Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các yếu tố hình học ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.92 KB, 37 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, vai trò và vị trí của giáo dục
Tiểu học trong toàn bộ nền giáo dục quốc dân đã và đang được nhìn nhận và
đánh giá một cách đầy đủ và đúng đắn hơn. Luật Giáo dục đã chỉ rõ: “Giáo dục
Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Để thực hiện được mục tiêu đó, nghành Giáo dục đã tiếp tục đổi mới nội
dung chương trình và sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy và học, tăng
cường cơ sở vật chất và trang thiết bị…Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy
học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh đóng vai trò
hết sức quan trọng. Điều này đã đựợc thể chế hóa trong Luật giáo dục: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến học tập cho học sinh”.
Với tinh thần đó, trong những năm qua, nhiều trường phổ thông và đội
ngũ các thầy giáo, cô giáo đã đẩy mạnh phong trào “Đổi mới phương pháp dạy
học” theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh và đã thu được
nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, cho đến nay, sự chuyển biến về phương
pháp dạy học ở trường tiểu học vẫn chưa đều khắp, tình trạng “Thầy đọc - trò
chép” vẫn còn khá phổ biến đã làm hạn chế đáng kể chất lượng giáo dục tiểu
học.
Nội dung chương trình sách giáo khoa Toán ở Tiểu học bao gồm các
tuyến kiến thức như: Số học, Đại lượng và đo đại lượng, giải toán… Trong đó,
các yếu tố hình học tuy chưa phải là cốt lõi song nó là một bộ phận không thể
thiếu trong nội dung chương trình.
Dạy học các yếu tố hình học giúp học sinh có những biểu tượng chính xác
về một số hình hình học đơn giản và một số đại lượng hình học thông dụng.
Việc giúp học sinh hình thành những biểu tượng hình học và đại lượng hình học


rất quan trọng. Nó giúp cho học sinh có được định hướng trong không gian, gắn
liền việc học tập với cuộc sống xung quanh. Dạy học các yếu tố hình học còn
giúp cho học sinh rèn luyện một số kĩ năng thực hành, phát triển một số năng
lực trí tuệ.
Ngoài ra dạy học các yếu tố hình học giúp cho học sinh tích lũy những
hiểu biết cần thiết cho đời sống sinh hoạt và học tập của mình.
Nội dung chương trình sách giáo khoa có sự thay đổi nên nội dung của
yếu tố hình học cũng có sự thay đổi. Nội dung chương trình mới nói chung; các
yếu tố hình học nói riêng đã tăng tính chủ động phát huy tính tích cực học tập
của học sinh. Tuy nhiên trong quá trình dạy học, một phần là do đặc điểm tâm lí
cũng như nhận thức của học sinh còn hạn chế. Mặt khác do tính trừu tượng của
các yếu tố hình học…Vì thế trong quá trình học tập các em đã gặp một số khó
1


khăn nhất định nên kết quả học tập chưa cao…Vì vậy việc cung cấp cho giáo
viên các biện pháp dạy học là điều rất cần thiết.
Là giáo viên ngành Sư phạm Giáo dục Tiểu học, bản thân tôi mong muốn
tìm hiểu sâu hơn về nội dung hình học ở tiểu học lớp 3. Mặt khác tôi muốn
nghiên cứu đề tài này để tìm hiểu một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực
học tập của học sinh.
Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các yếu tố hình học ở
lớp 3.”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học các yếu tố hình
học ở lớp 3 cũng như tính tích cực nhận thức của học sinh để đề xuất một số
biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh thông qua
dạy học các yếu tố hình học lớp 3.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học các yếu tố hình
học trong môn Toán lớp 3.
- Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí học sinh lớp 3, trong đó nhấn mạnh
tính tích cực nhận thức của học sinh.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học các yếu tố hình học lớp 3 để đưa ra một số
biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
- Thực hiện tại trường để thấy được hiệu quả của các biện pháp.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học các yếu tố hình học lớp 3.
- Các biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của
học sinh.
4.2. Phạm vi áp dụng
- Dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3.
5. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Một số biện pháp phát huy tính tích cực cho học sinh tiểu học
thông qua các yếu tố hình học lớp 3
Chương 3: Kết quả thực hiện một số biện pháp phát huy tính tích cực cho
học sinh tiểu học thông qua các yếu tố hình học lớp 3 tại trường

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1.1. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ, SINH LÍ CỦA HỌC SINH LỚP 3
1.1.1. Đặc điểm sinh lí
Lứa tuổi của học sinh tiểu học vẫn chưa hoàn thiện các chức năng sinh lí.

Hệ thần kinh, hệ xương chưa phát triển toàn diện. Khả năng kìm hãm của hệ
thần kinh còn yếu, trong khi bộ óc và hệ thần kinh phát triển mạnh dần để đi
đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Vì vậy chúng ta cần chú ý đến đặc
điểm này để giúp trẻ hình thành tính chủ động, tự chủ, kiên trì, sự kìm hãm của
bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ trật tự nơi
công cộng và trong lớp học.
1.1.2. Đặc điểm tâm lí
1.1.2.1. Đặc điểm của quá trình nhận thức
* Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học nói chung, lớp 3 nói riêng mang tính
đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không chủ động do đó các em còn
phân biệt những đối tượng chưa chính xác, dễ mắc sai, có khi con lẫn lộn. Ở lớp
3, tri giác của các em thường gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn.
* Chú ý: Ở lứa tuổi lớp 3, chú ý có chủ định còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý
một cách có chú ý rất mạnh. Sự chú ý của các em đòi hỏi có động cơ gần thúc
đẩy như: được điểm cao, được cô giáo khen… Đồng thời việc sử dụng đồ dùng
dạy học như tranh ảnh, mô hình vật thật… là điều kiện quan trọng để tổ chức,
hình thành sự chú ý của học sinh. Do chú ý còn thiếu bền vững nên các em dễ
quên kiến thức dẫn đến chán nản trong giờ học. Giáo viên cần hiểu những điều
này để có những hình thức tổ chức và phương pháp dạy học phù hợp.
* Trí nhớ: Ở lứa tuổi này, các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật hiện
tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định nghĩa, những lời giải thích dài
dòng. Nhưng phần lớn các em ghi nhớ máy móc, dễ nhớ nhưng mau quên. Vì
vậy giáo viên cần tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn các em cách
ghi nhớ bài học, tránh việc học vẹt, học tủ.
* Tư duy: Học sinh lớp 3, tư duy trực quan cụ thể là chủ yếu, tư duy trừu tượng
chưa phát triển. Do đó các em sẽ gặp khó khăn khi lĩnh hội các khái niệm, định
nghĩa và khả năng khái quát hóa của học sinh chưa cao.
Có thể thấy rằng trẻ lớp 3 thiếu hiểu biết về mọi mặt, nhất là về thực tế
cuộc sống. Nhưng chúng ta cần nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ. Vì
không ít người tưởng trẻ em hiểu biết như người lớn nên không giảng giải cặn

