Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong môn toán học ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.73 KB, 23 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM TRONG
MÔN TOÁN HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC”

Quảng Bình, tháng 5 năm 2015

1


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Toán học là một trong những bộ phận cấu thành chương trình học tiểu học
mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học tốt các môn học ở các cấp học trên, đồng thời
giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những “tình huống toán
học” trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt động lao động. Đó cũng là công cụ cần
thiết cho việc học các môn khoa học khác, tiếp tục nhận thức, khám phá thế giới
xung quanh và để hoạt động có hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Một trong những định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tạo
điều kiện giúp người học phát huy tính tích cực, độc lập; phát triển năng lực tự học,
năng lực tìm tòi, khám phá, sáng tạo. Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)
là một trong những mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học, thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản: Học sinh được
học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân; Nội dung học thiết
thực, gắn với thực tiễn đời sống hàng ngày của học sinh; kế hoạch dạy học được bố
trí linh hoạt; môi trường học tập thân thiện, phát huy tinh thần dân chủ, ý thức tập
thể ; Tài liệu học có tính tương tác cao và là tài liệu hướng dẫn học; Chú trọng kĩ
năng làm việc theo nhóm hợp tác; Phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, cộng đồng và


nhà trường; Tăng quyền chủ động cho giáo viên và nhà trường , phát huy vai trò
tích cực sáng tạo của các cấp quản lý giáo dục.
Tuy nhiên, trong thực tế, Mô hình trường học mới (VNEN) đến nay đã thực
hiện được hết cấp học (các trường học được thí điểm) song dường như đối với
nhiều giáo viên tiểu học, phương pháp mà sách hướng dẫn học đòi hỏi là phải lấy
học sinh làm trung tâm cho mọi hoạt động dạy học, phải dạy học sinh tự phát hiện
và làm chủ tiết học quả là rất khó. Một phần là do đa số giáo viên đã quen với cách
dạy truyền thống, giáo viên chỉ cố gắng để học sinh ghi nhớ bài học một cách máy
móc, thậm chí áp đặt một cách máy móc, cứng nhắc, mối quan hệ giữa giáo viên và
học sinh chỉ theo một chiều từ trên xuống. Mặt khác, nếu dạy học theo phương
pháp này có người cho rằng giáo viên sẽ rất “nhàn” nhưng đối với tôi, giáo viên rất
vất vả vì phải chuẩn bị rất kĩ nội dung dạy học và tới lớp cũng vẫn phải linh hoạt
theo từng đối tượng học sinh. Hơn nữa, cách dạy này cần nhiều thời gian và học
sinh tiểu học còn chưa quen nên nhiều khi khó thực hiện hoặc thực hiện không có
hiệu quả. Do đó việc tìm tòi đổi mới cách dạy, cách học, qua đó nâng cao chất
lượng dạy học nói chung, dạy học môn Toán nói riêng luôn được các cấp quản lý
đặc biệt quan tâm. Đó là mục đích của nghiên cứu “Chỉ đạo đổi mới phương pháp
dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong môn Toán học ở trường tiểu học”.
2


1.2. Phạm vi áp dụng của sáng kiến:
Trong đề tài này bản thân chỉ đi sâu vào nghiên cứu chỉ đạo dạy học lấy học
sinh làm trung tâm trong môn Toán học trường tôi phụ trách, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng dạy - học môn Toán học nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện nói chung.
1.3. Điểm mới của sáng kiến:
Đề tài đổi mới cách dạy- học lấy học sinh làm trung tâm trong môn Toán học
ở trường tiểu học được bản thân nghiên cứu trong hai năm chỉ đạo dạy học theo mô
hình trường học mới (VNEN). Từ đổi mới cách học của học sinh thông qua dạy học

theo nhóm, đổi mới tổ chức các hoạt động dạy học Toán theo 5 bước: Gợi động cơ,
tạo hứng thú ->Trải nghiệm -> Phân tích, khám phá, rút ra bài học -> Thực hành
-> Vận dụng đến việc chỉ đạo đổi mới cách đánh giá học sinh, đổi mới sinh hoạt
chuyên môn trong dạy học môn Toán theo hướng tiếp cận bài học.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của vấn đề Dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong môn
Toán học lớp ở trường tôi đang công tác:
2.1.1. Những thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
- Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh là trung tâm đã được đặt
ra với tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục. Đặc biệt khi chúng ta đang tiến
hành đổi mới chương trình sách giao khoa thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
đã trở thành một yêu cầu cấp thiết.
- Là năm thứ 3 trường được chọn thí điểm dạy học theo mô hình trường học
mới Việt Nam (VNEN) nên được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền
địa phương và sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Giáo dục - Đào tạo Quảng Bình, Phòng
GD&ĐT Lệ Thủy về vấn đề chuyên môn cũng như kỹ thuật dạy học.
- Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo dân chủ, thân thiện, đổi mới các
hoạt động giáo dục, Khá đủ điều kiện cho việc triển khai thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN).
- Nhà trường đã tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa phụ huynh và cộng đồng
nhằm phát huy vai trò tích cực của phụ huynh và cộng đồng tham gia cùng nhà
trường trong hoạt động giáo dục học sinh với hình thức hoạt động phù hợp như:
thực hiện xây dựng sơ đồ cộng đồng, tổ chức Hội đồng tự quản của học sinh, xây
3


dựng góc học tập, thư viện lớp học và cùng tham gia đánh giá kết quả giáo dục của
học sinh.
- Trong nhiều năm qua, cán bộ quản lý, giáo viên trong nhà trường đã được

