Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.62 KB, 19 trang )

I/ PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp:
- Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, sáng tạo, thực hành và thể hiện
được đậm nét dấu ấn cá nhân. Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc
dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học bởi vì:
- Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh ra văn
bản. Nhờ vậy, Tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần,
từng mặt qua từng phân môn mà nó trở thành một công cụ sinh động trong quá
trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần
thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là dạy
học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các
tri thức khoa học…
- Dạy học Tập làm văn lớp 5 nhằm trang bị kiến thức và rèn luyện các kĩ
năng làm văn; góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư
duy lô gích, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành
nhân cách cho học sinh. Để làm được một bài văn nói hoặc viết, người làm phải
hoàn thiện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết phải vận dụng các hiểu biết kiến thức về
Tiếng Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn
thiện và nâng cao dần.
- Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, các bài làm văn gắn với chủ
điểm của đơn vị học. Quá trình thực hiện các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan
sát, viết đoạn là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các
chủ đề đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý chia đoạn bài kể chuyện, miêu
tả, biên bản,… góp phần phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại của
học sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện
pháp so sánh nhân hoá khi miêu tả cảnh, tả người, miêu tả nhân vật, miêu tả đồ
vật; nhờ huy động vốn sống, huy động trí tưởng tượng đẻ xây dựng cốt truyện.
Khi học các tiết tập làm văn, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của
con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập
làm văn, học sinh lại có dịp hướng cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng
trong các đề bài. Khi quan sát đồ vật trong văn miêu tả, học sinh được rèn luyện


cách nhìn đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người và vật. Các bài luyện tập,
làm báo cáo thống kê, làm đơn, làm biên bản, lập chương trình hoạt động, viết
thư, trao đỏi với người thân, giới thiệu địa phương, tóm tắt tin tức,…cũng tạo cơ
hội cho học sinh thể hiện mối quan hệ với cộng đồng. Những cơ hội đó làm cho
tình yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với người và vật xung quanh của trẻ nảy
nở; tâm hồn tình cảm của trẻ thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng
góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của trẻ.
Có thể nói, bàn đến việc dạy Tiếng Việt nói chung và dạy Tập làm văn nói
riêng theo tinh thần đổi mới phương pháp, không áp đặt, không làm thay, chỉ gợi
mở để học sinh sắp xếp ý, viết câu, lập dàn bài, giáo viên thường gặp khó khăn, kết
1


quả học tập của học sinh còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, bình thường các em
nói chuyện với nhau rất dễ dàng với đủ cách nói mọi lúc mọi nơi nhưng đến giờ
tập làm văn thì các em lại tỏ ra lúng túng về chọn ý và diễn đạt thành câu văn. Rõ
ràng học sinh vẫn chưa phát huy hết khả năng và tính chủ động của mình trong học
tập, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ văn học của các em còn nhiều hạn chế.. Đây
là thực trạng rất phổ biến ở các lớp học, nhất là các lớp ở vùng khó khăn về điều
kiện sống, phương tiện, cơ sở vật chất. Vậy ngay trong nhà trường phải dạy như
thế nào để các em có thể lĩnh hội môn này một cách tốt nhất, làm sao để phát huy
khả năng của học sinh, phát huy ngôn ngữ của học sinh đó là một vấn đề mà mỗi
người giáo viên chúng ta cần phải suy nghĩ và tổ chức dạy học như thế nào để có
chất lượng. Để giúp các thầy cô giáo giảng dạy tốt hơn phân môn tập làm văn và
giúp các em học sinh lớp 5 học tập tốt hơn phân môn này, tôi xin đưa ra “ Một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập làm văn lớp5”.

I.2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp.
Nhiệm vụ của việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn lớp 5
với mục tiêu chính là bồi dưỡng lẽ sống, tâm hồn, khả năng tư duy và năng lực

ngôn ngữ, cảm thụ văn chương cho học sinh, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện đại. Góp phần phát triển bốn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
cho học sinh. Các hoạt động dạy học phân môn tập làm văn rất gần với cuộc sống
thực, do đó các kỹ năng nghe- nói- đọc- viết được vận dụng, rèn luyện và nâng
cao, các tri thức Tiếng Việt được kiểm nghiệm trong thực tiễn giúp học sinh hiểu
rõ hơn, sâu hơn. Góp phần khơi dậy, nuôi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng
Việt. Có nhiều nguyên nhân cần khắc phục trong đó có một nguyên nhân chúng
ta chưa coi trọng đó là: Dạy lý thuyết hoạt động giao tiếp với việc day tập làm
văn trong Tiếng Việt lớp 5. Trong giao tiếp, nội dung một ngôn bản sẽ được xác
định từ hai góc độ: Từ sự kết hợp các yếu tố theo đúng quy tắc ngôn ngữ, sự lý
giải ngôn bản của người tiếp nhận, xét dưới góc độ quy tắc ngôn ngữ, ngôn bản là
một hệ thống khép, nhưng xét dưới góc độ người tiếp nhận nội dung ngôn bản lại
là một hệ thống mở. Người mang thông tin cuối cùng trong hoạt động giao tiếp
phải là người nghe, người đọc chứ không phải là bản thân ngôn bản. Bởi thế, việc
xử lí mối quan hệ giữa cách thức tổ chức ngôn ngữ trong ngôn bản với các nhân
tố ngoài ngôn ngữ, mà trước hết đối với đối tượng giao tiếp là hết sức cần thiết.
Điều này đòi hỏi người tạo ngôn bản phải xác định vai của mình trong hoạt động
giao tiếp, phải có những hiểu biết về thói quen sử dụng ngôn ngữ, hoàn cảnh
sống, nhu cầu, hứng thú về đặc điểm tâm, sinh lý của đối tượng giao tiếp thì mới
tao ra được một ngôn bản tốt. Làm văn là một hoạt động giao tiếp. Vì vậy, việc
rèn luyện kĩ năng làm văn vừa cần phải đúng qui tắc ngôn ngữ, hay nói rộng hơn
là đúng với những vấn đề kí mã, vừa cần phải đúng qui tắc giao tiếp.
Để đạt được mục tiêu trên, việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng dạy TLV cho
HS lớp 5 cần đặt cho mình những nhiệm vụ sau:
- Bồi dưỡng vốn sống, bổ sung vốn từ ngữ cần dùng ở từng thể loại giúp các
em có một số vốn từ cơ bản. Bồi dưỡng cảm thụ văn học cho các em.
2