kẽ hoặc diễn đạt một sự vật, một hiện tượng nào đó quá phức tạp. Cần phải hiểu
rằng học sinh tiểu học có ý thức, có tư duy, có một chút kinh nghiệm sống để
khai thác hợp lí trong quá trình dạy học.
1.1.2.2. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học
* Tính cách: Phần lớn học sinh tiểu học trong đó có học sinh lớp 3 có nhiều nét
tính cách tốt như lòng vị tha, tính ham hiểu biết, tính hồn nhiên, tính trung thực,
lòng thương người; hồn nhiên trong quan hệ với người lớn, với thầy cô giáo,
3


bạn bè... Đặc biệt là tính hay “bắt chước”, vì vậy giáo viên cần chú ý giúp học
sinh bắt chước những điều tốt đẹp.
* Nhu cầu nhận thức: Trong những năm đầu của bậc Tiểu học, nhu cầu nhận
thức của học sinh phát triển chưa rõ rệt, đặc biệt là nhu cầu tìm hiểu thế giới
xung quanh, khát vọng hiểu biết. Với lớp 3 nhu cầu đã gắn liền với sự phát hiện
những nguyên nhân, quy luật… Do đó ở lớp 3 đã có những nhu cầu giải quyết
các câu hỏi “Tại sao?”, “Thế nào”. Trong quá trình dạy học giáo viên cần chú ý
đặc điểm này để đưa ra những câu hỏi phù hợp.
Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói
riêng đã tạo điều kiên thuận lợi cho việc dạy học nói chung, dạy học nội dung
yếu tố hình học nói riêng.
1.2. TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH VÀ VIỆC PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
1.2.1. Tính tích cực
Tính tích cực là phẩm chất vốn có của con người. Để tạo ra của cái, vật
chất nuôi sống bản thân, phát triển xã hội, con người phải tích cực tham gia các
hoạt động lao động, hoạt động xã hội. Vì thế để phát huy được tính tích cực của
mỗi học sinh thì chúng ta phải đưa các em vào hoạt động và bằng hoạt động
giúp các em tiếp thu được những tri thức cần học.
Có rất nhiều quan điểm nói về tính tích cực, mỗi người, mỗi ngành lại có

những quan điểm riêng. Nhưng điểm chung lớn nhất về khái nệm tính tích cực
đó là: Sự thay đổi bên trong của mỗi con người dưới sự tác động, ảnh hưởng
của bên ngoài (điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội).
Tính tích cực học tập thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ, sự khám phá và nghị lực cao trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức.
Như vậy, tính tích cực trong học tập của học sinh có nghĩa là các kiến
thức, tri thức được hình thành một cách chủ động, có ý thức, có sự nỗ lực cao,
có sáng tạo…Với các hoạt động có sự tham gia của trí óc, tay chân nhằm củng
cố các kiến thức cũ, khám phá, phát hiện các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo cho bản
thân và vận dụng chúng vào thực tiễn.
1.2.2. Biểu hiện của tính tích cực nhận thức
Tính tích cực nhận thức của học sinh biểu hiện sự nỗ lực của chủ thể khi
tương tác với đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu, thể hiện sự nỗ lực
của hoạt động trí tuê., sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí (hứng
thú, chú ý, ý chí…) nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Trong học tập tích cực không chỉ tồn tại ở trạng thái, điều kiện mà nó còn
là mục đích, phương tiện và thể hiện ở kết quả đạt được của nhận thức. Muốn
có được những kiến thức, kĩ năng bền vững…thì học sinh cần phải học tập tích
cực. Trong môn Toán ở Tiểu học, tính tích cực thường biểu hiện ở những dạng
sau:
1.2.2.1. Thái độ học tập
4


Trước khi đến lớp học sinh cần phải có sự chuẩn bị tâm lí sẵn sàng về nội
dung, mục đích của bài học. Các em luôn luôn có sự chủ động, nắm các kiến
thức mà giáo viên sẽ hướng dẫn, truyền thụ.
Tính tích cực nhận thức được thể hiện ở động cơ, định hướng, sự ham
muốn tìm kiếm tri thức và thái độ tích cực (mong muốn) được giải quyết các

vấn đề (bài toán, kiến thức mới…)mà giáo viên đưa ra nhằm mang lại vốn kiến
thức, kĩ năng mới…cho bản thân học sinh.
Trong các tiết dạy sự thể hiện tính tích cực nhận thức của học sinh đó là
sự hứng thú, say mê, sự tập trung chú ý của học sinh thông qua các thao tác,
hành động, lời nói của giáo viên. Từ đây học sinh sẽ tự đưa ra các câu trả lời và
cách giải quyết vấn đề.
1.2.2.2. Hành động trí tuệ cao
Là sự nỗ lực nắm vững, ghi nhớ kiến thức, kĩ năng, phương pháp học tập
trong một thời gian ngắn nhất bằng sự tập trung chú ý cao độ.
- Giáo viên là người đưa ra kiến thức để học sinh lĩnh hội. Học sinh cần
phải thực hiện tốt, có trách nhiệm cao đối với các yêu cầu của giáo viên đưa ra,
tích cực hoạt động trí tuệ, vận dụng nhuần nhuyễn các thao tác tư duy. Từ đó
tìm ra cách giải quyết vấn đề trong quá trình học tập.
- Hành động trí tuệ cao thể hiện ở sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức: đó là
sự nắm chắc và tái hiện nhanh chóng các khái niệm, quy tắc trong các trường
hợp cụ thể. Biết hệ thống hóa, khái quát hóa các kiến thức đã học.
- Ngoài ra nó còn thể hiện ở sự tự kiểm tra, đánh giá kết quả của mình đã
làm được, tự mình biết sai và sửa chữa lỗi sai đó trong quá trình hình thành, vận
dụng các khái niệm, quy tắc.
1.2.2.3. Kết quả học tập
- Đây là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học, nó phản ánh trình độ
nhận thức của từng học sinh trong lớp học. Để xác định mức độ học tập của học
sinh, giáo viên dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá.
Tóm lại, biểu hiện của tính tích cực nhận thức của học sinh là ý thức
tham gia bài học: trả lời câu hỏi, phát biểu ý kiến hay thắc mắc những vấn đề
chưa rõ. Chủ động trong việc vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào các tình
huống khác nhau, tính tự giác, kiên trì, không nản trước những tình huống khó
khăn.
* Để đánh giá tính tích cực học tập của học sinh cần dựa vào rất nhiều
yếu tố. Song ba yếu tố: thái độ học tập, hành động trí tuệ và kết quả học tập là

chủ yếu. Ba mặt này tồn tại thống nhất và có quan hệ biện chứng, hỗ trợ nhau.
1.2.3. Đặc điểm của tính tích cực nhận thức
- Tính tích cực của học sinh có mặt tự phát và tự giác:
+ Tự phát: là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu
động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà trẻ đều có những mức độ khác nhau.
Đặc điểm này cần được coi trọng, phát triển và nuôi dưỡng trong quá trình dạy
học.
5