tập huấn nhiều về công tác đổi mới phương pháp dạy học nên nghiệp vụ sư phạm
ngày được nâng cao, có kĩ năng điều hành các hoạt động dạy học và biết cộng tác
theo hướng tích cực trong giáo dục.
- Mô hình VNEN là mô hình dạy học hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu
đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh phát huy
tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với
phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kĩ năng như: giao tiếp, hợp
tác, tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học.
- Phụ huynh làm tốt vai trò của mình việc trong việc phối kết hợp giáo dục
và tham gia đánh giá học sinh.
- Học sinh được học tập theo mô hình VNEN(3 năm) nên các em đã thích
nghi với phương pháp tự học, biết cộng tác, hợp tác với mọi người trong việc phát
hiện kiến thức mới. Vai trò điều hành của hội đồng tự quản được phát huy tốt trong
mọi hoạt động giáo dục.
- Sách hướng dẫn học Toán các lớp VNEN được thiết kế thân thiện, chỉ dẫn rõ
ràng, thuận lợi cho học sinh tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức. Mặt khác nó cũng có
tác dụng rất lớn cho các bậc phụ huynh tham khảo để kiểm soát hoạt động con em
mình ở nhà. Tất cả các hoạt động đều được thiết kế rõ ràng, định hướng, gợi ý hình
thức tổ chức phù hợp.
* Khó khăn:
- Một số học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở với
ông,bà. Vì thế các em chưa được quan tâm đúng mức tới việc học
tập.
- Không gian lớp học chưa đảm bảo trong khi đó, sĩ số học sinh đông (có lớp
đến 34 em) nên việc tổ chức các hình thức tổ chức học tập như: trò chơi, học theo
nhóm….. gặp nhiều khó khăn.
- Một số giáo viên còn mang nặng lối dạy truyền thống ( mặc dù đã được tập
huấn nhiều lần), nặng về thuyết trình, ít chịu khó đổi mới phương pháp dạy học; kỹ
năng sư phạm của giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động cho học
sinh tích cực hoạt động, tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức còn yếu. Một số ít giáo viên

ngại tìm tòi, suy nghĩ các tình huống sư phạm tối ưu để tạo cho tiết dạy hấp dẫn và
có sức lôi cuốn học sinh.
4


- Một số nhóm trưởng chưa nắm được cách điều hành nhóm; một số học sinh
còn thụ động trong việc tự học, tự suy nghĩ để chiếm lĩnh kiến thức nên tình trạng
một số nhóm, một số học sinh hoạt động chưa tích cực trong các tiết học vẫn còn.
- Chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn
học sinh tự học không khỏi gây phụ huynh tâm lí hoang mang sợ
con em mình không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối
tượng học sinh có kiến thức kĩ năng, năng lực, phẩm chất còn hạn
chế.
2.1.2. Kết quả qua điều tra, khảo sát:
*Kết quả đã đạt được:
Qua tìm hiểu, dự giờ giáo viên trong thực tế giảng dạy, tôi thấy giáo viên đã
quan tâm đến quá trình học, biết khai thác động lực học tập, gắn việc học với nhu
cầu, lợi ích cá nhân người học. Chú trọng kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức,
năng lực phát hiện và tự giải quyết vấn đề của thực tiễn qua phương pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm. Quan tâm vận dụng các phương tiện dạy học hiện đại
để học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập theo tiến độ phù hợp với năng lực từng
em, chú ý đến việc đánh giá và hướng dẫn cho học sinh năng lực tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học, khuyến khích cách học thông minh, sáng tạo.
Học sinh biết tham gia hoạt động, làm việc trong nhóm nhằm chiếm lĩnh tri
thức, tìm hiểu và giải quyết nhiệm vụ học tập. Các em có khả năng điều hành nhóm
hoạt động và báo cáo kết quả khi kết thúc mỗi hoạt động. Biết chia sẽ kinh nghiệm
với bạn bè và học hỏi từ bạn bè cũng như việc trao đổi những điều đã học và cách
học với người khác. Bước đầu các em có năng lực tự học, tự tìm tòi kiến thức, biết
tham gia đánh giá và biết đánh giá kết quả lẫn nhau.
Qua việc đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” đã làm

cho các bậc phụ huynh có trách nhiệm và tham gia với nhà trường nhiều hơn trong
các hoạt động giáo dục toàn diện cho học sinh.
* Những tồn tại:
Qua tìm hiểu, dự giờ giáo viên tôi thấy trong quá trình dạy học, có thể nói
người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng
học sinh nắm vững được lượng kiến thức. Khi dạy, tình trạng coi trọng vai trò trung
tâm của người thầy vẫn còn, chưa thật sự chú trọng vai trò trung tâm của người học
trong việc lĩnh hội và tiếp thu tri thức. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nhiệt tình
trong công tác giảng dạy cũng như đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh chưa triệt để. Tổ chức các hình thức dạy và
5


học chưa phong phú và chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy, chưa
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới thiệu
bài cũng hết sức quan trọng vì nó là một sự chuyển tiếp giữa mảng kiến thức cũ và
mảng kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa đầu tư, các kiến
thức liên quan đến bài giảng, chưa biết sử dụng bài trước để giới thiệu dẫn dắt, tổ
chức cho học sinh tự tìm tòi và phát hiện kiến thức mới.
Một số học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, chưa chịu
khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để
biến tri thức của tài liệu thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em nắm
được lượng kiến thức nhưng chóng quên và kỹ năng tính toán chưa nhanh.
Ví dụ: Ở lớp 42, khi học xong các phép tính về phân số các em làm rất lộn
xộn: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi cộng tử số, có khi nhân
phân số các em cũng quy đồng…mặc dù khi học xong bài mới, ở lớp các em vân
dụng làm bài rất tốt, nhưng khi làm luyện tập chung lại lộn xộn.
Qua học tập, tinh thần hợp tác của một em chưa cao nhiều em còn chưa tự
tin, học thụ động. Kĩ năng điều hành, kĩ năng tự tìm tòi, phát hiện kiến thức mới và

trình bày kết quả trước lớp của học sinh còn hạn chế.
2.2. Một số giải pháp thực hiện "Dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong
môn Toán học" nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
2.2.1.Triển khai thực hiện đổi mới phương pháp dạy học:
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo, đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội. Quá trình thực hiện sự đổi mới này có
thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào công tác quản lí của người làm công
tác quản lí. Vì vậy, “Phải đổi mới quản lí để quản lí sự thay đổi”. Trong đổi mới
phương pháp dạy học, giáo viên và học sinh là những chủ thể có vai trò quyết định
trực tiếp đến chất lượng dạy học cũng như sự thành công của đổi mới phương pháp
dạy học. Vì vậy, trọng tâm của quản lí đổi mới phương pháp dạy học là quản lí hoạt
động giảng dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh. Quản lí thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông bao gồm nhiều nội dung, trong
đó có:
- Quản lí xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình dạy học bám sát các yêu
cầu dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh.
- Quản lí việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp.
6


- Quản lí giờ lên lớp.
- Quản lí việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo
hướng đổi mới.
- Quản lí bồi dưỡng GV đáp ứng yêu cầu dạy học.
- Quản lí cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
- Quản lí việc học tập của học sinh.
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo tiếp cận quản lí sự thay đổi với
các bước sau:
Bước 1. Chuẩn bị cho việc thực hiện đổi mới PPDH.