- Bồi dưỡng hứng thú học TLV và bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng làm văn cho

học sinh.
Hiệu quả của việc dạy học không chỉ phụ thuộc vào nội dung dạy học mà còn
phụ thuộc vào phương pháp dạy học. Bởi vậy người giáo viên phải có nhiệm vụ
giúp các em nối tiếp một cách tự nhiên các bài khác nhau trong môn Tiếng Việt
như tập đọc, chính tả, ngữ pháp, kể chuyên...nhằm giúp các em có năng lực nói,
viết. Nhờ năng lực này, các em biết sử dụng Tiếng Việt làm công cụ tư duy, giao
tiếp, học tập. Giúp các em bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và qua đó hình
thành nhân cách cho các em. Để cung cấp và giúp các em có những kiến thức
Tiếng Việt, người giáo viên phải có phương pháp dạy Tập làm văn cụ thể, lô gich
qua các chi tiết:
- Tăng cường tích hợp kiến thức từ các phân môn Tiếng Việt - cung cấp vốn
từ ngữ cho học sinh.
- Nâng cao năng lực cảm thụ văn học, nhất là thông qua các tiết Tập đọc.
- Tăng cường vốn hiểu biết từ thực tế cuộc sống.
- Tập cho học sinh quan sát - tìm ý.
- Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh (đoạn văn, bài văn).
Trong nội dung nêu trên có sự liên quan chặt chẽ, không được coi nhẹ nội
dung nào. Đây là một môn học khó, làm thế nào để học sinh biết làm một bài Tập
làm văn đúng thể loại, đủ ý, câu văn lưu loát, có hình ảnh, có tình cảm... không sai
lỗi, trình bày đẹp, tôi đã suy nghĩ rất nhiều năm. Vì vậy, bên cạnh đúc rút kinh
nghiệm của đồng nghiệp, bản thân tôi đã vạch ra cho mình những phương pháp
riêng khi dạy Tập làm văn lớp 5.

I.3. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Được thực hiện tại lớp 5B của Trường Tiểu học mà tôi đang công tác, trong
năm học 2014-2015.
Với nội dung chủ yếu đúc rút kinh nghiệm thực hiện các biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5.

II/ NỘI DUNG

II.1.Thực trạng của vấn đề mà đề tài, sáng kiến, giải pháp cần gải quyết.
Nhìn một cách bao quát, việc giảng dạy phân môn TLV lớp 5 hiện nay ở nhà
trường chúng tôi đã có một số chuyển biến tích cực so với khoảng ba, bốn năm
trước đây. Trước hết, các qui định, nền nếp về chuyên môn đã được các giáo viên
thực hiện nghiêm túc hơn với một không khí lao động tích cực, nhiệt tình, trách
nhiệm trong giảng dạy. Chất lượng giờ lên lớp, việc đánh giá chất lượng học sinh
đã có những tiến bộ nhất định. Đặc biệt, một bộ phận giáo viên- nhất là những
người vừa có trình độ, vừa có tâm huyết với nghề đã có ý thức tìm tòi, thể hiện
phương pháp giảng dạy mới, và ít nhiều họ đã gặt hái được những thành quả bước
đầu rất đáng trân trọng. Việc sinh hoạt chuyên môn ở các tổ khối đã đi vào nề nếp,
dần dần đã có những hiệu quả thiết thực. Phong trào thi GV dạy giỏi, đúc rút kinh
3


nghiệm được nhà trường tiến hành thường xuyên và đem lại những kết quả khá khả
quan. Cùng với yêu cầu đổi mới hiện nay, giáo viên phải tạo môi trường khuyến
khích học sinh chủ động và tích cực học tập, thể hiện năng lực từng cá nhân nhằm
khơi dậy trong học sinh tính tò mò, tự khám phá để tìm ra những kiến thức mới.
Học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học còn giáo viên có quyền lựa
chọn phương pháp cho từng bài học. khắc phục dần tình trạng giáo viên nói nhiều,
làm thay học sinh; giáo viên thể hiện ngày càng rõ hơn vai trò tổ chức, hướng dẫn
trong các hoạt động dạy học.
Trong những năm qua, nhờ chất lượng giảng dạy của GV và sự nỗ lực học
tập của HS, việc giảng dạy phân môn TLV nhìn chung cũng có một số tiến bộ đáng
mừng. Đa phần các em chăm học, số HS thích thú học TLV đã tăng ít nhiều so với
những năm học trước. Những học sinh đại trà, học sinh giỏi đã có dấu hiệu chuyển
biến phần nào so với trước. Đọc một số bài văn của các em trong các lần kiểm tra
định kì gần đây, thấy đa phần học sinh nắm được các thể loại về tập làm văn; ít có
em làm lạc đề; thể hiện rõ bố cục của một bài văn; có phần giảm được lỗi về chính
tả, lỗi diễn đạt, lỗi về cách dùng từ, ngữ pháp hơn những năm trước.

Những chuyển biến tích cực trong việc giảng dạy phân môn TLV xuất phát
từ nhiều nguyên nhân quan trọng nhất đó là:
Trước hết, phải kể đến sự tiến bộ trong giảng dạy TLV còn trực tiếp bắt
nguồn từ chương trình, SGK được biên soạn để đổi mới phương pháp giảng dạy.
Nhìn bao quát, tuy còn có những hạn chế nhất định cần phải được điều chỉnh
nhưng chương trình và SGK môn Tiếng Việt được biên soạn đã có sự tiến bộ rất xa
so với SGK trước đó. Ngoài ra, bằng tình yêu nghề, ý thức trách nhiệm đối với HS
thân yêu, nhiều Gv đã tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ để đáp ứng những yêu cầu mới của chương trình hiện nay.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, so với nhiệm vụ chung của ngành giáo dục, việc dạy và học phân môn
TLV còn nhiều hạn chế. Tôi cho rằng cần phải nhìn thẳng vào sự thật để phân tích
một cách thấu đáo điều này. Bởi lẽ, nó có ý nghĩa về nhiều phương diện, nhất là
xác định những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng dạy và học. Qua khảo sát
ở một số lớp, cho thấy không ít HS chưa thật hứng thú, thích học phân môn Tập
làm văn. Lẽ ra làm văn phải là cơ hội tốt để các em tiếp xúc được cái hay, cái đẹp
của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, để có thể lớn khôn lên về trí tuệ, đặc biệt là về
tâm hồn tư tưởng, hình thành một nhân cách cao đẹp, thì có khi nó lại bị biến thành
những giờ học nặng nề, khô khan, dẫn đến một số em nhàm chán, không thích học.
TLV là phân môn thực hành tổng hợp, nhưng không ít GV lại dạy thiên về lí
thuyết, cho học sinh chép văn mẫu. Để có được một kĩ năng, thông thường buộc
phải trải qua nhiều bước luyện tập từ thấp đến cao, lúc đầu phải làm theo mẫu, sau
đó mới có thể vận dụng sáng tạo. Nhưng trên thực tế, HS thường bỏ qua một số
bước quan trọng, phần tập và phần luyện thường bị coi nhẹ. Bên cạnh đó lại phải
học những bài, những văn bản trùng lặp một cách đáng tiếc.Việc ra đề, đánh giá
chất lượng học sinh theo tinh thần thông tư 30/TT của Bộ giáo dục & đào tạo vẫn
còn những hạn chế nhất định.
Việc ghi nhận xét chưa thật tường minh, còn ít tác dụng; quan tâm đến học
4