+ Tự giác: là trạng thái tâm lí có mục đích, đối tượng rõ rệt. Do đó cần
tạo ra hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực thể hiện ở: óc quan
sát, tư duy trìu tượng, trí tò mò khoa học.
- Tính tích cực nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà
còn từ nhu cấu sinh học, đạo đức, thẩm mĩ, giao lưu… Hạt nhân cơ bản của tính
tích cực nhận thức là hoạt động tư duy của cá nhân được tạo nên do sự thúc đẩy
của hệ thống nhu cầu đa dạng.
- Tính tích cực nhận thức và tính tích cực học tập có mối liên quan chặt
chẽ với nhau. Nhưng trong một số trường hợp tính tích cực học tập biểu hiện ở
hành động bên ngoài mà không phải tính tích cực trong tư duy.
1.2.4. Khả năng phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh
Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng, khả năng phát
huy tính tích cực học tập còn rất hạn chế. Chỉ có một số ít em có ý thức học tập,
còn lại phần đa học sinh còn rất ham chơi, không biết tầm quan trọng của việc
học tập. Các em học tập với sự theo dõi, hướng dẫn của cha mẹ và thầy cô ở
trường. Tuy nhiên, ở các em có những đặc điểm rất thuận lợi cho việc phát huy
tính tích cực học tập. Đó là những đặc điểm tâm sinh lí của học sinh: tính ham
hiểu biết, tính bắt chước… Như vậy để phát huy được tính tích cực của học
sinh, trước hết giáo viên cần hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí, tư duy của học sinh
để đưa ra những biện pháp dạy học phù hợp với sự phát triển của các em.

Khả năng phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh phụ thuộc rất
nhiều vào người giáo viên. Vì vậy mỗi giáo viên cần phải thấy rõ vai trò quan
trọng của mình.
1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến tính tích cực hóa của học sinh
- Bản thân học sinh
+ Đặc điểm hoạt động trí tuệ (Tái tạo, sáng tạo…): Đây là một nhân tố
ảnh hưởng đến việc phát huy tính tích cực của học sinh. Trong một tiết học, nếu
nội dung bài học, phương pháp dạy học… phù hợp với đặc điểm hoạt động trí
tuệ của học sinh. Tức là học sinh tham gia vào các hoạt động một cách hào
hứng, sôi nổi thì lúc này giáo viên đã giúp học sinh phát huy được tính tích cực
học tập.
+ Năng lực của học sinh (Hệ thống tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm học
tập…): Mỗi học sinh cần phải được trang bị một hệ thống tri thức, kĩ năng, kinh
nghiệm học tập… Đây là cơ sở, nền tảng để phát huy tính tích cực học tập của
học sinh.
+ Tình trạng sức khỏe: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
học tập của học sinh nói chung và việc phát huy tính tích cực của học sinh nói
riêng. Để học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập thì học sinh cần
phải có sức khỏe tốt.
+ Trạng thái tâm lí (Hứng thú, xúc cảm, chú ý, nhu cầu, sở thích…): Để
giúp học sinh tiếp thu bài học tốt thì mỗi giáo viên cần phải hiểu rõ về học sinh,
về hứng thú, cảm xúc, sở thích… Trong mỗi tiết học cần tạo cho học sinh không
khí thoải mái trong lớp học.
6


+ Điều kiện vật chất, tinh thần cũng ảnh hưởng tới việc phát huy tính tích
cực học tập của học sinh. Những em có đủ điều kiện vật chất tinh thần thì việc
học tập cũng như việc phát huy tính tích cực gặp nhiều thuận lợi hơn so với
những em có hoàn cảnh khó khăn.

- Nhà trường:
+ Chất lượng của quá trình dạy học, giáo dục (Nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học…) Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát huy tính
tích cực của học sinh. Để phát huy tốt thì cần phải có nội dung dạy học phù hợp
với đặc điểm phát triển, tư duy nhận thức của học sinh. Nếu khó quá hay dễ quá
đều không phát huy được tính tích cực của học sinh. Phương pháp dạy học phải
phù hợp với nội dung và đối tượng của quá trình dạy học. Hình thức tổ chức,
phương tiện dạy học… cũng phải được chuẩn bị chu đáo, hợp lí…Nội dung,
phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học… phù hợp với học sinh là nhân
tố để phát huy tốt tính tích cực học tập.
+ Quan hệ thầy – trò: Đây là hai chủ thể trong quá trình dạy học, vì vậy
quan hệ giữa hai chủ thể này rất quan trọng đối với việc phát huy tính tích cực.
Trong quá trình dạy học cần đưa học sinh vào hoạt động, bằng hoạt động các
em tự tìm ra và tiếp thu kiến thức cần học. Giáo viên không đưa ra kiến thức mà
chỉ là người hướng dẫn cho học sinh. Quan hệ thầy – trò là quan hệ tương hỗ
giữa giáo viên và học sinh. Nếu giáo viên tạo ra mối quan hệ tốt với học sinh thì
việc phát huy tính tích cực học tập sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.
+ Môi trường giáo dục trong nhà trường: Những ngôi trường có cơ sở vật
chất tốt, thầy cô giáo có trình độ tay nghề, yêu trẻ, nề nếp đảm bảo, không gian
học tập, khuôn viên rộng rãi, thoáng mát… sẽ tạo điều kiện rất tốt để phát huy
tính tích cực học tập của học sinh.
- Gia đình:
+ Quan hệ giữa cha mẹ và con cái, anh em trong gia đình… có ảnh
hưởng rất lớn đến mỗi học sinh. Thực tế cho thấy những gia đình giữ được mối
quan hệ đó tốt đẹp thì các em sẽ có kết quả học tập tốt hơn và ngược lại. Vì vậy
mỗi gia đình cần tạo cho các em một không khí luôn đầm ấm…để các em có
điều kiện học tập tốt nhất.
+ Cách giáo dục con cái của gia đình. Mỗi gia đình thường có những
cách giáo dục con cái riêng. Nhưng để con cái có kết quả học tập tốt thì cha mẹ
cần phải biết hài hòa, thống nhất giữa cách giáo dục của gia đình và nhà trường.

- Xã hội: Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phát
huy tính tích cực của học sinh. Nếu học sinh được sống trong xã hội văn minh,
hòa bình, ổn định thì các em có điều kiện phát huy tính tích cực học tập của
mình hơn và ngược lại.
1.3. CÁC YẾU TỐ HÌNH HỌC TRONG MÔN TOÁN LỚP 3
1.3.1. Nội dung
Các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 3 bao gồm:
- Bảng đơn vị độ dài. Các đơn vị: dam, hm, cm2, dm2, m2.
7


- Góc vuông, góc không vuông (góc nhọn, góc tù), giới thiệu về ê-ke, vẽ
góc bằng thước thẳng và ê-ke.
- Giới thiệu đỉnh, góc, cạnh của các hình: hình tam giác, hình vuông, hình
chữ nhật.
- Tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông.
- Giới thiệu điểm ở giữa, trung điểm của đoạn thẳng
- Giới thiệu tâm, bán kính, đường kính của hình tròn. Vẽ đường tròn bằng
compa.
- Thực hành vẽ trang trí hình tròn.
- Giới thiệu diện tích của một hình. Tính diện tích hình chữ nhật và diện
tích hình vuông.
1.3.2. Mục đích
Ngoài mục đích và yêu cầu chung của dạy học môn Toán ở Tiểu học, dạy
học các yếu tố hình học cần chú ý đến các mục đích cụ thể sau:
- Giúp học sinh có được biểu tượng chính xác về một số hình hình học
đơn giản và các đại lượng hình học thông dụng:
+ Các hình cơ bản: Điểm, đường thẳng.
+ Các hình dẫn xuất: Đoạn thẳng, góc, hình tam giác, hình vuông, hình
chữ nhật, hình tròn.