Để thực hiện tốt bước này nhà trường cần khuyến khích các ý tưởng đổi mới
bằng việc tuyên truyền các thông tin về bối cảnh và học tập kinh nghiệm của những
trường điển hình, tổ chức hội thảo các vấn đề liên quan đến đổi mới PPDH.
Bước 2. Xây dựng kế hoạch triển khai đổi đổi mới PPDH.
Khi lập kế hoạch điều quan trọng là xác định rõ mục tiêu, yếu tố chính của
vấn đề. Phân công người phụ trách, người tham gia vào các công việc, dự kiến các
biện pháp cách thức duy trì đổi mới PPDH để đạt được mục tiêu.
Bước 3. Tổ chức thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
Trong quá trình thực hiện đổi mới PPDH phải chú trọng tạo điều kiện tốt
nhất cho GV cả về thời gian lẫn vật chất để GV yên tâm thực hiện.
Bước 4. Đánh giá và duy trì thực hiện đổi mới PPDH.
2.2.2. Chỉ đạo đổi mới về cách học của học sinh.
Mỗi hướng dẫn học trong sách bao gồm một chuỗi các hoạt động được thiết
kế nhằm giúp học sinh tự học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các chỉ dẫn, trong
bài học. Vì vậy, trước hết người giáo viên cần quan tâm luyện tập cho học sinh các
kĩ năng sau: kĩ năng làm việc cá nhân, kĩ năng làm việc hợp tác theo cặp, theo
nhóm, kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập, góc học tập, kĩ năng tự học ở môi ntrường
xung quanh, gia đình và cộng đồng. Đồng thời giáo viên phải rèn cho học sinh có
được nhận thức đúng đắn về mục đích học tập và tự lực, tích cực thực hiện mục
đích đó bằng hành động của chính mình. Học sinh được học tập theo khả năng và
nhịp độ của riêng mình phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân học sinh. Vì
vậy, kế hoạch dạy học cần được bố trí một cách linh hoạt. Mỗi học sinh được giao
nhiệm vụ và mục tiêu học tập cụ thể, nhưng luôn có thể tự điều chỉnh hoạt động
của chính mình để việc học phù hợp với nhịp độ tiếp thu của bản thân. Hoạt động
tự học của học sinh vừa rèn luyện tính độc lập tích cực của học sinh, đồng thời thúc
đẩy sự tham gia hợp tác, tăng cường ý thức tập thể của học sinh .
7


Với hình thức học nhóm trong quá trình học tập, học sinh có nhiều cơ hội

độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát
huy năng lực hợp tác khi học nhóm, được tranh luận, tự đánh giá bản thân và đánh
giá các bạn. Học sinh đã quen với học nhóm; tự điều khiển hoạt động trong nhóm
từ đó đã giúp học sinh có ý thức để chủ động trong học tập. Học sinh đã thể hiện
được khả năng của mình khi điều khiển và có thể hướng dẫn các bạn khác học, giúp
cho việc tổ chức hướng dẫn luôn chỉ là của cô giáo như trước đây. Một điều dễ
nhận thấy, đó là học sinh đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo hơn trong học tập, tư
duy độc lập, hợp tác để phát hiện chiếm lĩnh kiến thức bài học.
2.2.3. Chỉ đạo tổ chức dạy học nhóm theo mô hình trường học mới (VNEN)
Trong mô hình trường học mới tại Việt Nam, Nhóm học tập (gọi đơn giản là
nhóm) là hình thức tổ chức dạy học trong đó tất cả các học sinh của nhóm cùng
thực hiện một nhiệm vụ nhất định, trong một htời gian nhất định. Trong nhóm, dưới
sự chir đạo của nhóm trưởng, học sinh kết hợp làm việc giữa cá nhân, làm việc theo
cặp, thảo luận trong nhóm, chia sẻ kinh nghiệm hợp tác cùng nhau để giải quyết
nhiệm vụ được giao.
Vấn đề quan trọng nhất là phải bồi dưỡng giáo viên đào tạo được các nhóm
trưởng điều hành hoạt động học tập của nhóm làm việc tích cực với nhau, trao đổi,
thảo luận sôi nổi, tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo cơ hội
cho mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết tóm tắt ý kiến, thống
nhất và chưa thống nhất của nhóm , biết làm theo sự phân công trong nhóm trong
mọi công việc liên quan đến học tập.
Nhóm trưởng có vai trò rất quan trọng trong tất cả các hoạt động của nhóm,
được coi như là “cô giáo/thầy giáo nhỏ”. Nhóm trưởng giúp giáo viên quản lí hoạt
động của nhóm, phân việc và phân vai cho các thành viên trong nhóm , tổ chức
thảo luận, giúp đỡ các thành viên cùng nhau làm việc, đọc nhiệm vụ, đưa ra các
hướng dẫn, giải thích làm cầu nối giữa nhóm với giáo viên và toàn lớp.
Nhóm trưởng cũng là một học sinh đang cùng học tập với các bạn, cũng phải
lo hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách xuất sắc. Do đó giáo viên trường tôi đã
hướng dẫn, tập dượt và và hỗ trợ cho nhóm trưởng các hoạt động hết sức cụ thể.
Trong năm học qua nhà trường đã tổ chức 2 đợt tập huấn Nhóm trưởng, một lần tổ

chức hội thi Nhóm trưởng giỏi. Chính vì vậy những nhóm trưởng trong các lớp
học luôn có ý thức hoàn thành nhiệm vụ học tập và gương mẫu trong các hoạt động
của lớp, của nhà trường. Các em đều có khả năng điều hành nhóm, điều phối các
thành viên nhóm hoạt động và kết nối giữa nhóm với lớp với giáo viên; nhanh
nhẹn, hoạt bát. Các nhóm trưởng đều có uy tính trong lớp, bảo ban, cuốn hút được
8


