đội mũ len đúng cách nếu không có sự giúp đỡ của cô vì tất cả những
việc đó ở nhà bố mẹ đều làm cho cháu. Thông qua trao đổi với mẹ của cháu, tôi
biết cháu là con một trong gia đình có điều kiện. Ở nhà bà và mẹ vì quá yêu
thương mà bao bọc cháu, làm thay hết mọi việc cho cháu nhưng không biết rằng
điều đó vô tình dẫn đến việc cháu không biết cách phục vụ bản thân, làm cháu
thiếu hụt kỹ năng sống so với các bạn cùng độ tuổi. Tôi có trao đổi với mẹ cháu
rằng để cháu tập làm mọi thứ bắt đầu từ chỗ chọn việc dễ nhất để con làm.
Ví dụ : Buổi sáng chuẩn bị đến trường, mẹ có thể mặc quần áo cho con
sau đó hỏi con: Con có thể tự đi dép được không nào? Chọn cho con cái mũ len
con thích nhất, đội lên đầu để mẹ ngắm xem có đẹp không nhé! Sau khi trẻ làm
được, mẹ nên khen con một vài câu để tăng tính tự tin cho trẻ chẳng hạn như:
Con gái mẹ xinh quá hay con gái mẹ khéo quá biết đi dép, đội mũ đúng rồi….!
Từ đó cháu dần tự tin và thích tự làm mọi việc.
Thông qua góc tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được thiết kế đẹp, kích
thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao
đổi thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.
Ví dụ : Ở chủ điểm trường mầm non tôi ghi nội dung lồng ghép giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ như sau:
- Kỹ năng giao tiếp : Giao tiếp với bạn bè, với cô, với người lớn, (biết
chào hỏi cô, chào hỏi bạn khi tới lớp, chào khách khi có khách tới chơi, biết xin
lỗi, biết cảm ơn đúng lúc)…
- Kỹ năng tuân thủ các quy định của trường lớp: Không la hét, không nói
leo trong giờ học, không làm ồn, biết chờ đến lượt….
- Kỹ năng hợp tác: Trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp
đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn
khi cần...
Thông qua việc mời phụ huynh thăm quan hoặc tham gia trực tiếp vào
việc tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ. Có rất nhiều phụ huynh đã không khỏi ngỡ
ngàng vì khả năng tự lập của con mình trên lớp.
Ví dụ : Chị Lan, phụ huynh cháu Xuân Anh có nói với tôi rằng ở nhà
cháu không tự xúc ăn, cứ đòi mẹ xúc cho thì mới ăn, thậm chí ăn xong còn bắt
mẹ lấy khăn lau miệng. Nhưng ở trên lớp thì khác hẳn, cháu có thể chia cơm cho
các bạn, tự ngồi vào bàn ăn và xúc ăn rất gọn gàng. Khi tôi hỏi Xuân Anh: Tại
sao ở nhà con không tự xúc cơm ăn? Cháu trả lời rằng: Vì mỗi khi con đánh rơi
cơm, làm đổ canh mẹ thường quát con còn cô giáo thì không. Qua buổi thăm
quan hôm đó chị Lan đã rút được kinh nghiệm trong việc dạy kỹ năng sống cho
15
trẻ đó là không nên nóng vội, ít la mắng cháu, nên tôn trọng cháu, con có quyền
làm sai, nếu sai mẹ sẽ động viên con làm lại. Việc phối hợp với phụ huynh bằng
hình thức này đã giúp phụ huynh hiểu biết thêm về cách dạy kỹ năng sống cho
trẻ để từ đó dạy con mình các kỹ năng sống tốt hơn.
Thông qua các buổi họp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh như các kĩ năng tự
phục vụ bản thân và kĩ năng nhận biết được các nguy hiểm xung quanh trẻ ,... từ
đó trẻ biết ứng phó với những tình huống có thể xảy ra. Các phụ huynh đã tiếp
nhận thông tin một cách đồng bộ, không gò bó, gượng ép. Tôi giải thích cho phụ
huynh hiểu việc dạy kĩ năng sống cho trẻ cần phải bắt nguồn từ gia đình vì trẻ
học hỏi nhiều nhất từ chính bố mẹ của mình, phụ huynh phải là những tấm
gương tốt để trẻ noi theo.
Bên cạnh việc trao đổi với phụ huynh hay mời phụ huynh tham quan lớp
học thì để phụ huynh hiều hơn về tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ thì việc mời phụ huynh tham gia vào việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
là rất cần thiết, nhất là các kĩ năng giáo dục trẻ bảo vệ mình trước những nguy
hiểm và biết cách bảo vệ bản thân mình.
Tổ chức cho trẻ thực hành các tình huống trong cuộc sống, giáo viên tạo
tình huống cho trẻ giải quyết với sự góp sức của phụ huynh.
Ví dụ: Cô tổ chức cho trẻ( hoặc một nhóm trẻ) được trải nghiệm thực tế,
áp dụng theo chương trình “Con đã lớn khôn”. Cô yêu cầu trẻ đi tới một cửa
hàng và mua cho cô một món đồ, cô chỉ đường và hướng dẫn trẻ đi, trong khi
trẻ đi tới cửa hàng, cô đi theo để giám sát trẻ nhưng không để cho trẻ biết là cô
đang giám sát trẻ, tạo tình huống là cô mời hai phụ huynh tham gia, một phụ
huynh đóng vai là người xấu còn một phụ huynh giám sát trẻ cùng với cô ( phụ
huynh giám sát trẻ có thể là cha hoặc mẹ của trẻ được giám sát). Phụ huynh
đóng vai làm người xấu phải là người mà trẻ chưa biết mặt. Khi trẻ đang trên
đường đến cửa hàng phụ huynh đóng vai người xấu xuất hiện hỏi han trẻ và cho
trẻ kẹo và rủ trẻ đi theo để cho nhiều kẹo hơn, nếu trẻ không đi theo thì là điều
tốt, sau đó ta tạo tình huống thứ hai là người xấu bế trẻ đi xem phản ứng của trẻ
như thế nào. Cô và phụ huynh quan sát xem ứng phó của trẻ như thế nào để tìm
biện pháp giáo dục cho phù hợp và hiệu quả, nếu trẻ đi theo người lạ cô can
thiệp kịp thời và giáo dục cho trẻ các kĩ năng cần thiết như không đi theo người
lạ, khi người lạ kéo đi, bế đi thì phải cầu cứu hoặc hét to cho mọi người nghe
thấy.
