Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 5 tuổi tại trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.28 KB, 18 trang )

1. Phần mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài.
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói: “Trẻ em như búp trên cành.
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”.
Trẻ em là nguồn hạnh phúc, niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ nhân
tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam. Việc chăm sóc
giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục,
nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Trong những
năm gần đây, giáo dục luôn không ngừng đổi mới về hình thức, nội dung và
phương pháp tổ chức dạy học cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là nội dung được rất
nhiều người quan tâm. Đặc biệt giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nội
dung và nhiệm vụ quan trọng của cấp học mầm non. Để đạt được điều đó thì việc
chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã
hội. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì
rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con cái, chính vì
vậy trẻ hay thu mình và rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điều này làm
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn
diện của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá
thế giới tâm hồn mình một cách có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân,
nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực
trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực: Thể trạng, tâm hồn, trí


tuệ, tinh thần, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới
xung quanh.
Dạy kĩ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc
sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. Giáo dục kĩ năng sống còn
giúp cho trẻ biết kiểm soát cảm xúc, biết thể hiện tình yêu thương, sự chia sẽ, đồng
cảm với những người xung quanh giúp trẻ mạnh dạn tự tin, tự trọng và tôn trọng
người khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự hòa nhã


và cởi mở. Giáo dục kĩ năng sống giúp cho trẻ hiểu biết, sáng tạo, thay đổi hành vi,
có những kĩ năng thích ứng với hoạt động của lớp. Chính vì vậy, giáo dục kĩ năng
sống là một trong những nội dung giáo dục quan trọng cho trẻ mẫu giáo.
Năm học 2018-2019 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp Mẫu giáo
nhỡ.Trên thực tế nơi tôi đang giảng dạy, phần lớn phụ huynh là lạo động chân tay
và làm nghề tự do, một số khác thì công nhân, một số phụ huynh chưa chú ý, chưa
hiểu biết và chưa quan tâm đến việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Ở trường, giáo viên
chủ yếu đi sâu truyền thụ những kiến thức cho trẻ qua các giờ học, ít chú trọng đến
việc rèn các kỹ năng sống cho trẻ, nên hầu hết trẻ chưa có vốn kiến thức về kỹ
năng sống. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài “ Một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường mầm non”.
1.2. Điểm mới của đề tài :
Đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4– 5tuổi” là đề tài
mới lần đầu tiên tôi nghiên cứu để tìm ra những giải pháp thiết thực và có hiệu quả
để giúp trẻ được giáo dục kỹ năng sống. Trong quá trình thực hiện ngoài những
mặt mạnh vẫn còn bộc lộ một số hạn chế và bất cập trong việc giáo dục kỹ năng


sống cho trẻ 4– 5tuổi. Chính vì vậy cần tiếp tục đi sâu vào việc nghiên cứu các giải
pháp mới có tính hệ thống để giúp trẻ học tốt giáo dục kỹ năng sống.
Trong đó tập trung vào các nội dung:
- Giáo dục kỹ năng sốngthông qua các tiết học.
- Giáo dục kỹ năng sốngthông qua hoạt động vui chơi.
- Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi
- Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ.
- Công tác phối kết hợp với phụ huynh.
- Cô giáo là tấm gương sáng.
Đây là những vấn đề trọng tâm mà bản thân tôi muốn tiếp tục đi sâu nghiên
cứu.
1.3. Phạm vi áp dụng sáng kiến:

Đề tài “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tại trường
mầm non” được thực hiện trong năm học 2018-2019. Đề tài được áp dụng với lớp
mẫu giáo 4-5 tuổi nói riêng và có thể áp dụng rộng rãi trong trường mầm non nói
chung.
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng:
Năm học 2018-2019, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo nhỡ
với tổng số là 33 cháu. Hầu hết các cháu chưa biết kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự
bảo vệ, kỹ năng hợp tác.... . Đầu năm mới đến lớp trẻ có thói quen chờ người khác
làm thay, không chủ động trong các hoạt động ăn, ngủ, học tập, thiếu hợp tác với
bạn bè.... Mặt khác, trường đóng trên địa bàn thuận lợi, gia đình các cháu có kinh


tế khá giả nên một số gia đình nuông chiều con cái quá mức, trẻ muốn gì được nấy.
Bên cạnh đó, một số trẻ lại không đón nhận được sự quan tâm chu đáo từ gia đình,
một số trẻ sống trong môi trường gia đình thiếu lành mạnh. Tất cả những yếu tố đó
ảnh hưởng đến thói quen kỹ năng sống đối với trẻ.
Trăn trở với những thực trạng trên của cháu lớp tôi, là giáo viên trực tiếp
đứng lớp, tôi luôn suy nghĩ, bằng phương pháp gì để giúp các cháu có những kỹ
năng sống phù hợp với lứa tuổi, chuẩn mực của xã hội. Với thực tế công tác chăm
sóc giáo dục, bản thân tôi mạnh dạn thực hiện một số biện pháp nhằm giúp trẻ có
những hành vi văn minh trong cuộc sống hằng ngày. Khi bước vào thực hiện đề tài
này, bản thân thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của ban giám hiệu luôn chỉ đạo sâu sát với công tác
chuyên môn. Luôn đầu tư và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
Nhà trường tạo mọi điều kiện mua sắm trang thiết bị tương đối đầy đủ phục
vụ tốt các hoạt động của cô và trẻ.
Đa số phụ huynh quan tâm, đồng tình hưởng ứng về phương pháp giáo dục
của nhà trường.

* Khó khăn:
- Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi, các
trò chơi điện tử.
- Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm,
không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.


- Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ.
Nhiều trẻ mới đi lớp chưa có nề nếp, kỹ năng hợp tác. Việc tổ chức các hoạt
động tập thể, trò chơi nhằm hình thành rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ còn khó
khăn.
2.2. Các biện pháp thực hiện:
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non không có giờ dạy đạo đức riêng mà
thông qua sử dụng hình thức tích hợp với nội dung bài dạy của các lĩnh vực để
hướng trẻ tới cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo.
Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non có nhiều nội dung, các nội dung
giáo dục cũng hết sức đơn giản, gần gũi, thiết thực với trẻ. Tuy vậy, với đặc điểm
của lớp mình phụ trách, tôi chỉ đưa ra một số biện pháp giáo dục sau.
* Biện pháp 1: Giáo dục kỹ năng sống thông qua giờ học:
Giáo dục kĩ năng sống là một trong những nội dung giáo dục lồng ghép.
Chính vì thế khi xây dựng một giáo án cho một hoạt động học tôi thường đưa nội
dung giáo dục kĩ năng cho trẻ vào trong hoạt động sao cho phù hợp chủ đề, phù
hợp với nội dung của bài dạy để giáo dục trẻ.
Ví dụ: Khi dạy trẻ khám phá về bản thân, tôi dạy cho trẻ cách giới thiệu tên,
tuổi, giới tính, sỡ thích của trẻ, đó là kỷ năng giao tiếp dạy trẻ phải có. Hoặc khi
dạy trẻ về chủ đề trường mầm non “Trường lớp của bé”, cô dạy cho trẻ biết được
tên bạn, tên cô giáo, cô hiệu trưởng, hiệu phó…
Qua đó giúp trẻ phát triển kĩ năng nhận biết một cách tích cực. Kĩ năng này
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin hơn ở mọi nơi.