các bạn cùng thực hiện các hoạt động trong nhóm. Biết tiếp thu, tổng hợp các nội
dung thảo luận trong nhóm một cách thực tế và trung thực.
* Lưu ý: Tùy theo khả năng phát triển, sự trưởng thành của học sinh mà giáo
viên giao nhiệm vụ trưởng nhóm thích hợp. Cũng cần hiểu rằng, một học sinh làm
tốt vai trò nhóm trưởng cũng chính là lúc em đó đã thực sự trưởng thành (đây là
mong muốn của bản thân học sinh và phụ huynh), do đó cần hướng dẫn, tập huấn
và bồi đưỡng cho nhiều học sinh được làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng không
những thay đổi trong nhóm mà còn được luân chuyển là nhóm trưởng ở nhiều
nhóm khác.
Một điều nữa cần phải lưu ý đó là vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm thảo
luận cũng hết sức quan trọng. Qua kinh nghiệm chỉ đạo dạy học theo nhóm, tôi
nhận thấy giáo viên nên bao quát lớp, vừa đánh giá đúng nhóm nào làm nhanh nhất,
chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ hoàn thành lên trước hoặc nhóm nào chậm nhất,
nhóm nào giơ thẻ cần cứu trợ, để từ đó giáo viên kịp thời đến kiểm tra hay giúp đỡ.
2.2.4. Chỉ đạo vận dụng tốt 5 bước tổ chức hoạt động dạy học môn Toán theo
mô hình VNEN.
Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm
trong nhà trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của
VNEN mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các
thành viên trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho
giáo viên và học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của

các em.
Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó
là tổ chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy trình thông qua các
hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của HS, quy trình gồm 5 bước chủ yếu
sau:
Gợi động cơ, tạo hứng thú
Trải nghiệm
bài học
Thực hành
vận dụng.

Phân tích, khám phá,rút ra

Để làm tốt 5 bước này trong tiết Toán, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải
tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức,
phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức.
Chẳng hạn:
*Bước1: Gợi động cơ, tạo hứng thú cho học sinh
Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của
9


học sinh về chủ đề sẽ học, giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để lựa chọn
hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, đố vui, kể chuyện, đặt một tình
huống, tổ chức trò chơi, khai thác kinh nghiệm sẵn có của học sinh, hoặc sử dụng
các hình thức khác….
Ví dụ 1. Khi tổ chức dạy học bài 54: bảng nhân 3 (ở lớp 2)
Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Truyền điện” theo toàn lớp. Trò chơi
này nhằm “khởi động” và giúp học sinh ôn lại bảng nhân 2 và rèn cho học sinh phản ứng
nhanh, nói ngay một công thức bất kì trong bảng nhân 2. Một học sinh nêu ra một công

thức trong bảng nhân 2, chẳng hạn: 2 x 3 = 6 rồi bằng kí hiệu yêu cầu bạn khác nêu công
thức tiếp, và cứ như vậy.
Bước 2: Tổ chức học sinh trải nghiệm.
Đối với hoạt động này giáo viên huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm có sẵn
của học sinh để chuẩn bị bài học mới. Học sinh trải qua các tình huống có vấn đề,
trong đó chứa đựng những nội dung có kiến thức , những thao tác , kĩ năng làm nảy
sinh kiến thức mới.
Ví dụ 2: Khi dạy học bài 62: Phân số ( lớp 4)
Tổ chức học sinh hoạt trải nghiệm, khám phá để nhận biết khái niệm ban đầu
về phân số.
- Học sinh thực hiện các hoạt động trải nghiệm, thực hiện các thao tác bằng
tay, nhận biết trực giác ban đầu về khái niệm phân số.
+ Lấy tờ giấy bìa hình tròn.
+ Gấp 4 phần bằng nhau.
+ Tô màu 3 phần.

+ Em nói: Đã tô màu vào ba phần tư hình tròn.
+ Em viết:

3
Em đọc: ba phần tư
4

Lưu ý: ở hoạt động này cần có đủ đồ dùng cho từng học sinh hoạt động.

10


- Phân tích rút ra kiến thức mới: Học sinh đọc kĩ nội dung trong sách, thảo
luận và nghe thầy/cô giáo hướng dẫn để nắm được nội dung trong tài liệu hướng

dẫn học VNEN.
*
*

3
là phân số.
4
3
Phân số có tử số là 3, mẫu số là 4
4

3
4

Tử số
Mẫu số

Mẫu số là số tự nhiên viết dưới gạch ngang. Mẫu số cho biết hình tròn được
chia thành 4 phần bằng nhau.
Có thể tổ chức hoạt động này như sau:
Tử số là số tự nhiên viết trên gạch ngang. Tử số cho biết 3 phần bằng nhau đã
được tô màu.
+ Nhóm trưởng điều hành các bạn trong nhóm đặt câu hỏi cho nhau, thảo
luận về thông tin mình tìm hiểu.
+ Giáo viên quan sát các hoạt động hỗ trợ để học sinh tự học, tự phát hiện
đúng yêu cầu của bài.
+ Đại diện một nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, phản biện, đặt câu
hỏi cho nhóm trình bày.
+ Giáo viên nêu ý kiến cơ bản của bài.
Bước 3. Phân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới:

Đối với hoạt động này, giáo viên dùng câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích
đánh giá để giúp học sinh thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học.Trong
bước này giáo viên có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận nhóm,
các hình thức sáng tạo khác nhằm kính thích tính tò mò, sự ham thích khám phá,
tìm kiếm, phát hiện,… của học sinh.
Giáo viên có thể cho học sinh làm việc cá nhân trong khoảng ít phút theo
hướng đã định ra trong phần nêu vấn đề, nên yêu cầu các em ghi tắt ý kiến của
mình ra một mảnh giấy. Sau đó, để công việc của học sinh hiệu quả hơn, giáo viên
có thể cho các em trao đổi theo cặp hoặc theo nhóm. Hiệu quả nhất là nên làm việc
theo nhóm đôi rồi những nhóm lớn( sáu học sinh) dễ cho việc trao đổi của các em
cũng như việc quản lý của giáo viên, ít gây ồn ào.
11