sinh có học lực hạn chế chưa thật đúng mức. Do áp lực phải đạt tỷ lệ cao về chất
lượng, ngay trong một số bài kiểm tra cuối kì đã xuất hiện một số “bài văn mẫu”
cho học sinh học thuộc, nên các em quá lệ thuộc, ít có những sáng tạo. Việc đổi
mới phương pháp giảng dạy tuy đã được phát động từ rất nhiều năm nay nhưng về
căn bản một số GV vẫn dạy theo phương pháp cũ. Đây là một khó khăn không nhỏ
trong quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy. Hơn nữa, số HS say mê học phân
môn TLV chưa nhiều, chất lượng học phần TLV ở một số bộ phận HS vẫn còn
nhiều hạn chế, đó là:
Nhiều em không biết bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết như thế
nào. Chính vì vậy mà trong các tiết học phân môn này các em thường rất lúng
túng, viết lan man, khôn mạch lạc, không đúng trọng tâm đề yêu cầu, ý văn nghèo
nàn, dùng từ không chính xác, sử dụng ngôn ngữ địa phương còn nhiều. Một số em
có thói quen nói như thế nào viết như thế ấy. Học sinh tuy có sự hiểu biết nhưng
các em chưa diễn đạt được ý mình muốn nói. Trong khi làm bài văn cách diễn đạt
văn phong của các em còn thiếu tự nhiên, kĩ năng diễn đạt còn yếu, ngôn ngữ chưa
trau chuốt. Bài viết chỉ mang tính liệt kê khô khan, không biết liên kết câu và lồng
cảm xúc của người viết vào. Một số em viết câu còn sai ngữ pháp, ít khi sử dụng
câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc, gợi tả, gọi cảm. Bố cục bài viết chưa cân đối giữa
các phần. Vẫn còn một số em phân biệt chưa rõ các phần của bài văn dẫn đến bài
viết khô khan, sơ sài đạt điểm thấp chẳng nói lên được điều gì, có chăng chỉ là một
vài câu nhận xét là: lạc đề, văn nghèo ý, không biết liên hết câu, bài viết lan man
không mạch lạc, chưa phong phú từ phía giáo viên mà thôi. Điều đó đã làm cho
các em ngày càng chán nản, lo sợ, mất tự tin, ngại học và cuối cùng là học yếu
môn này.
Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy cũng như qua dự giờ đồng nghiệp, bản thân
tôi nhận thấy có những khó khăn nhất định so với yêu cầu đổi mới hiện nay trong
môn Tiếng Việt. Nguyên nhân chủ yếu là:
Về phía học sinh:
Đa số các em rất ngại học phân môn Tập làm văn vì đây là môn học đòi hỏi

phải dùng ngôn ngữ viết để trình bày bài làm của mình nhưng vốn từ ngữ của các
em còn rất hạn chế.
Tập làm văn là một môn học đòi hỏi học sinh phải thực sự có năng khiếu
mới có kĩ năng viết văn nhưng thực tế học sinh rất ít em có khả năng làm được
điều đó. Bài viết của các em còn khô khan, trình tự sắp xếp còn lộn xộn, bố cục
thiếu chặt chẽ, bài văn chưa có trọng tâm.
Mặt khác, khả năng cảm thụ văn học của các em chưa cao. Chưa biết sử
dụng các biện pháp nghệ thuật vào trong bài viết của mình nên hầu hết các bài văn
đều chưa có cảm xúc và chưa lôi cuốn người đọc.
Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Phần
lớn học sinh thường dùng lời cô hướng dẫn để viết thành bài văn của mình.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học (theo chuẩn kiến thức-kỹ năng), chất
lượng môn Tập làm văn của lớp tôi phụ trách như sau:
5


- Kỹ năng về quan sát- tìm ý và sắp xếp ý: mức đạt yêu cầu : 23/33 em (tỷ lệ
69,7%)
- Kỹ năng tập làm văn nói: mức đạt yêu cầu: 27/33 em (tỷ lệ: 78.8%)
- Kỹ năng viết đọan văn: mức đạt yêu cầu: 28/33 em (tỷ lệ 84,8)
- Kỹ năng viết bài văn (đầy đủ các phần): mức đạt yêu cầu: 25/33 em (tỷ lệ
75,8%).
- Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ mình cần phải thay đổi cách thức dạy học
mới để góp phần nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn của lớp.
Về phía giáo viên:
Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, phải có vốn sống thực tế.
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, giữa Tập đọc và Tập làm văn có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể trong cùng một tuần, cứ sau hai tiết Tập

đọc là đến tiết Tập làm văn. Các bài Tập làm văn thường gắn với chủ điểm đang
học ở các bài Tập đọc. Trong những bài văn, bài thơ, đoạn văn mẫu trong phân
môn Tập đọc, phân môn Tập làm văn, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ
như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ, điệp ngữ, điệp từ,… nhưng một
số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của nó.
Hầu hết giáo viên dạy Tập đọc chỉ dừng lại ở mục tiêu cơ bản của tiết dạy là
luyện đọc và trả lời câu hỏi theo yêu cầu sách giáo khoa chưa đi sâu vào hướng dẫn
các em cảm thụ hết cái hay cái đẹp từ các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử
dụng để làm toát lên nội dung của bài. Chưa hướng dẫn học sinh nhận dạng xem
bài Tập đọc đó thuộc thể loại văn gì.
Không ít giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của phân môn Tập đọc và
Tập làm văn, còn xem nhẹ môn học này nên trong các buổi học chính khoá cũng
như các tiết học tăng thêm vào buổi chiều, nhiều giáo viên chưa đầu tư nội dung
bài soạn.
Một số giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học cho các tiết học tăng thêm vào
buổi thứ hai và lên kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi vào các tiết học ở buổi ngoại
khóa nhưng không biết dạy nội dung gì? Dạy như thế nào?
II.2. Nội dung đề tài, sáng kiến, giải pháp (mô tả cụ thế đề tài, sáng kiến,
giải pháp, nêu cách áp dụng vào thực tiển và hiệu quả của đề tài, sáng kiến,
giải pháp về năng suất chất lượng, hiệu quả (nếu có) so với thực trạng khi
chưa ap dụng.
1/ Tăng cường kiến thức, vốn sống thực tế cho học sinh:
a) Tăng cường kiến thức tích hợp từ các phân môn Tiếng Việt :
6


Trong tác phẩm “Dạy Tập làm văn ở Tiểu học” - Tiến sĩ Nguyễn Trí viết:
“Phân môn Tập làm văn có tính chất tổng hợp, có quan hệ chặt chẽ với việc dạy
học Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đây là nơi tiếp nhận và cũng là nơi
luyện tập càng ngày càng nhuần nhuyễn các kĩ năng và kiến thức các phân môn