Ví dụ: Dạy trẻ bài thơ “Tâm sự của cái mũi”, khi kết thúc, giáo dục trẻ biết
giữ gìn và vệ sinh mũi kết hợp cho trẻ xem cách vệ sinh mũi và cho trẻ thực hiện
thao tác cùng cô.
Khi dạy chuyện cho trẻ, tôi thường lựa chọn những câu chuyện mang tính
giáo dục cao, nhất là giáo dục các kĩ năng thiết thực đối với trẻ. Kĩ năng tự bảo vệ
cũng là một trong những kĩ năng quan trọng mà cô giáo cần đưa vào để trang bị
cho trẻ, giúp trẻ biết tự bảo vệ mình, biết được những việc nên và không nên làm,
biết những nơi an toàn, nơi nguy hiểm.
Ví dụ: Dạy trẻ câu chuyện “Chuyện của tay phải và tay trái”. Thông qua câu
chuyện giúp cho trẻ biết chăm sóc, bảo vệ, giữ vệ sinh sạch sẽ các bộ phận trên cơ
thể và phải đoàn kết giúp đỡ nhau trong mọi việc.
Trong các giờ học, tôi thường đưa ra các câu hỏi mở để phát triển tư duy của
trẻ, giúp cho trẻ có kĩ năng phán đoán, khơi gợi để trẻ nói lên được ý kiến của
mình. Luôn tạo dựng cho trẻ lòng tự tin bằng cách khuyến khích, động viên khích
lệ trẻ thể hiện khả năng của mình, không chê trẻ, áp đặt trẻ vào một khuôn khổ
nhất định.
Ví dụ: Có thể đưa ra các câu hỏi: + Con có nhận xét gì về bức tranh?
+ Con thích vẽ gì? Con sẽ vẽ như thế nào?
+ Con sẽ làm gì để tỏ lòng yêu thương mẹ?
Khi trẻ trả lời được các câu hỏi đó của cô thì kĩ năng trao đổi, diễn đạt của
trẻ cũng được phát triển, nhờ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được nâng cao hơn.


Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc
với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác
sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Ví dụ: Khi trẻ chơi trò chơi “Chuyền bóng qua đầu, qua chân” trong tiết học
thể dục, trò chơi này đòi hỏi sự cộng tác của tất cả trẻ trong tổ, muốn tổ mình

chuyền quả bóng đi nhanh thì tất cả trẻ trong tổ phải nhanh tay, nếu không sẽ bị
thua tổ bạn.
Hoặc trong giờ học thơ, cô cho trẻ thi đua giữa các tổ, nhóm đọc thơ xem ai
đọc thuộc, đọc rỏ ràng thì trẻ trong tổ, nhóm phải cố gắng đọc to, rỏ ràng để hơn tổ
bạn.
Những khi trẻ được chơi, được thi đua theo nhóm thì đòi hỏi sự hợp tác cao.
Qua đó luyện cho trẻ có kĩ năng sống hợp tác.
Thông qua giờ học còn giúp trẻ có kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả
năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào
giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý
tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho
thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ
thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
Ví dụ: Giờ học âm nhạc “Làm quen đàn Ócgan” tôi cho trẻ khám phá, trải
nghiệm bằng cách tập cách đánh đàn, biết đặt các ngón tay lên phím đàn…khi đàn
phát ra âm thanh trẻ rất hứng thú, ai cũng muốn được tự mình thử nghiệm, nhờ đó
tiết học rất tích cực, hiệu quả.


* Biện pháp 2: Giáo dục trẻ kĩ năng sống cho trẻ thông qua trò chơi
đóng vai theo chủ đề
Trong hoạt động vui chơi trẻ mẫu giáo có thể tham gia nhiều loại trò
chơi nhưng trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi đóng kịch, các trò chơi có
luật… Mỗi loại trò chơi đều có tác dụng phát triển một mặt nhất định của trẻ.
Nhưng trung tâm của hoạt động vui chơi đối với trẻ đóng vai theo chủ đề là loại trò
chơi chủ yếu tạo ra nét đặc trưng trong trò chơi, trong đời sống tâm lý của trẻ mẫu
giáo. Tại sao trẻ mẫu giáo thích chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề, bởi qua chơi trẻ
với cuộc sống của người lớn, trẻ muốn tự mình làm mọi việc như người lớn, với
khả năng của mình. Chính vì thế, thông qua trò chơi này cô có thể dạy cho trẻ
được nhiều kĩ năng như: Kĩ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng mô phỏng…