Trong lúc học sinh thảo luận theo nhóm nhỏ này, giáo viên nên đi quanh lớp
để quan sát, quản lý đảm bảo tất cả các học sinh đều làm việc, đồng thời đôn đốc,
khuyến khích các ý hay hoặc gợi ý và trả lời một số câu hỏi của học sinh ( nếu học
sinh thắc mắc).
Để khắc phục vấn đề tốn thời gian vì lí do học sinh không quen, giáo viên có
thể cho học sinh thực hiện hoạt động nhóm thường xuyên trong các buổi học. Điều
này sẽ tạo ra một thói quen giúp các em nhanh hơn trong các thao tác như trao đổi,
thảo luận, lập nhóm và giúp đỡ lẫn nhau trong khi cùng làm việc trong nhóm. Các
nhóm cũng sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu giáo viên có thể sắp xếp chỗ ngồi hợp lý
cho các em (đảm bảo trong mỗi nhóm đều phải có một thành viên khá giúp điều
khiển nhóm). Giáo viên cũng nên hướng dẫn cho các nhóm chọn ra một thành viên
làm “thư kí” ghi lại toàn bộ các ý kiến của nhóm đã thảo luận và nghĩ ra. Những ý
này có thể ghi vào một tờ giấy hoặc tốt hơn là ghi vào một bảng phụ để tiện cho
việc trình bày và sửa chữa trước lớp ở bước tiếp theo (nếu là kiến thức khó, trọng
tâm của tiết dạy).
Để học sinh nào cũng chủ động thảo luận, chủ động lĩnh hội kiến thức giáo

viên nên hướng dẫn nhóm trưởng điều hành tất cả các thành viên trong nhóm tham
gia làm nhóm trưởng. Vậy với học sinh yếu ta nên hướng dẫn nhóm trưởng để bạn
điều hành những bài có lượng kiến thức đơn giản, dễ hiểu miễm sao bạn chủ động
nghiên cứu, chủ động tìm tòi, khám phá và lĩnh hội kiến thức đó là được.
Sau khi các nhóm đã thảo luận xong, giáo viên đã biết được kết quả đúng
hay sai của các nhóm song giáo viên nên dành thời gian để học sinh được đứng
trước lớp trình bày cách giải quyết của mình hoặc của nhóm mình vì hoạt động này
giúp rèn luyện tính tự tin, năng lực trình bày và diễn đạt sự việc cho học sinh. Nếu
thời gian hạn chế không cho phép đại diện của tất cả các nhóm trình bày thì giáo
viên nên để các nhóm trao đổi, chia sẻ kết quả học tập với nhau, nếu các nhóm có
kết quả giống nhóm bạn thì cho một tràng pháo tay hoặc đồng thanh nói “đúng” sau
đó nêu câu hỏi chia sẻ về kết quả đó ( Có thể yêu cầu nhóm bạn giải thích vì sao lại
có kết quả như vậy? Hay yêu cầu nhóm bạn nêu quy tắc, công thức, cách làm.... mà
nhóm bạn đã vận dụng) Trong khi các đại diện trình bày, giáo viên yêu cầu cả lớp
lắng nghe, sau đó so sánh, trao đổi, thảo luận để nhận xét, bổ sung ý kiến cho bạn
và cho mình.
Ở hoạt động này, giáo viên nên yểm trợ về mặt sư phạm. Đây là việc làm hết
sức cần thiết vì học sinh thường trình bày các vấn đề một cách lúng túng, lộn xộn,
không rõ ràng, mạch lạc. Nếu thiếu sự yểm trợ về mặt sư phạm này thì rất dễ xảy ra
trường hợp “không ai hỏi, không ai nói gì”.Giáo viên tuyệt đối không nên vội
khẳng định là ý nào đúng, ý nào sai để khuyến khích học sinh sáng tạo trong trao
12


đổi, thảo luận để tự nhận ra ý sai, ý đúng, ý hay. Nói tóm lại là giáo viên chỉ yểm
trợ về mặt sư phạm mà không yểm trợ về mặt khoa học ở hoạt động thảo luận.
Ví dụ : Khi tổ chức dạy học bài 80: Diện tích hình chữ nhật (Lớp 3)
a/ Học sinh khởi động phân tích, khám phá cách tính diện tích hình chữ nhật.
- Học sinh quan sát hình chữ nhật ABCD và thực hiện lần lượt các hoạt động:
A


4 cm

B
3 cm

1 cm2

D

C

+ Trả lời câu hỏi: Hình chữ nhật ABCD có mấy hình vuông?
+ Viết tiếp vào chỗ chấm:
Phép nhân tìm số ô vuông của hình chữ nhật ABCD là:
3 x 4 = …..(ô vuông)
Hình chữ nhật ABCD có chiều dài là ….cm, chiều rộng là ….cm.
+ Đọc kĩ nội dung sau:
Diện tích mỗi ô vuông là 1 cm2. Diện tích hình chữ nhật ABCD là:
3 x 4 = 12 (cm2)
+ Nói với bạn cách tính diện tích hình chữ nhật ABCD.
b/ Đọc kĩ nội dung sau và viết vào vở:
Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta lấy chiều dài nhân với chiều rộng
(cùng đơn vị đo).
Cho HS nêu ví dụ sau đó giáo viên chốt lại cách tính diện tích hình chữ nhật. Việc
chốt kiến thức không nên theo kiểu giảng bài, mà có thể làm như sau: giáo viên cho vài
học sinh trong lớp (thuộc các nhóm khác nhau) nêu cách tính diện tích hình chữ nhật. Các
bạn trong lớp nhận xét, bổ sung.
Bước 4. Thực hành, củng cố bài học.
Thông qua việc giải quyết các bài tập rất cơ bản để học sinh rèn luyện việc

nhận dạng, áp dụng các bước giải và công thức cơ bản, giáo viên quan sát học sinh
làm bài và phát hiện xem học sinh gặp khó khăn ở bước nào. Từ đó giáo viên giúp
học sinh nhận ra khó khăn của mình, nhớ lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện.
13