+ Các đơn vị cơ bản: đơn vị độ dài.
+ Các đơn vị dẫn xuất: Chu vi, diện tích.
- Rèn cho học sinh một số kĩ năng thực hành, phát triển một số năng lực
trí tuệ.
+ Các kĩ năng hình học ở Tiểu học: Kĩ năng đọc, vẽ hình, đo lường, ước
lượng, cắt ghép.
+ Phát triển một số năng lực trí tuệ:
. Các thao tác tư duy: Phân tích – tổng hợp, đặc biệt hóa, tương tự, cụ thể
hóa.
. Các phẩm chất trí tuệ: Tính độc lập, sáng tạo, linh hoạt…
- Giúp học sinh có được những hiểu biết cần thiết cho học tập và cuộc
sống.
1.3.3. Yêu cầu về kiến thức và kĩ năng
a. Kiến thức.
- Đơn vị độ dài: km, hm, dam, m, dm, cm, mm.
Đơn vị diện tích: cm2
- Điểm:
+ Nhận biết về điểm ở giữa. Nhận dạng và thực hành vẽ bằng thước thẳng:
+ Trung điểm của đoạn thẳng: nhận dạng, vẽ và biết được đặc điểm của nó.
O
A
B
AO = OB
8


- Góc:
+ Nhận biết góc vuông và góc không vuông: Nhận dạng, dùng thước và
ê-ke để vẽ góc, dùng ê-ke để kiểm tra góc.
A

B

M
C

N

D
P

O

E

- Đặc điểm của góc và cạnh của hình chữ nhật, hình vuông.
+ Hình chữ nhật: Có 4 góc vuông, hai cạnh dài bằng nhau, hai cạnh ngắn
bằng nhau.
A
B

D

C

+ Hình vuông: Có 4 góc vuông, 4 cạnh bằng nhau.
M

N

P

Q
- Biết tính chu vi, diện tích của hình vuông, hình chữ nhật.
+ Nắm được công thức tính chu vi, diện tích của hình vuông:
Chu vi hình vuông bằng độ dài của một cạnh nhân với 4.
Diện tích hình vuông bằng độ dài của một cạnh nhân với chính nó.
+ Nắm được công thức tính chu vi và diện tích hình chữ nhật.
Chu vi hình chữ nhật bằng chiều dài cộng với chiều rộng rồi nhân
với 2.
Diện tích hình chữ nhật bằng chiều dài nhân với chiều rộng.
- Nhận biết tâm, bán kính, đường kính của hình tròn. Vẽ trang trí hình
tròn.

9


+ Nắm được thế nào là tâm, bán kính và đường kính của hình tròn. Nhận
diện, vẽ đường tròn có tâm và bán kính cho trước bằng compa. Vẽ trang trí hình
tròn.
b. Kĩ năng
- Đơn vị đo độ dài:
+ Thuộc bảng đơn vị đo độ dài, nắm vững các mối quan ệ liên tiếp giữa
hai đơn vị trong bảng.
+ Biết chuyển đổi đơn vị đối với số đo độ dài trong các trường hợp đơn
giản.
- Đơn vị đo diện tích:
+ Làm quen với đơn vị diện tích: cm2
- Hình chữ nhật.
+ Nhận dạng và vẽ được hình chữ nhật.
+ Biết vận dụng quy tắc tính chu vi và diện tích của hình chữ nhật và các
quy tắc tính ngược để giải các bài toán có liên quan đến việc tính chu vi và diện

tích hình chữ nhật.
- Hình vuông.
+ Nhận dạng và vẽ được hình vuông.
+ Biết vận dụng quy tắc tính chu vi và diện tích hình vuông và các quy
tắc tính ngược để giải các bài toán có liên quan đến việ tính chu vi và diện tích
hình vuông.
- Hình tròn.
+ Có kĩ năng vẽ và trang trí hình tròn.
- Giải các bài toán có nội dung hình học: Biết giải các bài toán thực tế
đơn giản có liên quan đến việc tính giá trị của các đại lượng hình học (chu vi,
diện tích) và kích thước của các hình.
* Nhận xét:
So với chương trình cũ thì nội dung kiến thức của chương trình mớiđã có
sự thay đổi rõ rệt. Nội dung dạy học các yếu tố hình học cũng vậy, kiến thức đó
có có tính khát quát cao hơn (Ví dụ: Khi tính chu vi, diện tích của hình chữ
nhật, hình vuông thì học sinh vận dụng “quy tắc khái quát” để tính…). Khi nhận
dạng các hình, học sinh không chỉ xét tổng thể các hình mà đã đi vào một số
đặc điểm về các yếu tố: cạnh, góc… của hình để nhận dạng các hình. (hình chữ
nhật: có 2 cạnh ngắn bằng nhau, 2 cạnh dài bằng nhau…).
- Về kĩ năng: Tăng cường các kĩ năng thực hành luyện tập về hình học
như:
+ Kĩ năng vẽ hình (vẽ góc vuông bằng ê-ke, vẽ hình tròn bằng compa,
dùng thược thẳng xác định trung điểm của một đoạn thẳng, vẽ trang trí hình
tròn…)
+ Kĩ năng gấp, ghép, xếp hình (gấp hình để tạo ra góc vuông, xác định
trung điểm của các cạnh hình vuông).
+ Kĩ năng tính chu vi và diện tích của các hình: hình chữ nhật, hình
vuông.
10



- Cấu trúc, sự sắp xếp nội dung bài học các yếu tố hình học ở Toán 3
có tính đan xen với các mạch kiến thức khác nhằm làm nổi bật hạt nhân là các
kiến thức: Số học, đại lượng và đo đại lượng…
1.4. THỰC TRẠNG DẠY HỌC CÁC YẾU TỐ HÌNH HỌC TRONG MÔN
TOÁN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
Để nắm được thực trạng dạy học các yếu tố hình học trên địa bàn trong
giai đoạn này, chúng tôi đã tiến hành trao đổi với giáo viên đang giảng dạy khối
lớp 3 ở các trường lân cận và đã tiến hành kiểm tra đột xuất học sinh khối 3 của
2 lớp 3A, 3B của trường chúng tôi với 45 học sinh với nội dung kiểm tra về:
nhận dạng hình, nhận dạng góc, quy tắc tính diện tích các hình đã học. Kết quả
thu được như sau:
LỚP 3A
( Số lượng học sinh: 20)
Kết
Đạt
Chưa đạt
quả
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Bài
Bài 1
18
90
2
10
Bài 2
17

85
3
15
Bài 3
14
70
6
30
Bài 4
13
65
7
35
LỚP 3B
( Số lượng học sinh: 25)
Đạt

Kết
quả
Bài

Chưa đạt

Số lượng

Tỉ lệ (%)

Số lượng

Tỉ lệ (%)


20
19
18
17

74
63,8
63,6
58,4

5
6
7
8

26
31,2
36,4
41,6

Bài 1
Bài 2
Bài 3
Bài 4

Qua bảng kết quả chung của lớp, chúng ta thấy rằng: Đa số học sinh hoàn
thành tốt yêu cầu dạng bài tập 1 và bài tập 2. Đối với dạng bài tập 3, bài tập 4 tỉ
lệ chưa đạt của 2 lớp là tương đương nhau. Kết quả cụ thể như sau:
Tỉ lệ