Ví dụ: Trò chơi đóng vai – y tá, Bác sĩ: Trẻ biết tái tạo công việc của bác sĩ.
Bác sĩ biết thăm hỏi bệnh nhân ân cần, “Cháu đau chổ nào? Cháu có mệt không”.
Bệnh nhân nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá.
Ví dụ: Qua góc chơi phân vai với trò chơi nấu ăn- gia đình:
Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn,
bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp,
ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội
vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ
chịu… trẻ được làm quen với các thao tác sơ chế, chế biến thực phẩm, thao tác xào
nấu, qua đó trẻ biết được tên các món ăn, tên các thực phẩm tạo nên món ăn đó.
Tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ
và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.


Ví dụ: Khi trẻ chơi đóng vai mẹ con, trẻ được đóng vai me, vai con và tái
diễn lại cuộc sống hằng ngày của trẻ, trẻ biết cách xưng hô đúng với vai mà trẻ
đóng, biết mô phỏng công việc của người mẹ như thế nào, người mẹ thể hiện tình
cảm, lời nói như thế nào với con…để trẻ có được những kĩ năng đó, đòi hỏi giáo
viên phải hướng lái, gợi ý cho trẻ và để trẻ chơi một cách tự nhiên nhất.
Ví dụ: Trò chơi “ bán hàng”, trẻ phải biết giao tiếp, trao đổi với nhau, khi
mua hàng thì phải biết hỏi giá cả, biết trả tiền khi nhận hàng, người bán hàng phải
biết mời chào khách, biết giá cả mặt hàng mà mình đang bán, biết cảm ơn khi
khách hàng đến mua…
Qua các góc chơi như: góc chơi xây dựng, góc phân vai, góc chơi vận động,
góc nghệ thuật ….Cô giáo luôn là người bạn chơi cùng trẻ để hướng dẫn trẻ giao
lưu với nhau trong từng góc, từng nhóm. Cô giáo gợi ý, hướng dẫn trẻ cách chơi,
cách xưng hô khi chơi. Cô chơi với trẻ như người bạn thật sự của trẻ để cho trẻ
học cách ứng xử với nhau khi chơi, biết đối đáp với nhau trong quá trình chơi. Với
sự hứng thú, say mê của trẻ, giáo viên có thể giáo dục trẻ có được những kĩ năng
sống một cách dễ dàng mà không làm cho trẻ cảm thấy áp đặt, nhàm chán. Thông

qua giờ chơi là cách thức để giáo viên đưa vào giáo dục trẻ một cách hiệu quả
nhất.
* Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác.
*Trong các hoạt động hằng ngày ở trường, trẻ dễ được tiếp cận những gì mà
cô giáo, người lớn, bạn bè đã làm.
* Hoạt động đón trẻ: Trong giờ đón trẻ, tôi rất ân cần và chuẩn mực trong
xưng hô với bố mẹ trẻ. Tôi tập cho trẻ khi đến lớp chào cô như thế nào, sau đó