Giáo viên tiếp tục ra các bài tập với mức độ khó dần lên nhưng phù hợp với
khả năng của học sinh. Giáo viên tiếp tục quan sát và phát hiện những khó khăn của
học sinh, giúp các em giải quyết bằng cách nhớ lại các quy tắc, công thức, cách
làm, thao tác cơ bản đã được rút ra ở trên. Đối với bước này, giáo viên có thể giao
bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá nhân, cho từng nhóm, làm việc theo cặp
hay theo nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài 48: Tỉ số phần trăm (tiết 2) – Lớp 5
Giáo viên tổ chức cho học sinh tự giải 2 bài ở phần hoạt động thực hành; Cá nhân
học sinh tự nhận dạng, áp dụng các bước giải để giải quyết 2 bài toán, giáo viên
theo dõi xem học sinh vướng mắc ở bước nào để hỗ trợ. (Hỏi học sinh bài toán đó
thuộc dạng toán gì? Nêu các bước giải của dạng toán đó, .....)
Trường hợp nếu học sinh hoàn thành tốt 2 bài tập theo yêu cầu thì giáo viên
viên tiếp tục ra các bài tập với mức độ khó dần lên.
Bước 5. Ứng dụng.
Giáo viên cho học sinh thực hành, vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức
cơ bản của nội dung bài đã học. Giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của các tri
thức toán học, từ đó khắc sâu kiến thức đã học.
Ví dụ: Khi dạy bài 76. Chu vi hình tam giác. Chu vi hình tứ giác. (Lớp 2)
Ở phần hoạt động ứng dụng, ngoài các nội dung đã gợi ý trong sách hướng
dẫn học: Đo độ dài các cạnh của bìa vở học toán bằng thước có vạch xăng-ti-mét rồi
tính chu vi của bìa quyển vở đó, giáo viên có thể giao việc cho học sinh về nhà đo độ dài
các cạnh của một đồ vật (bìa lịch, mặt ghế,….) là hình tam giác, hình tứ giác bằng thước
có vạch xăng-ti-mét, đề-xi-mét rồi tính chu vi của hình đó.
Khuyến khích học sinh diến đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính các em.

Động viên học sinh tập phát biểu, tập diễn đạt, bước đầu có lí lẽ, lập luận lôgic.
2.2.5. Chỉ đạo đổi mới đánh giá, nhận xét kết quả học tập của học sinh:
Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải được xem như là một
bộ phận không chỉ của cả quá trình dạy học mà là một bộ phận của mỗi hoạt động
học tập. Kiểm tra đánh giá phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ngay trong
quá trình thực hiện mỗi hoạt động học tập để kịp thời khuyến khích, động viên và
nhất là giúp các em điều chỉnh những sai sót để hoạt động học tập có hiệu quả. Để
đánh giá học sinh, giáo viên cần kết hợp hai hình thức : đánh giá thường xuyên và
đánh giá định kì. Việc đánh giá hoạt động chủ yếu do học sinh thực hiện, học sinh
tự đánh giá. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá trong cặp, trong nhóm bằng
cách đổi bài cho nhau để cùng rà soát xem kết quả nào đúng và đủ, kết quả nào
chưa đúng và còn thiếu. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá chéo giữa các
14


nhóm. Có những hoạt động học sinh cùng giáo viên đánh giá theo những tiêu chí
giáo viên đã nêu, hoặc là phụ huynh cùng học sinh đánh giá kết quả ứng dụng....
Giáo viên luôn tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau trong học tập, để
từ đó các em thấy được những việc làm đúng và việc làm sai, những điều mình cần
phải học tập bạn để phát huy và khắc phục. Không nên chê các em trước các bạn
khi các em mắc phải những khuyết điểm như tính toán sai, áp dụng công thức vận
dụng giải toán chưa tốt…Khi nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh giáo viên cần
vận dụng một cách linh hoạt có thể bằng “lời nói”, “viết” hoặc bằng kí hiệu. Giáo
viên phải dựa vào mục tiêu, yêu cầu của đề bài đối chiếu sản phẩm đã đạt được của
học sinh với yêu cầu của hoạt động, với chuẩn kiến thức, kĩ năng; xem xét đặc đặc
điểm, tâm sinh lí… của học sinh để nhận xét xác đáng, kịp thời, sao cho khích lệ
được học sinh, làm cho các em hứng thú học tập, đồng thời tư vấn, hướng dẫn, giúp
các em biết được hạn chế và biết tự khắc phục.
Thời gian HS ở nhà nhiều hơn ở trường, các thành viên khác trong gia đình có
mối quan hệ gắn bó, tình cảm, am hiểu lẫn nhau nên cần phải khuyến khích cha mẹ

tham gia nhận xét, hướng dẫn, giúp đỡ con em mình, để bổ sung hoặc theo sát sự
tiến bộ, hoặc chậm tiến của con em họ. Phụ huynh sẽ xem nhận xét của GV trong
vở để biết con mình học hành ra sao, từ đó có biện pháp phối hợp với GV dạy bảo
cho con mình. Kết hợp giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội là một trong những
phương châm giáo dục cơ bản.
2.2.6. Chỉ đạo đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn trong dạy học môn Toán theo tiếp
cận nghiên cứu bài học.
Hiểu được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sinh hoạt
chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, quán triệt các tổ chuyên môn, giáo viên
cần tìm hiểu kỹ, bám sát nội dung chuyên đề “Đổi mới sinh hoạt chuyên môn dựa
trên nghiên cứu bài học” để thực hiện các tiết dạy thao giảng tổ, thao giảng trường
theo hình thức nghiên cứu bài học.
Chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học không đặt nặng việc
quan tâm nhận xét, đánh giá hoạt động dạy của giáo viên như trước đây mà khuyến
khích người dự giờ hướng đến đối tượng học sinh để làm sao giúp đỡ mọi em học
sinh đều có cơ hội được học tốt hơn, có được một bài học hoàn chỉnh, chất lượng,
gây được hứng thú và niềm say mê học tập,… Trong mỗi tiết học, các giáo viên cần
tập trung chú ý và phân tích các vấn đề liên quan đến người học, phải xem thử học
sinh học như thế nào, đang gặp khó khăn gì, giờ học có ý nghĩa với các em không?
Nội dung và phương pháp giảng dạy của giáo viên có phù hợp và gây hứng thú cho

15


học sinh không? Kết quả cuối cùng có được cải thiện hay không? Nếu cần điều
chỉnh thì điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào cho phù hợp nhất?
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học phải là một quá trình với
nhiều khâu, nhiều bước chứ không còn đơn thuần chỉ là một buổi các thành viên
trong tổ đến để bàn bạc về một bài học hay một đơn vị kiến thức cụ thể trong một
tiết dạy nào đó trong chương trình.