Bài

Số lỗi sai

3A
Số lượng Tỉ lệ (%)

3B
Số lượng Tỉ lệ (%)

1

3

4

20

4

20

2

4

2

10


3

15

Nguyên
nhân
Chưa tập
trung
Chưa đọc
kĩ đề
11


3

3

2

10

4

20

4

2

5


25

6

30

Chưa tính
cẩn thận
Chưa nhớ
quy tắc

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng: Mặc dù học sinh lớp 3 đã có sự phát
triển hơn các lớp 1, 2 nhưng ở các em tư duy vẫn còn mang tính trực quan, cụ
thể, khả năng khái quát chưa cao… Mặt khác khả năng tập trung của học sinh
còn thấp, tính sáng tạo chưa có. Nên các em thường làm sai các bài cần có sự tư
duy, cần tìm tòi cách giải.
Bên cạnh đó, học sinh giữa các lớp có sự chênh lệch về kết quả kiểm tra.
Kết quả cụ thể như sau:
3A
3B

Đạt

Chưa đạt

15
18

5

7

Như vậy, qua việc điều tra về nội dung các yếu tố hình học ở hai lớp, tôi
xin đưa ra một số đặc điểm sau:
a. Những khó khăn mà giáo viên và học sinh gặp phải trong quá trình dạy học
các yếu tố hình học:
* Về phía giáo viên
- Nội dung chương trình: Thời lượng dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3
ít nên thời gian để học sinh luyện tập, thực hành rất hạn chế. Ví dụ như: Khi dạy
cho học sinh kiến thức về chu vi, đây là một kiến thức khó nhưng trong chương
trình chỉ phân phối cho phần này là 3 tiết (Chu vi hình chữ nhật, chu vi hình
vuông và luyện tập). Đây là một khó khăn rất lớn mà giáo viên tiểu học gặp
phải, họ không có thời gian để giúp học sinh hiểu sâu kiến thức do bị hạn chế về
thời gian.
- Việc lựa chọn và sử dụng đồ dùng dạy học cho giáo viên và cho học
sinh. Bởi vì đồ dùng dạy học để giáo viên dán lên bảng luôn có số có kích thước
lớn hơn nhiều so với kích thước thật. Nếu không cẩn thận thì học sinh sẽ hiểu
sai kích thước thật của vật. Ví dụ như trong bài: “Hình chữ nhật”, giáo viên phải
chuẩn bị mô hình hình chữ nhật có kích thước được phóng đại lên, và cần chuẩn
bị cho học sinh mô hình chữ nhật có kích thước thật để học sinh thực hành đo
độ dài của cạnh ngắn và cạnh dài của hình chữ nhật.
- Lựa chọn cách tổ chức dạy học, phương pháp dạy học để thu hút học
sinh tham gia một cách tích cực vào hoạt động học tập.
* Về phía học sinh:
Trong nội dung chương trình Toán ở tiểu học, các yếu tố hình học là nội
dung đã gây rất nhiều khó khăn cho học sinh.
- Diễn đạt ngôn ngữ hình học.
- Khó phân biệt giữa chu vi và diện tích của một hình.
12



- Gọi tên một cách chính xác các kí hiệu toán học.
b. Nguyên nhân
- Do đặc điểm tâm sinh lí, tư duy của học sinh lớp 3 phát triển chưa hoàn
thiện nên việc tiếp thu kiến thức còn hạn chế. Nhất là các kiến thức về hình học,
các kiến thức đó rất trừu tượng đối với các em.
- Khả năng tập trung chú ý của học sinh trong các giờ học trên lớp chưa
cao.
- Thời lượng của nội dung dạy học các yếu tố hình học quá ít nên giáo
viên không thể có đủ thời gian để giúp học sinh tìm hiểu kĩ các vấn đề của bài
học. Vì vậy mà học sinh rất khó để nắm chắc được các kiến thức mà giáo viên
truyền đạt.
- Việc thực hành, luyện tập trong các tiết dạy về hình học còn quá ít nên
học sinh không có thời gian để khắc sâu các kiến thức đã học.
- Trong các tiết dạy về các yếu tố hình học, việc sử dụng đồ dùng dạy
học, phương tiện trực quan còn hạn chế.

13


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC
CÁC YẾU TỐ HÌNH HỌC Ở LỚP 3
2.1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
Trong quá trình dạy học môn Toán ở lớp 3 nói chung, cũng như trong dạy
học chủ đề yếu tố hình học nói riêng, chúng ta có thể sử dụng rất nhiều phương
pháp dạy học khác nhau. Muốn cho học sinh học tốt chủ đề các yếu tố hình học
thì trong mỗi tiết dạy, bài học giáo viên cần đưa ra những biện pháp phù hợp.

Để các biện pháp đó mang lại hiệu quả, phát huy được tính tích cực học tập của
mỗi họa sinh thì các biện pháp phải được đưa ra dựa trên những tiêu chí sau
đây:
- Mục tiêu dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3.
- Nguyên tắc dạy học các yếu tố hình học ở tiểu học.
- Nội dung dạy học các yếu tố hình học lớp 3.
- Đặc điểm tư duy của học sinh lớp 3.
- Những sai lầm mà học sinh thường gặp trong quá trình học các yếu tố
hình học.
Để khắc phục những khó khăn trong dạy học, đồng thời hướng dạy học
theo quan điểm : “Lấy học sinh làm trung tâm” nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh cũng như nâng cao chất lượng dạy học các yếu tố hình học, tôi
xin đưa ra một số biện pháp cụ thể như sau:
2.2. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ
2.2.1. Sử dụng hợp lí các yếu tố trực quan nhằm giúp cho học sinh có biểu
tượng chính xác về các yếu tố hình học
2.2.1.1. Ý nghĩa của việc sử dụng hợp lí các yếu tố trực quan
Yếu tố trực quan giúp cho học sinh có biểu tượng chính xác về các yêu tố
hình học mà học sinh cần học.
Học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng đang ở trong giai
đoạn phát triển hoàn thiện về thể chất, trí tuệ…Vì vậy ở các em có những đặc
điểm tâm sinh lí riêng đòi hỏi tư duy trực quan nên yếu tố trực quan rất cần thiết
và quan trọng đối với học sinh.
Các yếu tố hình học mang bản chất trìu tượng, làm cho việc tiếp nhận của
học sinh gặp khó khăn. Yếu tố trực quan là phương tiện giúp các em tiếp thu
kiến thức một cách nhanh nhất, tốt nhất.
2.2.1.2. Quy trình sử dụng các yếu tố trực quan
- Giới thiệu yếu tố trực quan và hướng dẫn học sinh (bằng hệ thống câu
hỏi, gợi ý) giúp học sinh đưa ra những nhận xét để chỉ ra dấu hiệu bản chất
trong các yếu tố hình học đó.