chào bố mẹ và người thân để vào lớp học. Khi trẻ được hỏi, trẻ cảm nhận được sự
quan tâm, chia sẽ, từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn và dễ dàng làm quen với môi trường
mới.
*Giờ hoạt động ngoài trời, dạo chơi tham quan: Tôi luôn nhắc nhở trẻ khi ra
sân trường chơi phải đi theo hàng, bạn nọ nối đuôi theo bạn kia, không đẩy bạn để
bạn ngã…..Nếu trẻ làm gì sai với bạn, với cô thì phải biết xin lỗi cô, xin lỗi bạn.
Khi đi chơi gặp các bác, các cô làm việc trong trường phải biết chào hỏi lễ phép.
Ai cho gì phải biết nhận bằng hai tay và cảm ơn, biết giữ vệ sinh môi trường, thân
thể sạch sẽ.
Trong các giờ hoạt động ngoài trời, tôi thường tổ chức các hoạt động nhặt lá
trên sân. Cô có thể đặt các câu hỏi:
+Vì sao phải nhặt rác bỏ vào thùng?
+Các con có nên vứt rác ở trên sân không? Cô giải thích cho trẻ hiểu việc
nhặt rác bỏ vào thùng là giữ cho môi trường luôn sạch đẹp. Thông qua đó giáo dục
trẻ biết nhặt rác bỏ vào nơi quy định, không vứt rác bừa bãi đồng thời tạo thói
quen cho trẻ khi thấy rác phải tự ý thức nhặt và bỏ vào thùng rác mà không cần ai
nhắc nhở.
* Giờ ăn: Trong giờ ăn, tôi hướng dẫn cho trẻ từ cách cầm thìa xúc cơm, ăn
không nhồm nhoàm, nhai kĩ, biết mời cô, mời bạn khi ăn, khi được cô lấy cơm
phải biết cảm ơn cô. Bên cạnh đó còn giúp cho trẻ thích nghi với những thức ăn
mới, khen ngợi, động viên trẻ để trẻ ăn hết suất của mình.

Ngoài ra dạy trẻ có một số kĩ năng văn hóa trong ăn uống và lao động tự
phục vụ bản thân, rèn tính tự lập, biết cách sữ dụng những đồ dùng vật dụng trong


ăn uống, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ, ngậm miệng khi nhai
thức ăn, biết mời trước ki ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự chọn, cất đúng nơi bát
chén, thìa …hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp ngồi ngay ngắn, ăn hết xuất không
làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
* Giờ ngủ: Cô luôn nhẹ nhàng động viên, vỗ về khi trẻ khó ngủ, cô có thể
hát những bài dân ca cho trẻ nghe giúp cho trẻ có một giấc ngủ say. Cô thường
xuyên nhắc nhở trẻ đi tiểu tiện trước khi đi ngủ. Cho trẻ biết được giờ ngủ phải
nằm ngay ngắn, mắt nhắm, không nói chuyện riêng, giữ trật tự để không làm ảnh
hưởng đến những người xung quanh.
* Giờ vệ sinh: Dạy trẻ nề nếp đi vệ sinh đúng giờ, đi đúng chổ, biết dội
nước sau khi đi vệ sinh. Khi trẻ đi vệ sinh, cô chú ý bao quát để hướng dẫn, nhắc
nhở trẻ thực hiện đúng qui định.
Ví dụ: Dạy trẻ cách dội nước sao cho không văng ra ngoài, cách ngồi khi
đại, tiểu tiện. Biết rửa tay sau khi đi đại, tiểu tiện.
Tập cho trẻ đi vệ sinh đúng giờ: Sau giờ thể dục sáng; sau giờ hoạt động
góc; sau giờ ăn trưa; sau giờ ngủ trưa; giờ vệ sinh trả trẻ.
* Mọi lúc mọi nơi:
Giáo viên tạo nhiều cơ hội để cuốn hút trẻ vào các hoạt hoạt động đa dạng
khác nhau cùng với các bạn trong lớp tạo ra nhiều cơ hội đẻ trẻ tương tác, giao
tiếp với nhau trong lớp như thảo luận trao đổi ý tưởng, giải quyết xung đột, chia sẻ
kinh nghiệm, trãi nghiệm những vai trò khác nhau.
Trong các hoạt động hàng ngày, sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô,
với các bạn ghi chép những kĩ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, trẻ