Nhà trường đã tổ chức sinh hoạt chuyên môn thường xuyên và sinh hoạt
chuyên môn theo chuyên đề, bao gồm các vấn đề gồm: Nội dung phương pháp dạy
học, đánh giá kết quả học tập và giáo dục của học sinh; chia sẻ những kinh nghiệm
hay của các giáo viên, tổ chuyên môn, các trường tiểu học.
Các bước sinh hoạt chuyên môn ở trường tôi được tổ chức thông qua quy
trình 4 bước như sau:
Bước 1. Xây dựng kế hoạch và chuẩn bị.
Bước 2. Tổ chức triển khai các nội dung cụ thể.
Bước 3. Thảo luận chung
Bước 4. Áp dụng vào thực tiễn dạy học.
Ví dụ 1. Sinh hoạt chuyên môn về nội dung và phương pháp dạy học môn toán
theo tiếp cận nghiên cứu bài học – Bài 62: Phân số ( lớp 4)
Bước 1. Xây dựng kế hoạch và chuẩn bị bài dạy.
Giáo viên minh họa chuẩn bị bài dạy, trao đổi về kế hoạch bài học sẽ dạy với
đồng nghiệp cùng tổ, cùng trường. Cần tập trung vào nội dung cụ thể mà gáio viên
gặp khó khăn vướng mắc cần được chia sẻ , hỗ trợ trong hoạt động dạy học.
Bước 2. Tổ chức dạy học minh họa, dự giờ và suy ngẫm
Khi dự giờ, người dự giờ phải chuyển đổi từ đối tượng quan sát từ giáo viên
sang học sinh, quan sát việc là và sản phẩm học tập của học sinh. Người dự giờ cần
trả lớp các câu hỏi:
+ Có nắm được các yêu cầu của các hoạt động học tập không?
+ Học sinh có thực sự tự học, có tích cực thực hiện các hoạt động học
không?
+ Nhóm trưởng điều hành hoạt động nhóm như thế nào? Các thành viên
trong nhóm tích cực, hợp tác khi học theo nhóm không?
+ Sản phẩm của từng nhóm, từng học sinh như thế nào?
16


+ Giáo viên có điều chỉnh nội dung dạy học không? Nếu có điều chỉnh thì

điều chỉnh như thế nào?
+ Giáo viên giám sát, hỗ trợ hoạt động học tập của từng nhóm , từng học
sinh như thế nào?
+ Hội đồng tự quản và các công cụ của lớp học (góc học tập, góc thư viện,
góc cộng đồng…) được phát huy thế nào trong tiết học.
Bước 3. Thảo luận chung
Các giáo viên cùng thảo luận, chia sẻ suy ngẫm của mình về bài học. Vệc
thảo luận không tập trung đánh giá giáo viên; không xếp giờ dạy mà chủ yếu nhằm
phân tích các tình huống quan sát được từ hoạt động và kết quả học tập của học
sinh trong giờ học. Nhấn mạnh những thành công, chỉ ra nguyên nhân chưa đạt
được kết quả trong bài học và tìm giải pháp phù hợp để ngâng cao chất lượng bài
học.
Người chủ trì tổng kết ccá vấn đề nổi bật qua thảo luận và gợi ý các vấn đề
cần suy ngẫm về đánh giá học sinh nhằm giúp những người tham dự có thể tự suy
nghĩ và lựa chọn biện pháp áp dụng cho việc đánh giá học sinh ở lớp mình.
Bước 4. Áp dụng vào thực tiễn dạy học.
Ví dụ 2: Sinh hoạt chuyên môn về chuyên đề: Đánh giá thường xuyên theo Chuẩn
kiến thức, kĩ năng môn Toán theo tiếp cận nghiên cứu bài học – Bài 48: Tỷ số phần
trăm ( lớp 5)
Bước1. Xây dựng kế hoạch và chuẩn bị
Việc chuẩn bị bài dạy củ a giáo viên cần tập trung vào các nội dung sau:
+ Cách giáo viên thường xuyên quan sát, theo dõi, hỗ trợ, đánh giá các kết
quả các hoạt động học tập của từng học sinh và từng nhóm học sinh.
+ Các kĩ thuật đánh giá trên lớp như: quan sát, kiểm tra nhanh, phỏng vấn,
xem xét sản phẩm; cách hướng dẫn học sinh tự đánh giá lẫn nhau.
+ Cách viết nhật kí đánh giá về mỗi học sinh của giáo viên và hướng dẫn học
sinh ghi nhật kí tự đánh giá….
Đối với nội dung cụ thể về đánh giá thường xuyên, tôi tổ chức sinh hoạt
chuyên môn thông qua hoạt động dự giờ. GV thể hiện tiết dạy và tổ chuyên môn tổ
chức thảo luận về dự kiến các hoạt động đánh giá thường xuyên trong tiến trình dạy

học theo kế hoạch theo kế hoạch đề ra.
Bước 2. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn về đánh giá học sinh
17


- Tổ chức dạy minh họa và dự giờ. Việc dự giờ tôi phải hướng cho giáo viên
tập trung vào nội dung đánh giá thường xuyên theo tiến trình bài học và hoạt động
giáo dục của giáo viên và học sinh nhằm trả lời các câu hỏi:
+ Giám sát, hõ trợ, đánh giá hoạt động của từng nhóm /từng học sinh như thế
nào?
+ Giáo viên đã động viên, khích lệ học sinh hoặc hướng dẫn, hỗ trợ học sinh
vượt qua khó khăn trong học tập như thế nào?
+ Kĩ thuật nào đánh giá trên lớp được giáo viên sử dụng?
+ Học sinh có biết cách đánh giá và đánh giá bạn hay không?
+ Kết quả đánh giá cccủa giáo viên và kết quả học sinh tự đánh giá và đánh
giá bạn như thế nào?
+ Ghi nhật kí đánh giá sau giờ dạy hư thế nào?
+ Nên điều chỉnh điều chỉnh hoạt động dạy học như thế nào sau giờ dạy?
- Tổ chức trao đổi các nội dung khác về đánh giá học sinh như: cách ra đề kiểm tra
định kì, cách đánh giá và cho điểm và nhận xét của giáo viên, hồ sơ đánh giá từng
với học sinh của giáo viên.
Bước 3. Thảo luận chung
- Các nội dung đánh giá như: tốc độ học bài, hoàn thành nhiệm vụ học tập;
kiến thức; kĩ năng cần thiết, phù hợp với yêu cầu bài học; khả năng vận dụng các
kiến thức đã học vào việc thực hiện nhiệm vụ học tập, cũng như khả năng vận dụng
trong thực tế hàng ngày của học sinh.
- Sau dự giờ, cần tổ chức cho giáo viên tập trung thảo luận về đánh giá
thường xuyên học sinh trong giờ học, các kĩ thuật đánh giá trên lớp. Trên cơ sở đó
làm rõ những điều đã học tập được, chia sẻ những băn khoăn, những đề xuất nhằm
giúp học sinh tốt hơn thông qua đánh giá.