14


- Khi học sinh đã nắm được dấu hiệu bản chất, giáo viên hướng dẫn cho
các em khái quát hóa hay trìu tượng hóa đẻ có khái niệm hay quy tắc cần phải
học.
- Giáo viên kiểm tra học sinh bằng cách đưa ra những yêu cầu: chỉ ra các
thể hiện của khái niệm hay các quy tắc vừa được học trong thực tế.
2.2.1.3. Ví dụ minh họa
a. Ví dụ 1: Dạy học bài “Chu vi hình vuông”

- Giáo viên có thể sử dụng đồ dùng trực quan để giúp cho học sinh có
biểu tượng chính xác về chu vi của hình vuông. (Đồ dùng trực quan: có thể là
vật thật sợi dây thép được uốn thành hình vuông)
- Giới thiệu biểu tượng về chu vi hình vuông. Giáo viên hướng dẫn: Chu
vi hình vuông bằng tổng độ dài của 4 cạnh (Giáo viên kết hợp vừa giới thiệu
vừa chỉ trên mô hình trực quan)
- Nếu mỗi cạnh hình vuông có độ dài 3cm, lúc này chu vi hình vuông
được tính như thế nào? (học sinh đưa ra: 3 + 3 + 3 + 3 = 12 (cm))
- Chúng ta có thể viết lại theo một cách khác. Yêu cầu học sinh đưa ra
cách viết: 3 x 4 = 12 (cm).
- Giáo viên gợi ý cho học sinh đưa ra quy tắc tính chu vi hình vuông.
Giáo viên dán quy tắc lên bảng.
- Hướng dẫn học sinh thực hành làm các bài tập cụ thể sử dụng quy tắc
tính chu vi vừa học.
VD: Các bài tập trong SGK Toán 3 – Trang 88
b. Ví dụ 2: Dạy bài: “Diện tích hình chữ nhật”
A
4cm

B

D
C
- Giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan để hình thành quy tắc tính diện
tích hình chữ nhật (đồ dùng trực quan có thể là mô hình hay bìa cứng)
+ Mô hình của giáo viên: Hình chữ nhật có kích thước được phóng đại
lên để dán bảng. Mô hình của học sinh: mỗi học sinh có 1 mô hình chữ nhật
đúng theo kích thước thật.
- Gv yêu cầu học sinh dùng thước có cm để đo kích thước thật của chiều
dài và chiều rộng của hình chữ nhật. GV ghi bảng kích thước của chiều dài và
chiều rộng.
15


- Giáo viên yêu cầu học sinh tìm cách tính diện tích của hình chữ nhật mà
cô giáo đã phát cho mỗi học sinh.
- Từ việc học sinh đã nắm được quy tắc tính diện tích của một hình để
hướng học sinh hình thành quy tắc tính diện tích hình chữ nhật theo các bước
sau:
Bước 1: Giới thiệu yếu tố trực quan là mô hình hình hình chữ nhật ABCD
(như hình vẽ)
Bước 2: Từ dấu hiệu bản chất đó, giáo viên hướng dẫn học sinh đặc biệt
hóa để có quy tắc mới.
- Diện tích của một hình bằng diện tích của các ô vuông như nhau cộng
lại. Hình chữ nhật ABCD được chia làm 12 ô vuông. Vì thế mà diện tích hình
chữ nhật ABCD là 12 ô vuông.
- Mà mỗi ô vuông có diện tích là 1cm 2 thì diện tích hình chữ nhật ABCD
là 12cm2.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chỉ ra: Diện tích hình chữ nhật ABCD là:

4 x 3 = 12 (cm2)
+ 4: Độ dài của chiều dài hình chữ nhật.
+ 3: Độ dài của chiều rộng hình chữ nhật.
- Gọi học sinh nói lên quy tắc tính diện tích hình chữ nhật: “Diện tích hình chữ
nhật bằng chiều dài nhân với chiều rộng cùng”
Từ đó giáo viên đưa ra quy tắc tính diện tích hình chữ nhật: “Muốn tính
diện tích hình chữ nhật ta lấy chiều dài nhân với chiều rộng (cùng đơn vị đo)
Bước 3: Chỉ ra sự thể hiện của quy tắc đó bằng cách đưa ra các ví dụ cụ
thể, các bài toán thực tế để hướng dẫn học sinh thực hiện quy tắc đó.
VD: Tính diện tích hình chữ nhật biết:
a. Chiều dài 5cm, chiều rộng 3cm.
b. Chiều dài 2dm, chiều rộng 9cm.
* Nhận xét:
Trong dạy học môn Toán nói chung, dạy học các yếu tố hình học nói
riêng thì phương pháp trực quan đóng vai trò quan trọng. Nó mang lại hiệu quả
dạy học cao, học sinh nắm được các kiến thức cần học. Tuy nhiên để đạt được
kết quả đó, phát huy được hiệu quả của các yếu tố trực quan trong dạy học đòi
hỏi giáo viên cần chú ý đến một số lưu ý sau:
- Trực quan không phải là mục đích mà là phương pháp, phương tiện
giúp đạt được mục đích cuố cùng là giúp học sinh nắm được các kiến thức toán
học trìu tượng, phát triển năng lực tư duy. Nếu bỏ qua khâu “trực quan sinh
động” hay tiến hành một cách đại khái sẽ không giúp cho học sinh nhận thức
được đố tượng. Tuy nhiên nếu lạm dụng quá trực quan thì không những tốn thời
gian mà còn kìm hãm khả năng hình thành các biểu tượngkhông gian, hạn chế
năng lực khái quát hóa, kìm hãm sự phát triển tư duy trìu tượng của học sinh.
- Khi sử dụng các phương tiện trực quan thì cần kết hợp chặt chẽ nó với
các phương pháp dạy học khác như: phương pháp hỏi – đáp, phương pháp
16



giảng giải, phương pháp thực hành luyện tập, phương pháp thuyết trình, giảng
giải…
2.2.2. Tăng cường tổ chức các hoạt động thực hành, luyện tập trong các tiết
dạy về các yếu tố hình học
2.2.2.1. Ý nghĩa của việc thực hành, luyện tập
Với học sinh tiểu học, thực hành luyện tập là hoạt động thường xuyên,
xuyên suốt của quá trình dạy học. Thực hành luyện tập giúp cho học sinh củng
cố, khắc sâu kiến thức, hình thành và rèn luyện cho các em kĩ năng thực hành
tính toán, trình bày hiểu biết của mình, bồi dưỡng ở học sinh các thao tác tư
duy: phân tích, tổng hợp, so sánh… và một số phẩm chất trí tuệ khác.
Nhờ thực hành luyện tập, học sinh có thể chủ động tiếp thu, lĩnh hội tri
thức thông qua việc giải các bài tập, thực hiện các yêu cầu, nhiêm vụ của giáo
viên đưa ra. Từ đây sẽ rèn luyện cho học sinh phát huy tốt nhất tính độc lập của
mình.
Nếu giáo viên biết cách tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập phong
phú, đa dạng và phù hợp với nội dung bài học, tư duy của học sinh…thì học
sinh sẽ nắm vững các kiến thức, thành thạo các thao tác. Khi đó hiệu quả của
bài học luôn được đảm bảo.
Tóm lại, việc tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập là rất quan trọng
và cần được các giáo viên quan tâm đúng mức.
2.2.2.2. Quy trình tổ chức thực hành luyện tập
Bước 1: Giới thiệu, tìm hiểu yêu cầu, nội dung của bài tập.
Bước 2: Giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm ra cách giải dựa vào
những gợi ý của bài tập.
Bước 3: Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành làm bài tập.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh trình bày kết quả bài làm của mình.
Bước 5: Nhận xét, đánh giá kết quả bài làm của học sinh.
2.2.2.3. Ví dụ minh họa
a. Ví dụ 1: Một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài 35m, chiều rộng 20m.
Tính chu vi mảnh đất đó.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài toán:
+ Bài toán cho biết gì? (Mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài: 35m, chiều
rộng: 20m)
+ Bài toán yêu cầu gì? (Tính chu vi mảnh đất đó?)
- Giáo viên yêu cầu một học sinh nhắc lại quy tắc tính chu vi hình chữ
nhật.
- Để tính chu vi mảnh đất đó ta làm như thế nào? (lấy chiều dài của mảnh
đất cộng với chiều rộng mảnh đất rồi nhân với 2)
- Cho học sinh thực hành làm bài vào vở bài tập.
- Mời một học sinh lên bảng làm bài.
Bài giải
Chu vi của mảnh đất là:
17