trên. Bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hơp, là nơi trình bày kết quả đích
thực nhất của việc học Tiếng Việt.
Mục đích cuối cùng của việc dạy học phân môn Tập làm văn ở trường Tiểu
học là tổ chức cho học sinh được thực hành, vận dụng các kiến thức mang tính
tổng hợp từ các phân môn khác như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, thông
qua việc thực hiện dùng từ, đặt câu, diễn đạt ý một cách trôi chảy, mạch lạc, gãy
gọn, khúc chiết, sinh động, phong phú, gợi tả, gợi cảm để hình thành nên đoạn văn,
phát triển thành bài văn hoàn chỉnh.
Để đạt được điều đó, tôi thấy rằng mình phải biết tổ chức cho học sinh được
tham gia các hoạt động dưới nhiều hình thức mang tính đồng bộ và lồng ghép một
cách thường xuyên trong các tiết học. Chẳng hạn:
* Về khắc phục viết câu đúng ngữ pháp:
Ngay từ các lớp nhỏ, các em đã được học: “Khi nói và viết phải thành câu
thì người nghe và người đọc mới hiểu được”. Vậy mà các em vẫn cứ viết sai ngữ
pháp, câu què, cụt khi thì thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ thậm chí có khi thiếu cả hai
thành phần chính. Bởi vậy, giáo viên thường khắc phục hiện tượng này trong tiết
trả bài tập làm văn. Giáo viên đưa ra những câu văn học sinh viết còn sai lên bảng
và hướng dẫn học sinh tìm cách sửa chữa, điều chỉnh cho đúng. Bản thân thiết nghĩ
khi giáo viên hướng dẫn cả lớp sửa, thường những em viết sai lại không biết mình
viết sai, không biết câu văn mà giáo viên đưa ra đó mình phải sửa thế nào. Vì thế,
các em không có sự tập trung cao độ vào việc nhận thức được những lỗi sai và nắm
cách sửa chữa, dẫn đến việc khắc phục viết sai ngữ pháp cho học sinh kém hiệu
quả. Do vậy, tôi thường làm như sau: Trước khi cho học sinh cả lớp sửa, tôi gặp
riêng từng em có câu văn sai, hướng dẫn, chỉ bảo nhẹ nhàng, giúp các em hiểu và
nắm được cách khắc phục nhược điểm của mình, đồng thời tôi động viên, nhắc nhở
các em ghi nhớ để lần sau không mắc phải nữa. Đến khi đưa ra cho cả lớp sửa, các
em lại được học hỏi và rút kinh nghiệm thêm một lần nữa, lúc này những biện
pháp đưa ra khắc phục, sửa chữa lại càng có sức thuyết phục đối với các em và làm
cho các em có càng khắc ghi những lỗi đó mà không lặp lại lần sau.
Tôi yêu cầu những em viết sai ngữ pháp về nhà ôn lại, học thuộc phần ghi

nhớ về chủ ngữ - vị ngữ ở lớp Bốn. Quan điểm của tôi ở phần này là không đợi đến
khi học sinh viết sai rồi mới khắc phục sửa chữa, mà giáo viên cần giúp các em
khắc phục tận gốc việc dẫn đến viết sai ngữ pháp của học sinh. Đó là phải thường
xuyên tổ chức cho học sinh ôn tập, củng cố để “lấp chỗ hỏng” kiến thức cho các
em. Bởi lẽ các em không nắm hoặc nắm không chắc những kiến thức, kĩ năng cơ
bản về câu ở các lớp dưới dẫn đến việc các em viết sai ngữ pháp, không diễn đạt
được một ý trọn vẹn. Vì thế, hằng ngày trong việc dạy Tiếng Việt, tôi thường
xuyên tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức, kĩ năng của bài mới kết hợp với
7


việc ôn luyện kiến thức, kĩ năng đã học một cách linh hoạt, sáng tạo. Thực tế
chứng minh, chỉ khi học sinh nắm vững những kiến thức, kĩ năng đã học thì các em
mới có điều kiện thuận lợi để tiếp thu bài mới được dễ dàng và hiệu quả. Bởi vậy,
ở bất kì phân môn nào của môn Tiếng Việt hay bất kì tiết học nào có vận dụng kiến
thứccũ và liên quan đến kĩ năng viết của học sinh, tôi cũng có thể cho các em ôn
luyện lại những kiến thức mà các em đã học từ các lớp dưới.
Trong suốt quá trình dạy tập làm văn cho học sinh, bên cạnh việc hướng
dẫn, nhắc nhở học sinh khi đặt câu phải có đủ hai bộ phận chính đó là chủ ngữ và
vị ngữ, tôi còn luôn động viên, khuyến khích các em cần thêm những thành phần
phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ…Để câu văn tránh được sự khô khan, cứng
nhắc và trở nên mượt mà, sinh động hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Tôi còn chú
tâm đến việc tạo cho học sinh một bầu không khí học tập vui tươi, tích cực và sáng
tạo thông qua các hình thức: Thi đua, trò chơi, làm bài tập trắc nghiệm… Nhằm
kích thích học sinh hứng thú, ham thích học phân môn Tập làm văn.
* Cung cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề:
Đối chiếu SGK Tiếng Việt 5 ta thấy: Khi dạy một thể loại TLV thì nội dung
của phân môn Tập đọc, Từ ngữ tương ứng nhằm cung cấp cho HS vốn từ ngữ học
thể loại này là rất ít. Tất nhiên chúng ta đều biết rằng vốn từ ngữ của các em được
tích luỹ từ lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và cả suốt những năm đầu ở bậc Tiểu học.

Nhưng vốn từ ấy thực sự vẫn chưa đủ để các em làm tốt bài TLV nếu không được
cung cấp thêm các từ ngữ theo chủ đề.
Để hỗ trợ HS, GV cần soạn thêm vốn từ ngữ giúp các em tham khảo để làm văn.
Ví dụ: Từ thường dùng khi làm bài văn tả người:
- Tả thân hình, dáng người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhỏ, nhỏ thó, tầm
thước, xương xương, mảnh khảnh, dong dỏnh, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ,
mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, quắc thước, cân đối, gầy guộc, mảnh mai,
cường tráng, bệnh hoạn, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm…
- Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng,hồng hào, đen sạm, rám nắng,
xanh xao, tái met, xanh tái như chàm, không còn chút máu, vuông vắn, vuông chữ
điền, trái xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu
xí, rỗ như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ
nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, đạo mạo, thơ ngây, nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu,
thiểu não, hiền hậu, dễ thương,…
- Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, nõn
nà, mịn màng, chai cứng, nứt nẻ, có nhiều vết xẹo, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh
lét, hồng hào, đỏ thắm, mốc thếch, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen,
đen đủi,…

8


- Tả mắt: Đen huyền, đen láy, trong sang, u buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ
ngầu, mù loà, sang, lồi, tròn vo,xếch, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ
câu,…
- Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ màng,
chòng chọc, chăm chú, ngơ ngác, hằn học,…
- Tả tính tình/tính cách: Nóng nảy, khoác lác, ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt,
tham lam, ích kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói,
nhã nhặn, bạo dạn, vị tha, hời hợt, lười nhác, lì lợm, trầm tính, đứng đắn, thật thà,

ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm nghị, dè dặt, siêng năng, thận trọng, lỗ
mãng,…
- Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả hê, thoả thích, sảng khoái,
khoái chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí,…
* Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học - nhất là thông qua dạy học các

bài tập đọc:
Cảm thụ văn học là một quá trình hoạt động nhận thức thẩm mĩ rất đặc biệt,
phức tạp và có tính sang tạo. Quá trình cảm thụ văn học là quá trình nhận thức cái
đẹp được chứa đựng trong thế giới ngôn từ hệ thống hoá tín hiệu thứ hai của loài
người. Quá trình này còn mang tính chất chủ quan vì nó phụ thuộc vào vốn sống,
vốn kinh nghiệm, hiểu biết riêng của người cảm thụ văn học. Hiểu một cách đơn
giản, cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc,
tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài
thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ, thậm chí một từ ngữ
có giá trị trong câu văn, câu thơ). Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn
sống của HS nên bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học trước hết là cần tạo điều
kiện để HS tiếp xúc với tác phẩm, cần tôn trọng nhưỡng suy nghĩ cảm xúc
thực,thơ ngây của trẻ em và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Cần trang bị
cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết kết cấu tác phẩm,
các đặc trưng ngữ nghệ thuật, một số biện pháp tu từ…Một trong những biện
pháp có hiệu quả để bồi dưỡng cảm thụ văn học là rèn luyện cách đọc diễn cảm
có sáng tạo. Nó giúp HS nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em
khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương. Đọc diễn cảm là hình thức tái sản
sinh tác phẩm nghệ thuật, là khám phá ra nhữnh gì ẩn dưới các dòng chữ để cho
chúng được vang lên, giúp cho việc học làm văn ngày càng tốt hơn.
Để trau dồi năng lực cảm thụ văn học ở HS lớp 5, GV cần giúp HS nắm
vững kiến thức cơ bản trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5. Có hiểu biết về
ngữ âm và chữ viết tiếng việt, HS mới dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp của câu
thơ tả cảnh mùa hạ của Nguyễn Du:

Dưới trăng quyên mới gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
Lửa lựu lập loè - bốn phụ âm đầu L được lặp lại, các thanh điệu hài hoà, từ
láy lập loè có một tiếng láy mang vần ấp( thường gợi nét nghĩa: một trạng thái
không ổn định, lúc mờ lúc tỏ, lúc mạnh lúc yếu, lúc cao lúc thấp…tương tự các
9


từ láy: gập ghềnh,nhấp nhô, thập thò…) những hiểu biết đó giúp HS thấy rõ hình
ảnh hoa lựu đỏ như sắc lửa khi ẩn, khi hiện, báo hiệu không khí oi bức của mùa
hạ đang tới gần. Nắm vững kiến thức ngữ pháp tiếng việt, HS sẽ không thể chỉ
nói- viết tốt mà còn có thể cảm nhận được nét đẹp của nội dung qua những hình
thức diễn đạt sinh động và sáng tạo.
Ngoài những kiến thức về ngữ âm, từ ngữ, ngữ pháp, qua các giờ tập đọc,
kể chuyện, TLV ở lớp 5 người GV cần cho HS làm quen và cảm nhận bước đầu
về một số khái niệm như: hình ảnh, chi tiết, bố cục…khi tìm hiểu một văn bản
trên lớp, để tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của bài văn, bài thơ, cảm thụ văn học tốt
hơn GV cần hướng dẫn về một số biện pháp nghệ thuật tu từ thuộc yêu cầu
chương trình lớp 5 như: so sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ…
Ví dụ ở bài thơ: Ngày em vào đội” (TV5 tập 1) tôi đã hướng dẫn cho các
em thấy về cách dùng từ ngữ, hình ảnh hay, phân tích tâm trạng cảm xúc của nhân
vật qua các bài văn. « Nắng vườn trưa mênh mông/ Bướm bay như lời hát/ Con tàu
là đất nước/ Đưa ta tới bến xa...”. Tôi đã cho các em nhận xét các hình ảnh đẹp
trong khổ “Nắng trưa” “Bướm bay” “Con tàu” và các em biết tác giả đã dùng hình
ảnh so sánh: Bướm bay - lời hát; Con tàu - đất nước.
Khi dạy bài “Vè miền đất đỏ” tôi đã phân tích về bố cục và cách tường
thuật.
Dạy bài “Buổi sáng mùa hè trên thung lũng” tôi đã khắc sâu cho các em về
nghệ thuật miêu tả dùng từ láy, thứ tự miêu tả, bố cục của bài văn qua đó học sinh
học tập được cách quan sát, sắp xếp ý của tác giả.

Khi tìm hiểu nội dung bài “Đêm trăng hành quân về đồng bằng” học sinh
tìm hiểu được từ cách miêu tả cảnh bộ đội hành quân trong một đêm trăng đẹp đến
việc khai thác tâm trạng của các anh bộ đội khi tiến về giải phóng đồng bằng.
Học đến bài “Tiếng hát mùa gặt”, “Hạt gạo làng ta” tôi cung cấp thêm cho học
sinh nghệ thuật tu từ, cách miêu tả giàu cảm xúc và sử dụng các hình ảnh đối lập. Qua đó
học sinh biết cách quan sát tinh tế có chọn lọc khi miêu tả.
* Tăng cường vốn hiểu biết về cuộc sống thực tế cho học sinh.
Hiện nay, nhiều GV khi dạy làm văn cho HS thường thiên về dạy các kĩ thuật
làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nên nội dung bài viết.
10


Thường GV ra một đề làm văn và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn HS thì gắng
đọc thật nhiều bài văn mẫu, thậm chí có em bê nguyên bài của người khác vào bài
làm của mình. Khi thấy một HS ngồi trước một đề văn trong khoảng 15 đến 20
phút nhưng chưa viết được, GV thường cho rằng các em không nắm được lí thuyết
viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em
không có hứng thú viết là do các em đã không tạo được một quan hệ thân thiết
giữa mình và đề bài- đối tượng của miêu tả, kể…, nghĩa là các em không có nội
dung, không có gì để nói, để viết về cái đó. Nguyên nhân của tình trạng trên là việc
thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em.
Trước hết đó là vốn sống trực tiếp: GV cho các em quan sát, trải nghiệm những gì
sẽ phải viết. Ví dụ GV cần hướng dẫn HS quan sát con đường từ nhà đến trường
trước khi yêu cầu tả nó, hoặc GV tổ chức cho các em tham quan một danh lam
thắng cảnh của địa phương trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham
quan. Tất nhiên, GV cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng
phong phú của HS. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đế mấy vẫn phải có cơ sở,
bắt nguồn từ đời sống thực. Một em HS ở vùng núi xa xôi chưa từng thấy cánh
đồng rộng bao la hoặc biển thì không thể tả được cánh đồng hoặc biển và có cảm
xúc với nó. Cũng như những học sinh khác không thể tả cây chuối đang trổ buồng,

cây bàng đang thay lá khi chưa hề nhìn thấy chúng lần nào.... Khi HS tham quan
hoặc quan sát, GV nên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy
suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì
cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được mắt
thấy, tai nghe.
Những bài văn không phải chỉ bị chi phối bởi đích giao tiếp mà còn bị chi
phối bởi đối tượng giao tiếp. Trong đời sống thường ngày, HS phải tiếp xúc với
nhiều người khác nhau và trong từng trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ
những “vai” khác nhau. Chính “vai” giao tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn
sống lựa chọn chi tiết để nói, chọn ngôn từ để thể hiện.
2/ Hình thành, bồi dưỡng các kỹ năng về tập làm văn cho học sinh:
a). Bồi dưỡng kỹ năng quan sát- tìm ý - lập dàn bài chi tiết:
- Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết quan sát và tìm ý gồm hai mặt:
+ Chuẩn bị kiến thức phục vụ cho việc làm một đề văn theo yêu cầu đầu bài
đã cho.
+ Hình thành phương pháp và kĩ năng quan sát.
- Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh:
+ Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi...để nhìn,
nghe, sờ, ngửi, nếm...nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi
vị...
+ Quan sát nhằm nhận ra những nét độc đáo đặc biệt của đối tượng chứ
không phải thống kê tỉ mỉ trung thực mọi chi tiết về sự vật.