hoạt động hoạt động tích cực được lên cắm cờ vào bình cờ của mình đó là thước

do đánh giá cuối ngày, nhận xét vào sổ bé ngoan, cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn
phát triển của trẻ. Cũng từ biện pháp này, tôi sẽ có điều kiện để đánh giá trẻ, đồng
thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ cũng vừa giúp
trẻ hình thành các kĩ năng sống.
* Biện pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ:
Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục
trẻ mầm non.
Thông qua các ngày hội, ngày lễ như: ngày 20/10, ngày 20/11, Ngày Tết
Trung Thu, ngày tết nguyên đán, ngày 8/3... Tôi tổ chức các hoạt động văn nghệ,
các trò chơi dân gian, đồng thời ôn lại truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ
lòng tự hào dân tộc, biết nhớ ơn những người đã hy sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích
trồng người. Thông qua đó trẻ có ý thức phấn đấu trong học tập để sau này trở
thành người có ích cho xã hội.
*Biện pháp 5: Công tác phối kết hợp với phụ huynh.
Bên cạnh dạy trẻ các kỹ năng ở lớp, tôi thường xuyên chú trọng đến việc
phối kết hợp với phụ huynh cùng dạy kỹ năng sống cho trẻ. Gia đình giáo dục tốt,
trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt. Ngược lại, trẻ sẽ không có gì khi không
được gia đình quan tâm giáo dục. Như vậy, xuất phát điểm của trẻ là chưa công
bằng.Giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường sẽ xóa đi rào cản đó.Vì vậy, Giáo
viên và phụ huynh đều phải tiến hành giáo dục trẻ song song với nhau. Trong buổi
họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng


của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, để phụ huynh nhận thức rõ ý nghĩa
vấn đề để cùng nhà trường giáo dục trẻ.
Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về
sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục rèn
luyện cho trẻ ở nhà.
Tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính
tự lập từ bé, những việc nên và không nên làm đối với trẻ để giúp trẻ có kỹ năng

sống tốt, trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc sống.
Ví dụ: Khi trẻ chơi xong phụ huynh cần nhắc nhở và dạy cho con biết cách
tự dọn đồ chơi sau khi chơi. Cha mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng tuyệt đối
không bao giờ được làm thay trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần
thiết. Để trẻ có được những kỹ năng, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính
xác, thuần thục khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ chỉ thường xuyên luyện tập, mà còn
đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những hành vi đúng
đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
Ví dụ: Khi đến giờ ăn phụ huynh nhắc trẻ lấy bát đũa, trước khi ăn cơm
phải mời người lớn, phải ăn uống từ tốn...
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ
trong điều kiện và tình huống tự nhiên hằng ngày quan sát trẻ có tự tin và tự nhiên
khi giao tiếp với mọi người hay không? Trẻ có thích tham gia nhóm với các bạn
hay không? Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không?....để từ
đó có biện pháp và giáo dục trẻ thêm.


Bên cạnh đó những cử chỉ và việc làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tôi
thường nêu ra và tuyên dương trẻ đó trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác
cùng học tập.
Qua thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt như mạnh dạn,
lịch sự trong giao tiếp, xưng hô lễ phép thân thiện.
* Biện pháp 6: Cô giáo là tấm gương sáng:
Ở trường cô giáo là người mẹ thứ hai đối với trẻ.Trẻ rất thích được cô yêu
thương, gần gũi. Mọi hành động cử chỉ của cô trẻ rất lưu tâm và bắt chước theo.
Vì vậy cô phải luôn luôn chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao
tiếp với phụ huynh, với trẻ hay tác phong của cô, hành động cử chỉ của cô Tôi luôn
ân cần dịu dàng thương yêu trẻ, luôn tạo mối thân thiện giữa cô và trẻ.Cô là tấm
gương cho trẻ thực hiện và noi theo.

Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời xin lổi khi làm sai, biết nói cám ơn khi
người khác cho quà...
2.3. Kết quả đạt được:
Với vai trò là người làm công tác giáo dục tôi nhận thức đúng đắn về vai
trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Sau khi áp dụng
ngững biện pháp trên vào công tác giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, tôi đã nhậ thấy được những kết quả như sau:
* Đối với trẻ:
- Trẻ ngoan, mạnh dạn, tự tin, lễ phép hơn, trẻ được hình thành những thói
quen vệ sinh văn minh, giao tiếp mạnh dạn với mọi người, biết chào hỏi khi có


khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba
mẹ.
- Trẻ có thói quen tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tập, kỹ năng nhận
thức, kỹ năng vận động thô, vận động thô thông qua các hoạt động hằng ngày,
trong cuộc sống của trẻ. Trẻ được rèn luyện về kỹ năng xã hội, kỹ năng thể hiện
cảm xúc, kỹ năng giao tiếp.
- Bản thân tôi được trau dồi kiến thức và có thêm những kinh nghiệm trong
việc giáo dục trẻ, được phụ huynh và các bạn đồng nghiệp thương yêu, quí mến
hơn.
*Kết quả đạt trên trẻ: Qua khảo sát đánh giá cuối năm. các chỉ số ở các
lĩnh vực trẻ đạt cao hơn so với đầu năm.
Nội dung
Đầu năm
Kỹ năng giao tiếp,
Số trẻ đạt: 55%
Kỹ năng tự phục vụ.
Số trẻ đạt: 45%
Kỹ năng hợp tác, hoạt Số trẻ đạt: 25,4%


Cuối năm
Số trẻ đạt: 95%
Số trẻ đạt: 90%
Số trẻ đạt: 88,9%

động theo nhóm
Kỹ năng nhận thức
Số trẻ đạt: 40%
Kỹ năng vận động
Số trẻ đạt: 50%
Kỹ năng vệ sinh
Số trẻ đạt: 58%
* Đối với giáo viên:

Số trẻ đạt:90%
Số trẻ đạt: 87 %
Số trẻ đạt: 96%

Đúc rút được nhiều kinh nghiệm cho bản thân, được phụ huynh và các
đồng nghiệp quý mến và tin yêu hơn.
* Đối với phụ huynh:
Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về phong cách, về lời ăn
tiếng nói và quan tâm đến con em mình ngày càng nhiều hơn, biết phối hợp chặt


chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng
nhiều hình thức thông qua thông tin dành cho cha mẹ.
Đa số phụ huynh hưởng ứng nhiệt tình các phong trào và ngày lễ hội của
trường. Giữa nhà trường - giáo viên - phụ huynh có sự hợp tác tích cực hơn

3. PHẦN KẾT LUẬN:
3.1. Ýnghĩa của đề tài:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi nói riêng và cho trẻ trong trường
mầm non nói chung là quà trình lâu dài, ở mọi lúc mọi nơi và rất quan trọng vì cấp
học mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục 4-5 tuổi kỹ năng sống ngay từ nhỏ giúp trẻ hiểu biết về môi
trường giáo dục và môi trường xã hội, có ý thức hành vi tốt và biết sống thân thiện,
có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.
Trẻ em như một tờ giấy trắng nếu ta viết lên đó những điều tốt thì trẻ sẻ tốt
nhưng khi chúng ta viết lên những điều xấu thì tương lai các em không tốt đẹp.
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành
công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý
linh hoạt các tình huống trong cuộc sống.
3.2. Những kiến nghị đề xuất:
Mở các lớp tập huấn, xây dựng các tiết dạy mẫu đưa nội dung giáo dục kĩ
năng vào trong hoạt động để giáo viên học hỏi lẫn nhau. Bổ sung thêm tài liệu, tập
san, tranh ảnh, đĩa về các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.


Nên tổ chức các buổi dã ngoại để trẻ mở rộng phạm vi giao tiếp với môi
trường bên ngoài góp phần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Kết quả thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường
tôi đang công tác trong năm học này có hiệu quả đáng trân trọng. Nhưng bản thân
nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục học hỏi, tìm kiếm giải pháp, đúc rút
kinh nghiệm của các đơn vị bạn để không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non tôi đang công tác nói
riêng, các trường mầm non trên địa bàn huyện Lệ Thủy nói chung.
Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của một sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bản
thân rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi ý kiến của Hội đồng khoa học các cấp

để bản sáng kiến cải tiến kỹ thuật của tôi hoàn thiện hơn, áp dụng rộng rãi hơn./.
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG


Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC



×