Qua việc tổ chức cho trẻ trải nghiệm thực tế này giúp trẻ có kĩ năng bảo
vệ bản thân mình hơn và có ý thức bảo vệ mình khỏi những tình huống nguy
hiểm.
Bên cạnh đó tôi kết hợp với phụ huynh trong việc dạy trẻ nghi nhớ địa
chỉ của gia đình, tên bố mẹ, nghề nghiệp để phòng khi gặp khó khăn cần giúp
đỡ.
Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ
luôn coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống cho
trẻ. Đặc biệt là giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số phụ huynh dịu
16
dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng sống cho trẻ, phân việc cho
trẻ, không cung phụng trẻ thái quá.
2.4. Hiệu quả
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
lớp tôi có những chuyển biến rõ rệt. Tôi tiến hành khảo sát trên trẻ, kết quả khảo
sát lần 2 thu được như sau:
Mức độ % trên trẻ
Tổng
Đạt
Chưa đạt
số trẻ
Lĩnh vực khảo sát
trong
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lớp
lượng
%
lượng
%
1. Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ phép.
35
33
94%
2
6%
2. Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản
35
34
97%
3
3%
thân.
3. Kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.
35
30 85,5%
5
14,5%
4. Kỹ năng hợp tác.
35
31 88,5%
4
11,5%
5. Kỹ năng ứng xử phù hợp với
35
30 85,5%
5
14,5%
người xung quanh.
Kết quả khảo sát trên cho thấy, tỉ lệ % trẻ có kỹ năng sống ở mức đạt tăng
lên nhanh chóng từ 85% đến 97%. Trẻ đã có được những kỹ năng tương đối bền
vững. Đáng mừng là tỉ lệ % trẻ ở mức chưa đạt giảm xuống còn dưới 15%. Kết
quả này đã chứng minh ưu điểm của việc thực hiện có hiệu quả các biện pháp
trên. Trẻ lớp tôi đã có được những kỹ năng sống cơ bản, cần thiết của lứa tuổi
này. Đồng thời cũng lĩnh hội được những kỹ năng kỹ xảo, thói quen hành vi, nếp
sống văn hoá, làm nền tảng cho việc phát triển nhân cách trẻ toàn diện, bền
vững, có khả năng thích ứng với mọi biến động của xã hội, biết tự khẳng định
mình trong xã hội. Góp phần làm cho xã hội ngày càng phát triển vững mạnh.
Về phía phụ huynh, sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ
huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà
trường. Các bậc phụ huynh đã có thói quen phối hợp với giáo viên, tích cực
tham gia các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường.
Bản thân tôi, qua việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
tôi cũng có điều kiện để rèn luyện các kỹ năng sống của mình, có một số kinh
nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong đó có hoạt
động giáo dục kỹ năng sống.
3. Kết luận, kiến nghị
a. Kết luận
Sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học công nghệ trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải có những con người
năng động, sáng tạo, có khả năng làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với môi
trường xung quanh và có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lúc còn bé là rất cần thiết.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cần được quan tâm và thực hành một cách
17
mạnh mẽ, toàn diện hơn nữa ở cả gia đình, nhà trường và xã hội. Góp phần tạo
cho xã hội có những “Mầm ươm” khoẻ mạnh và sẵn sàng vươn lên.
Giáo dục kỹ năng sống là việc làm thường xuyên đòi hỏi mỗi giáo viên
phải nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp, tìm các biện pháp để tổ chức cho trẻ
được hoạt động, chuẩn bị những tiền đề cần thiết giúp cho trẻ bước vào học phổ
thông và học làm người.
b. Kiến nghị
Trong quá trình giảng dạy, tôi có một số ý kiến đề xuất như sau:
- Đối với nhà trường:
Cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với chính quyền địa phương, tăng
cường về cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho việc tổ chức các hoạt động dạy và
học tốt hơn.
- Đối với phòng giáo dục:
Là giáo viên đứng lớp nhưng khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào việc
giáo dục kỹ năng sống và các hoạt động khác còn hạn chế, bởi trình độ sử dụng
thiết bị tin học của bản thân còn chưa cao. Tôi mong muốn có lớp học tổ chức
vào thời gian hợp lý để giáo viên được tham gia học tập nâng cao khả năng ứng
dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức các hoạt động cho trẻ, góp phần nâng
cao hiệu quả của quá trình giáo dục.
“ Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”, tương lai của đất nước bắt đầu từ
thế hệ mầm non chúng ta hãy hành động vì tương lai tươi sáng của đất nước.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình rèn kỹ
năng sống cho trẻ, chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong hội
đồng khoa học và bạn bè đồng nghiệp đóng góp để bản sáng kiến có chiều sâu
và thiết thực hơn.
Xác nhận của Hiệu trưởng nhà trường
( Ký tên, đóng dấu)
Đỗ Thị Nhàn
Thọ xuân, ngày 30 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
Phan Thị Hạnh
18