11


+ Trong khi quan sát còn luôn gắn với cảm xúc, với kỉ niệm, với cuộc sống
cá nhân của người quan sát. Từ đó gắn chặt với các hoạt động liên tưởng so sánh,
tưởng tượng, hồi tưởng... của từng cá nhân.
+ Từ việc quan sát học sinh tìm được từ ngữ diễn tả đúng và sinh động

những điều đã quan sát được.
+ Hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát:
Trình tự không gian: quan sát toàn bộ đến quan sát từng phần, từ trái sang
phải, từ trên xuống dưới, ngoài vào trong hoặc ngược lại.
+ Trình tự tâm lí: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh
cho bản thân hứng thú hay khó chịu, yêu hay ghét...) thì quan sát trước, các phần
khác quan sát sau. Phần trọng tâm bài thì quan sát kĩ lưỡng hơn.
+ Hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát.
Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định về nhiều mặt.
Thông thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát do đó kết quả thu được thường là
các nhận xét và cảm xúc gắn liền vời thính giác (hình dáng, màu sắc, đường nét, độ
xa, gần...) đó là mặt mạnh và cũng là một nhược điểm của học sinh. Chúng ta cần
lưu ý các em dùng thêm các giác quan thích hợp khác để quan sát. ví dụ quan sát
giờ ra chơi sân trường em ngoài việc dùng mắt để quan sát các trò chơi còn phải sử
dụng tai để nghe âm thanh của tiếng nói, cười, tiếng động các trò chơi và từ đó liên
tưởng, so sánh, cảm xúc của bản thân.
+ Tổ chức quan sát và tìm ý:
Học sinh phải được quan sát trực tiếp cảnh vật và người. · Học sinh tự làm
việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
Sự quan sát của học sinh phải được hướng dẫn cụ thể bằng hệ thống câu hỏi
gợi ý. Ví dụ: để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong
giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
Đọc kĩ đề bài, phát hiện thể loại? · Trọng tâm của đề bài là gì? (Chú ý đứng
ở chỗ nào quan sát được toàn cảnh sân trường)
Khung cảnh và không khí của sân trường trước giờ ra chơi? (yên ắng, vắng
vẻ, bầu trời...)
Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó? (ồn ào)
+ Học sinh các lớp ra sân như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? nói? các

nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường?...có thể tả cảnh thiên nhiên
xen kẽ lúc này.
+ Chú ý tả kĩ các nhóm chơi vui điển hình: nhảy dây, đá cầu, kéo co, cướp
cờ. mèo đuổi chuột...
+ Tả kĩ hoạt động của vài cá nhân tiêu biểu. Ví dụ: Hãy quan sát trò chơi đá
cầu:
+ Có mấy người tham gia?
+ Thái độ của các cổ động viên xung quanh? Quả cầu được đưa qua, đưa lại
bằng những pha đẹp mắt như thế nào?

12


+ Tiếng cổ động viên reo hò ra sao ? Tiếng hò reo, cổ vũ lúc trò chơi bắt đầu
đến lúc kết thúc . Chú ý các trò chơi đều tả sự hoạt động vui chơi nhộn nhịp, vui
vẻ.
- Lúc có tiếng trống báo vào lớp:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
+ Trên khuôn mặt một số bạn còn biểu hiện luyến tiếc cuộc chơi?
+ Không khí trên sân trường lúc này ra sao? (im ắng, gió thổi, lá cây.., bầu
trời?)
- Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi? Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học
trò?
Sau khi đã quan sát được học sinh sẽ tự sắp xếp ý để lập dàn bài chi tiết theo
sự hướng dẫn của giáo viên trong tiết Lập dàn bài chi tiết cụ thể trong sách giáo
khoa. Từ tiết Lập dàn bài cho đến tiết miệng học sinh tiếp tục quan sát trong các
giờ ra chơi để bổ sung cho bài của mình mà qua tiết Lập dàn bài mình thấy còn
thiếu.
b) Bồi dưỡng kỹ năng trong bước Tập làm văn nói.

Đây là phần khó khăn nhất đối với học sinh. Từ các ý quan sát tìm được,
học sinh phải sắp xếp thành câu văn và nói được trước lớp. Khi nói phải đảm bảo
phát âm đúng, dùng từ ngữ chính xác, đặt câu đúng ngữ pháp..., câu ngắn gọn, rành
mạch, rõ ràng, làm cho người nghe tiếp nhận được một cách có hiệu quả tốt nhất.
Biết sử dụng giọng nói, điệu bộ diễn tả nhằm hỗ trợ cho việc thể hiện nội dung. Ở
tiết này học sinh nói được càng nhiều càng tốt. Không nhất thiết nói lên phải chuẩn
ngay (vì học sinh đang tập nói), có thể câu còn lủng củng, thiếu từ, sai lỗi. Học
sinh và giáo viên chú ý theo dõi, à hướng sửa lỗi câu văn hay hơn, đúng hơn. Nếu
học sinh bí từ, giáo viên có thể cung cấp thêm từ cho học sinh để có những câu văn
sinh động hấp dẫn, từ đó mà phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. (chú ý
trong diễn tả lời văn phải tự nhiên, chân thành và giản dị). Trong tiết này giáo viên
cần tạo ra không khí hào hứng, kích thích học sinh muốn nói và mạnh dạn nói từ
đó hướng dẫn các em cách nói sao cho đạt hiệu quả tốt nhất..
Sau tiết này giáo viên dặn học sinh về viết nháp bài văn này để giờ sau có tiết
viết. Qua tiết miệng học sinh tự bổ sung cho bài văn của mình hay hơn. Ngoài ra,
sau những tiết miệng ngoài việc học sinh phát hiện từ hay trong khi bạn nói để bổ
sung cho bài của mình, tôi còn cung cấp cho các em một số từ hay phục vụ cho
từng bài. Ví dụ: ở bài tả giờ ra chơi tôi cung cấp những từ sau:
+ Bước chân: thoăn thoắt.
+ Điệu bộ: Bẽn lẽn, bình thản, hăng hái, láu táu...
+ Giọng nói, thái độ, nụ cười: liến thoắng, pha trò, hả hê.
+ Tình cảm, tâm trạng: thoả thích, sảng khoái, khoái chí, sửng sốt, kinh ngạc...
c. Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh.
* Viết đoạn văn:
Muốn viết được một bài văn hay thì người giáo viên cần hướng và rèn luyện
cho học sinh viết câu, đoạn cho tốt sau đó mới có thể viết được bài văn. Ở đây học
13


sinh đã được rèn luyện viết câu rất kĩ, kế đó là viết đoạn văn. Chính vì vậy trong