(35 + 20)x 2 = 150 (m)
Đáp số: 150m
- Giáo viên cho học sinh nhận xét bài làm của bạn.
- Giáo viên nhận xét và đánh giá.
* Ví dụ 2: Thực hành: Gấp tờ giấy hình chữ nhật ABCD, rồi đánh dấu trung
điểm I của đoạn thẳng AB, trung điểm K của đoạn thẳng AD.
Sau khi giới thiệu cho học sinh các dấu hiệu bản chất của “Điểm ở giữa.
Trung điểm của một đoạn thẳng”, giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho học sinh
thực hành gấp, cắt…
Giáo viên hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
+ Bước 1: Khai triển hình chữ nhật lên giấy trắng hoặc tấm bìa.
A
B
D
C

+ Bước 2: Gấp đôi hình chữ nhật lại, sao cho đoạn thẳng AD trùng với
đoạn thẳng BC.
I
B
A
K
C
D
+ Bước 3: Mở hình chữ nhật ra, lúc này Hình chữ nhật ban đầu có một
đường gấp ở giữa và tạo nên 2 điểm là: Điểm I và điểm K.
A
I
B

D
K
C
Sau khi học sinh tạo được hình theo đúng yêu cầu của bài tập thì giáo
viên có thể đưa ra một số câu hỏi để củng cố lại kiến thức đã học cho các em
( Điểm I là điểm giữa của đoạn thẳng nào? Điểm nào nằm giữa đoạn thẳng CD?
Trung điểm của đoạn thẳng AB? Trung điểm của đoạn thẳng CD?)
* Ví dụ 3: Cho 8 hình tam giác,
Hãy xếp thành hình dưới đây:
mỗi hình như hình sau:

18


Để giúp học sinh giải quyết được bài tập này, giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh quan sát, thực hành xếp thử để tìm cách xếp đúng.

- Hướng dẫn học sinh xếp hoặc vẽ thử hình lên giấy.
- Học sinh phải chú ý đến yêu cầu của bài toán khi xếp hình (vẽ hình)
- Sau mỗi lần thử, học sinh sẽ tìm ra cách xắp xếp mới chính xác như sau:
Cách 1:

Giáo viên có thể hướng dẫn cho một số em chưa làm được bài.
+ Dùng thước có vạch cm để xác định điểm M, N, P, Q.
Các điểm này lần lượt là trung điểm của
A
M
B
các cạnh hình vuông: AB, BC, CD, DA.
+ Nối MP và NQ
Q
N
+ Nối hai đường chéo của hình vuông là
AC và BD.
D

P

C

Cách 2:

Giáo viên hướng dẫn:
+ Dùng thước có vạch cm để xác định điểm M, N, P, Q. Các điểm này lần lượt
là trung điểm của các cạnh hình vuông là: AB, BC, CD, DA.
A


M

B

+ Nối MP và NQ
Q

N

+ Nối các trung điểm của các cạnh lại:
MN, NP, PQ, QM
D

P

C

* Nhận xét:
Đây là một biện pháp rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, tư duy của
học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng. Để phát huy được những
19


ưu điểm, hạn chế những nhược điểm của nó thì người giáo viên phải lưu ý một
số điểm sau:
- Trước khi tiến hành dạy tiết thực hành, luyện tập cần phải có sự chuẩn
bị kĩ càng, chu đáo về mọi mặt: nội dung, hình thức tổ chức, phương tiện, đồ
dùng dạy học, phương pháp dạy học…
- Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên cần theo dõi, giám sát,
động viên học sinh làm việc độc lập, tự suy nghĩ, tự tìm ra cách thực hiện yêu

cầu. Khi cả lớp đang thực hiện, giáo viên cần quan sát để kịp thời giúp đỡ các
em gặp khó khăn trong khi làm bài.
- Sau khi học sinh thực hiện xong, giáo viên tổ chức cho học sinh nhận
xét, điều chỉnh nếu sai và có sự bổ sung kiến thức cần thiết.
- Khi tiến hành luyện tập, thực hành giáo viên cần để ý nội dung bài tâp
trước khi giao cho học sinh làm bài. Nội dung bài tập phải đi từ đơn giản đến
phức tạp và đảm bảo tính vừa sức cho học sinh.
- Một trong những hạn chế của biện pháp này mà chúng ta có thể thấy rõ
là dễ gây nhàm chán cho học sinh. Vì thế mà vai trò của hình thức tổ chức một
tiết dạy thực hành, luyện tập là rất quan trọng. Giáo viên cần đưa ra các hình
thức luyện tập đa dạng, phong phú… để tạo cho học sinh hứng thú trong học
tâp.
2.2.3. Tích cực vận dụng trò chơi dạy học Toán trong dạy học các yếu tố
hình học ở lớp 3
2.2.3.1. Ý nghĩa, tác dụng của trò chơi dạy học.
- Trò chơi dạy học giúp cho học sinh có những tiết học thật thoải mái,
chống mệt mỏi, thay đổi động hình, tăng cường khả năng thực hành, vận dụng
các kiến thức đã học, phát triển hứng thú, tập thói quen tập trung, khả năng suy
luận… Việc vận dụng các trò chơi vào việc dạy học làm cho giờ học toán bớt
căng thẳng, quá trình tiếp thu tri thức của học sinh tự nhiên, không bị gò bó.
- Trong quá trình dạy học, việc sử dụng trò chơi học tập trong các tiết dạy
là điều cần thiết, không thể thiếu. Trò chơi học tập không những giúp học sinh
tiếp thu và vận dụng thành thạo các kiến thức đã học mà nó còn rất phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học.
- Trong thực tiễn ở các trường Tiểu học, trò chơi học tập được xem như
một biện pháp rất hiệu quả giúp học sinh củng cố lại những kiến thức mà học
sinh đã được học trước đó.
- Giáo viên có thể căn cứ vào nội dung kiến thức bài học, trình độ của
học sinh và điều kiện hiện có để lựa chọn trò chơi phù hợp để đưa vào dạy học
như một hoạt đọng dạy học toán.