- Đối với các nội dung khác về đánh giá như: đánh giá định kì, khen thưởng,
tổng hợp đánh giá thì căn cứ vào thực tế của lớp để các giáo viên khác cùng trao
đổi, chia sẻ những kinh nghiệm hay, những khó khăn vướng mắc và cùng tìm ra
giải pháp tháo gỡ khó khăn.
- Cuối buổi thảo luận, người chủ trì có thể tổng kết lại các vấn đề nổi bật qua
thảo luận và gợi ý các vấn đề cần suy ngẫm về đánh giá học sinh nhằm giúp những
người tham dự có thể tự suy nghĩ và lựa chọn biện pháp áp dụng cho việc đánh giá
học sinh ở lớp mình.
Bước 4. Áp dụng vào đánh giá học sinh.
18


Dựa trên kết quả thảo luận và những điều đã quan sát, học tập được qua dự
giờ, hoặc nghiên cứu cách đánh giá bài định kì các giáo viên , các tổ chuyên môn
đổi mới cách đánh giá học sinh vào thực tiễn dạy học ở lớp mình.
2.3. Kết quả đạt được:
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập môn Toán
của trường tôi tiến bộ vượt bậc như:
Qua các giờ học trên lớp, giáo viên đã chú ý đúng mức tới việc làm thế
nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức. Khi dạy, vai trò trung
tâm của người học trong việc lĩnh hội và tiếp thu tri thức được đặt lên hành đầu.
giáo viên nhiệt tình trong công tác giảng dạy cũng như đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh một cách triệt để. Tổ
chức các hình thức dạy và học chưa phong phú và phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Do vậy, qua các tiết học toán, đã kích thích sự tò mò, hứng thú về chủ đề sẽ
học; học sinh cảm thấy vấn đề toán học trong các tiết học gần gũi với các em.
Không khí lớp học trở nên vui nhộn, gợi trí tò mò, chờ đợi, thích thú.
Học sinh rút ra được kiến thức, khái niệm hay quy tắc lý thuyết thực hành
mới, nhận biết được dấu hiệu hay đặc điểm của dạng toán mới; nêu được các bước
giải của dạng toán.

Học sinh nhớ được các dạng toán cơ bản và vững chắc; làm được các bài tập
cơ bản theo đúng quy trình. Các em biết chú ý và tránh được các sai lầm điển hình
thường mắc phải trong quá trình giải các bài toán cơ bản, biết vận dụng kiến thức
đã học trong hoàn cảnh mới , đặc biệt trong những tình huống gắn với thực tế đời
sống hằng ngày trong gia đình và cộng đồng. Từ đó các em tự tin khi lĩnh hội và
vận dụng kiến thức mới
Qua học tập, các em đã có tinh thần hợp tác cao, nhiều em tự tin, chủ động
trong các hoạt động học tập , các em có kĩ năng tự tìm tòi, phát hiện kiến thức mới
và trình bày kết quả trước lớp.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng sáng kiến:
Dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” là một trong những phương pháp dạy
học tiên tiến bậc nhất hiện nay. Qua gần 3 năm vận dụng các giải pháp đổi mới
phương pháp dạy học "lấy học sinh làm trung tâm" theo mô hình trường học kiểu
mới, bản thân tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học
trong môn Toán học nói riêng nói và các môn học khác nói chung là rất cần thiết.
Qua quá trình thực hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh
19


hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ
động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học
sinh. Học sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực
tự học, năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt các kỹ năng sống như kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng ứng xử...Tạo được một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải
mái. Chất lượng học tập môn Toán ngày càng cao.
Đề tài được áp dụng trong phạm vi trường tôi phụ trách, song kết quả đã đạt
được khá khả quan. Tôi tin tưởng rằng với kinh nghiệm nhỏ bé của mình sẽ góp
phần vào việc nâng cao hiệu quả trong việc dạy học Toán ở trường tôi nói riêng và
ở trường tiểu học nói chung.

Trên đây là kinh nghiệm của tôi về " Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm trong môn Toán học ở trường tiểu học".
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Các cơ quan quản lí giáo dục cấp trên nên chỉ đạo các cụm vùng tổ chức
chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm " Đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh
làm trung tâm trong môn Toán học ở trường tiểu học".
Chắc chắn rằng các giải pháp tôi đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc
kết từ kinh nghiệm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học của cá nhân. Tôi rất
mong được sự đóng góp ý kiến của cấp trên, của bạn bè và đồng nghiệp để những
kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

20


Môc lôc
TT

Nội dung

Trang

1

1. PHẦN MỞ ĐẦU

2

2


1.1. Lí do chọn sáng kiến.

2

3

1.2. Phạm vi áp dụng của sáng kiến.

3

4

1.3. Điểm mới của sáng kiến.

3

5

2. PHẦN NỘI DUNG

3

6

2.1. Thực trạng.

3

2.2. Một số giải pháp thực hiện "Dạy học lấy học sinh làm
7


trung tâm trong môn Toán học" nhằm nâng cao chất lượng dạy

6

học.
8

2.2.1.Triển khai thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.

6

9

2.2.2. Chỉ đạo đổi mới về cách học của học sinh.

7

10

11

12

`13

2.2.3. Chỉ đạo tổ chức dạy học nhóm theo mô hình trường học
mới (VNEN).
2.2.4. Chỉ đạo vận dụng tốt 5 bước tổ chức hoạt động dạy học
môn Toán theo mô hình VNEN.

2.2.5. Chỉ đạo đổi mới đánh giá, nhận xét kết quả học tập của
học sinh.
2.2.6. Chỉ đạo đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn trong dạy học
môn Toán theo tiếp cận nghiên cứu bài học.

8

9

14

15

14

2.3. Kết quả đạt được.

19

15

3. PHẦN KẾT LUẬN

19

16

3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của sáng kiến.

19


17

3.2. Kiến nghị đề xuất.

20
21


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM
TRONG MÔN TOÁN HỌC Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC”

Họ và tên: Trần Thị Lệ Bình
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường TH số 1 Kiến Giang

Quảng Bình, tháng 5 năm 2015
22


23




×