lớp 5 giáo viên chú trọng vào viết đoạn văn cho học sinh.
Khi viết giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng viết được câu mở đoạn cho học sinh,
từ câu mở đoạn mới có thể triển khai viết thành một đoạn văn. Trong đoạn văn cần
chú ý cho học sinh cách tả theo trình tự lô gic nhất định, tránh tình trạng tả đi tả lại
chỉ một vấn đề.
Khi viết đoạn văn cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, nhiều học sinh đã
mắc rất nhiều lỗi đó là lỗi lặp từ, lặp ý trong cùng một đoạn văn. Cần nhắc học sinh
khi miêu tả chúng ta cần tả kĩ các chi tiết để tránh tình trạng học sinh mới viết
được 5 đến 7 câu là đã tả xong cảnh vật đó mà không còn biết tả gì nữa. Tức là học
sinh miêu tả một cách rất chung chung đại khái không đi sâu vào nội dung chi tiết
cảnh vật tả
- Học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu của giáo viên:
- Học sinh viết bài, sau đó cho học sinh đọc bài của mình giáo viên cùng cả
lớp nhận xét về bài làm đó.
- Mỗi lần học sinh viết giáo viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở
đoạn trong đoạn văn. Từ câu mở đoạn đó triển khai viết từ câu mở đoạn đó. Ví dụ:
Câu mở đoạn là: “Quê hương em rất đẹp.” Vậy quê em đẹp như thế nào thì phân
tích và miêu tả ra trong các câu tiếp theo. Khi hết đoạn cần có câu kết đoạn.
** Viết cả bài văn.
Dựa trên quá trình viết đoạn văn thì học sinh có thể viết được cả bài văn, giáo viên
lưu ý cho học sinh viết bài văn có đủ ba phần. Mở bài, thân bài, kết bài.
* Phần mở bài:
- Để viết một bài văn hoàn chỉnh có ý văn tốt giáo viên rèn cho học sinh
cách mở bài. Cũng có thể rèn cho học sinh cách mở bài theo kiểu dán tiếp, hay trực
tiếp tùy theo khả năng tiếp thu làm việc của học sinh. Nhưng tốt nhất giáo viên nên
rèn cho học sinh viết mở bài theo kiểu dán tiếp tức là tả vòng vo loanh quanh sau
đó đi vào ý chính cần tả.
- Giáo viên cho học sinh tập viết phần mở bài sau đó cho học sinh đọc và các
bạn khác nhận xét bài viết của học sinh xem đã đúng theo chủ đề chưa, mở bài vậy
đã hay chưa. Nếu học sinh viết chưa được giáo viên nên cho học sinh viết lại, lúc

này các bạn viết tốt hơn làm tư vấn cho bạn mình hoàn thiện bài viết. Giáo viên là
người cuối cùng đưa ra nhận xét và kết luận.
* Thân bài:
Phần thân bài cũng có thể hướng cho học sinh viết thành nhiều đoạn, mỗi đoạn là
một ý khác nhau, tả một cảnh vật và đi chi tiết của canh vật đó.
- Trong mỗi đoạn khi miêu tả cần chú ý chi học sinh về sử dụng các hình ảnh
so sánh, nhân hóa trong văn miêu tả. Hướng cho học sinh vận dụng các giác quan
tham gia vào việc miêu tả như mắt, mũi, tai, xúc giác, …
- Giáo viên cho học sinh viết phần thân bài sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe
rồi nhận xét, đánh giá các ý mà học sinh viết. Những bài đạt chất lượng là những
bài có cách viết trôi chôi chảy, các ý diễn ra một cách tư nhiên. Học sinh biết sử
dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng một cách phù hợp. Bài viết có
vận dụng các giác quan vào việc miêu tả một cách linh hoạt và khoa học. Bài viết
14


phải có hồn khi đọc bài lên thì hình ảnh phải được hiện lên trước mắt người đọc.
Nếu đạt được như thế thì đó là bài văn thành công.
- Nếu bài viết chưa đạt đạt các ý trên, thì giáo viên phải động viên các em đó
viết lại, có thể tham khảo những bạn có bài văn thành công. Nếu như học sinh viết
vẫn chưa được thành công lắm thì giáo viên nên đưa ra các hình ảnh, tranh ảnh
minh họa hay một đoạn video về phong cảnh và chỉ dẫn cho học sinh miêu tả từng
bước một. (Về hình ảnh, video giáo viên có thể sử dụng trình chiếu).
* Kết bài:
- Đây cũng là một phần rất quan trọng trong bài văn, nó đóng một phần thành
công hay thất bại của bài văn mà mình đã làm. Cũng tương tự như phần trên giáo
viên nên cố gắng rèn cho học sinh viết bằng được phần này. Khi học sinh viết tốt
thì giáo viên nên động viên khích lệ tinh thần học tập của học sinh.
* Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), HS
có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so

sánh, nhân hoá,…) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, HS cũng cần đạt được
những yêu cầu rèn luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn, lời văn viết
vừa cần rõ ý vừa cần sinh động, bộc lộ được cảm xúc; bố cục bài văn cần chặt chẽ,
hợp lí ở từng đoạn và cả bài. Các bài học về phân môn TLV trong SGK Tiếng Việt
5 được xây dựng trên cơ sở qui trình sản sinh ngôn ngữ văn bản và chú trọng các kĩ
năng bộ phận. Kĩ năng viết của HS được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết
đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn luyện
kĩ năng viết, GV cần giúp HS thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn bị
thực hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học - tương tự một số yêu cầu rèn
luyện kĩ năng nói.
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần
thân bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng, không
mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong được diễn tả theo một trình tự
nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính.
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và
thể hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một văn
bản hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Lời
văn trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ:
+ Tả đồ vật thường dung nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so sánh,
nhân hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động.
+ Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, hương
thơm, mùi vị; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh cây
cối ở thời kì phát hay mùa khác nhau.

15


+ Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm thanh;
từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng,

so sánh, nhân hoá để tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi với con
người.
+ Tả cảnh thường dụng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm; có thể so
sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ cảm xúc
trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
+ Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm thanh;
từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện pháp liên
tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người
được tả.
+ Tường thuật: Lưu ý xen tả và bộc lộ cảm xúc khi cần thiết làm bài văn
thêm hấp dẫn.
d) Trả bài Tập làm văn.
Để có thể làm tốt một bài tập làm văn (nói hay viết) ngoài những kỹ năng
nói, học sinh còn cần được rèn luyện thêm kĩ năng sửa chữa, rút kinh nghiệm,
nhằm đạt kết quả ngày một cao hơn. Tập nhận xét bạn trong giờ Tập làm văn nói,
tự rà soát và sửa chữa bài nháp của mình hay bài viết chính thức ở lớp, rút kinh
nghiệm và tự sửa chữa trong giờ trả bài, tất cả đều giúp học sinh luyện tập hình
thành kĩ năng và thói quen “tự điều chỉnh”, tự học tập để luôn tiến bộ. Tiết “Trả bài
viết” có ý nghĩa quan trọng đối với việc rèn luyện kĩ năng nói rong tiết Tập làm
văn miệng. So với các tiết khác (Lập dàn bài – nói), tiết trả bài cần được giáo viên
chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài, thống kê lỗi, nhận xét khái quát về bài làm,
chuẩn bị dẫn chứng, minh hoạ... đến khi soạn giáo án cụ thể cho tiết trả bài. Việc
hướng dẫn học sinh học tập trên lớp cũng đòi hỏi sự gợi mở, dẫn dắt và ứng xử
linh hoạt của giáo viên nhằm giúp các em tự phát hiện nhận thức được ưu, khuyết
điểm trong bài viết của mình. Qua đó, học sinh có ý thức viết bài ngày càng tiến bộ
và có kết quả cao hơn. Sau tiết học này tôi thường nhắc học sinh về làm lại và tôi
chấm lại cẩn thận cho các em. Cách làm này làm cho học sinh tăng thêm hứng thú
khi học môn này.
KẾT QUẢ:
Qua việc vận dụng những biện pháp trên vào thực tế dạy - học Tập làm văn

ở lớp tôi đã đem lại kết quả rất khả quan.
1. Về học sinh:
- Hầu hết học sinh đều ham thích và hứng thú học tập phân môn này, các em
không còn có biểu hiện ngại học mỗi khi nhắc đến nó.
- Học sinh học tập trong không khí tự nhiên thoải mái, tích cực và hào hứng
nhất là vào tiết làm bài xây dựng đoạn mở bài, xây dựng đoạn kết bài hay viết một
đoạn văn ngắn phần thân bài. Ngoài việc các em nêu lên ý kiến diễn đạt của mình
mà các em còn nhận xét được ý vừa nêu của bạn theo nhận thức của em một cách
chân thật nhất.
16


- Các em có điều kiện để bộc lộ những khả năng tư duy, hiểu biết, khả năng
diễn đạt, sáng tạo, phát triển vốn từ, trí thông minh và óc sáng tạo mà ở một số em
yếu cũng đã nhận thức được. Để thực hiện bài văn thì ta phải thực hiện như thế nào
là đúng nhất về phần cấu tạo của thể loại văn đó mặc dù ý diễn đạt của em yếu vẫn
còn hạn chế theo mức độ của em.
- Trong văn nói các em mạnh dạn hơn, diễn đạt lưu loát đầy đủ ý. Trong văn
viết các em tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học, khắc phục được nhược điểm về đặt
câu, đồng thời biết lựa chọn từ ngữ, hình ảnh phù hợp để đặt câu, làm cho câu văn,
đoạn văn và bài văn thêm sinh động phong phú hơn.
- Kết quả học tập của học sinh ở phân môn Tập làm văn qua các kì kiểm tra
được nâng lên một cách rõ rệt.
- Trong đợt chuyển giao chất lượng cuối năm số học sinh đạt 33/33 em chiếm
tỉ lệ 100%.
2. Về giáo viên:
- Sau mỗi tiết dạy Tập làm văn, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản và tự tin
khi học sinh học tập tích cực chủ động, sáng tạo và ngày càng tiến bộ.
- Bản thân không còn cảm thấy ái ngại và khó khăn mỗi khi đến tiết dạy phân
môn Tập làm văn.


III. KẾT LUẬN:
III.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài.
Việc nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn lớp 5 với mục tiêu chính là bồi
dưỡng lẽ sống, tâm hồn, khả năng tư duy và năng lực ngôn ngữ, cảm thụ văn
chương cho học sinh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Góp phần phát triển bốn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh bởi các hoạt
động dạy học phân môn Tập làm văn rất gần với cuộc sống thực tế. Góp phần khơi
dậy, nuôi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn rèn
luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh ra văn bản (nói và viết). Nhờ vậy, Tiếng
Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng
phân môn mà nó trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy,
học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu
quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng Tiếng
Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học…
Để học sinh có kĩ năng viết văn đúng ngữ pháp, sử dụng hình ảnh sinh động,
từ ngữ phong phú, nâng cao được năng lực tư duy lôgich và tư duy hình tượng đòi
hỏi phải có sự kiên trì, bền bỉ, sự nổ lực cố gắng của cả thầy và trò.
Qua một năm đúc kết kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp mà bản thân
đã có những trăn trở và tìm kiếm đồng thời với sự hỗ trợ tích cực của đồng nghiệp,
việc dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp tôi phụ trách đã đạt được những kết quả
17


đang phấn khởi. Từ kết quả thực tế đó, xin được rút ra một số bài học cơ bản sau
đây để chia sẻ cùng với các đồng nghiệp.
Bài học kinh nghiệm:
- Bản thân giáo viên cần nhận thức rõ, để nâng cao chất lượng dạy học phân
môn Tập làm văn không nên nóng vội bỏ qua các khâu cần thiết mang phải sử
dụng đồng bộ các biện pháp, từ việc dạy tốt các phân môn Tiếng Việt để học sinh

có vốn kiến thức, nâng cao năng lực về cảm thụ văn học, đến việc bồi dưỡng vốn
sống trong thực tế cho học sinh, hình thành các kỹ năng về Tập làm văn (quan sát,
lập dàn ý, viết đoạn, viết thành bài).
- Trong việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, giáo viên thường xuyên
kiểm tra, phát hiện ra những chỗ “hỏng” kiến thức và kỹ năng của từng học sinh để
kịp thời giúp các em bổ sung cho đầy đủ kịp thời. Nhất là phải thường xuyên cho
học sinh ôn luyện, củng cố những kiến thức đã học một cách linh hoạt, lồng ghép
vào các hoạt động tìm hiểu kiến thức mới nhằm khắc phục tận gốc những sai sót,
hạn chế của học sinh.
- Luôn tạo bầu không khí vui tươi, tự nhiên, thoải mái, kích thích học sinh
hứng thú hoạt động học tập để phát huy vốn sống, khả năng diễn đạt trong văn nói
cũng như trong văn viết.
- Hình thức dạy học phải đa dạng, phong phú tạo cho học sinh môi trường
học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Học sinh có điều kiện được bộc lộ những
khả năng sẵn có, tích luỹ và phát triển vốn từ ngữ, rèn luyện kĩ năng lựa chọn, sử
dụng từ phù hợp, giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm để học sinh có những câu văn hay,
đoạn văn hay và cả bài văn hay.
- Cần khuyến khích học sinh tham khảo những bài văn hay để học cách diễn
đạt, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động…Nhưng thật nghiêm khắc đối với
học sinh chép văn mẫu, dễ làm các em khó phát triển về khả năng tư duy, óc sáng
tạo, dần dần học sinh có thói quen ỷ lại và lười biếng. Giáo viên cũng cần lưu ý chỉ
chấm bài, sửa bài đối với những bài văn thực chất của học sinh, không chấm những
bài văn chép từ văn mẫu. Có như vậy mới giúp các em rèn luyện được khả năng tự
học, tự bồi dưỡng cho mình.
- Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc giảng dạy phân môn
Tập làm văn lớp 5 của cá nhân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, trình bày không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp đóng
góp ý kiến chân thành để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


III.2. Những kiến nghị đề xuất.
18


Trên đây là những kinh nghiệm được rút ra từ thực tế hoạt động dạy học
phân môn Tập làm văn của bản thân, tuy vậy đang ở mức khái quát chung của
phân môn. Nếu đề tài này được thành công thì tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi để
đề ra nhiều giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng dạy – học phân môn Tập làm văn
ở cấp bậc Tiểu học theo từng thể loại trong những năm học tới.
Mong đồng nghiệp có sự chia sẻ và có sự quan tâm tiếp nối rút kinh nghiệm
phát triển theo chiều sâu về dạy học phân môn Tập làm văn, nhất là nâng cao chất
lượng từng thể loại tập làm văn ở lớp 5.
Tháng 5 năm 2015

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC HUYỆN LỆ THỦY

19



×