- Trò chơi học tập là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực
hiện đổi mới phương phápdạy học Toán ở Tiểu học nhằm phát huy tính tích cực,
độc lập, sáng tạo của học sinh.
2.2.3.2. Quy trình tiến hành một trò chơi toán học

20


Trong dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3 nói riêng cũng như trong dạy
học toán ở tiểu học nói chung, một tò chơi dạy học thường được tiến hành theo
4 bước:
+ Bước 1: Giới thiệu trò chơi: Nêu tên trò chơi và các vật dụng phục vụ
cho trò chơi (giáo viên có thể chuẩn bị các dụng cụ cần thiết hoặc có thể cho
học sinh tự chuẩn bị)
+ Bước 2: Công bố luật chơi và cách chơi
Giáo viên giải thích cách chơi, trong đó nêu rõ những ai trực tiếp chơi trò
chơi, ai cổ động, đánh giá. Trò chơi được chơi như thế nào, thời gian chơi bao
lâu, phần thưởng cho đội thắng cuộc.
+ Bước 3: Tiến hành chơi.
Dù trực tiếp hay gián tiếp tất cả học sinh trong lớp phải được tham gia trò
chơi, giáo viên theo dõi và giúp đỡ học sinh tháo gỡ những vướng mắc khi cần
thiết.
+ Bước 4: Nhận xét, đánh giá
Giáo viên cùng với học sinh kiểm tra kết quả của trò chơi. Đội nào có
nhiều đáp án đúng, nhanh thì sẽ thắng cuộc. Giáo viên nhận xét và tuyên dương
đội thắng cuộc.
2.2.3.3. Ví dụ minh họa
* Ví dụ 1: Sau khi học xong bài “Diện tích của một hình”, Giáo viên có thể tổ
chức trò chơi sau để giúp học sinh củng cố lại kiến thức vừa học.
Những hình nào sau đây có diện tích bằng nhau:


Có thể tiến hành trò chơi như sau:
+ Bước 1: Nêu tên trò chơi: “Nhanh tay lẹ mắt”
Giáo viên chuẩn bị dụng cụ của trò chơi: Một số hình (như trên) được
làm từ các tấm bìa cứng. Các hình sẽ được dán sẵn trên giấy A0 (hai tấm giáy
A0 cho hai đội chơi)
+ Bước 2: Cách chơi
Giáo viên chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 3 bạn đại diện lên chơi, các
bạn còn lại cổ động cho đội của mình. Thời gian chơi 3 phút.
Tổ 1 + tổ 2: Đội A
Tổ 3 + tổ 4: Đội B
21


Trước hết giáo viên sẽ dán hai tấm giấy A0 lên bảng, trên giấy A0 đã có
sẵn các hình, các đội sẽ tìm ra các hình có diện tích bằng nhau và dán vào bên
dưới. Các thành viên của các đội phải chơi lần lượt, tức là bạn thứ nhất tìm và
dán xong thì bạn thứ 2 mới được lên chơi. Đội nào tìm ra nhiều hình có diện
tích bằng nhau trong thời gian ngắn nhất sẽ là đội thắng cuộc.
+ Bước 3: Tiến hành cho học sinh chơi
Sau khi đã chuẩn bị xong, giáo viên sẽ ra hiệu lệnh “bắt đầu”, lúc này các
đội bắt đầu chơi, cả lớp cổ động cho các đội chơi.
+ Bước 4: Nhận xét, đánh giá.
Giáo viên cho học sinh nhận xét về kết quả của hai đội, đội nào tìm ra
nhiều hình có diện tích bằng nhau nhất, đội nào tìm ra các hình đó trong thời
gian ngắn nhất.
Giáo viên tuyên dương đội thắng cuộc. Nhận xét về hai đội chơi.
* Ví dụ 2: Cho 8 hình tam giác, mỗi hình như hình sau:

Hãy xếp thành hình dưới đây:


Có thể tiến hành trò chơi này như sau:
Bước 1: Nêu tên trò chơi: “Ai nhanh hơn”
Giáo viên chuẩn bị dụng cụ học tập: 16 hình tam giác, các hình tam giác
này có thể đính vào bảng lớp. Một tấm bìa có hình vẽ trong sách giáo khoa.
Bước 2: Cách chơi
Giáo viên chia lớp thành hai đội, mỗi đội cử 3 bạn lên chơi. Trước hết
giáo viên dán tấm bìa lên bảng và để sẵn các tam giác lên bàn. Thời gian tiến
hành chơi trong 5 phút.
Đội nào xếp xong trước, đúng và đẹp sẽ là đội thắng cuộc.
Bước 3: Tiến hành chơi
Sau khi đã chuẩn bị xong, giáo viên ra lệnh “bắt đầu”, học sinh bắt đầu
chơi.

22


Bước 4: Nhận xét, đánh giá.
Giáo viên có thể cho học sinh trong lớp nhận xét về cách sắp xếp với yêu
cầu đúng, đẹp và nhanh.
* Ví dụ 3:
Sau khi học xong bài: “Diện tích hình chữ nhật”, giáo viên có thể tổ chức
trò chơi nhỏ để củng cố kiến thức vừa học cho học sinh.
Bước 1: Trò chơi: “Ai nhanh hơn”
Giáo viên chuẩn bị 2 tấm giấy A0, trên mỗi tấm A0 đó vẽ các hình chữ
nhật như sau:
5cm

3cm
2cm

3cm

7cm

2cm
4cm

4cm

Và chuẩn bị cho mỗi đội một bút dạ để các em viết kết quả vào giữa mỗi hình
chữ nhật.
Bước 2: Cách chơi
Giáo viên sẽ chia lớp thành 2 đội chơi ( tổ 1+2, tổ 3+4), số học sinh còn
lại làm cổ động viên cho hai đội. Giáo viên sẽ phát cho mỗi đội 1 cây bút dạ.
Các thành viên trong mỗi đội sẽ lần lượt ghi diện tích của hình chữ nhật vào
giữa các hình chữ nhật đã cho sẵn. Thời gian chơi là 5 phút, đội nào xong trước,
kết quả đúng thì sẽ là đội thắng cuộc.
Bước 3: Tiến hành chơi
Sau khi đã chuẩn bị xong, giáo viên sẽ dán 2 tấm giấy A0 lên bảng và
phát lệnh “bắt đầu”, học sinh bắt đầu chơi.
5cm
15cm

2

3cm
6cm2

2cm


3cm

23


7cm
28cm2

2cm
4cm

8cm2 4cm

Bước 4: Nhận xét, đánh giá
Giáo viên và học sinh dưới lớp sẽ lần lượt kiểm tra kết quả của hai đội,
giáo viên tuyên bố đội thắng cuộc.
* Nhận xét:
Trò chơi học tập rất phong phú, đa dạng, phù hợp với trẻ, tạo hứng thú,
giúp cho giờ học toán đỡ căng thẳng, khô khan. Song việc vận dụng các trò chơi
trong các tiết dạy phải phù hợp với nội dung, mục tiêu của bài học đó.
Để phát huy được hết hiệu quả của trò chơi dạy học thì giáo viên cần lưu
ý đến một số điểm sau đây:
+ Trò chơi được chọn để tiến hành chơi phải phù hợp với đối tượng, đặc
điểm của học sinh.
+ Việc chuẩn bị các đồ dùng, dụng cụ phục vụ trò chơi phải được coi
trọng, chu đáo.
+ Trò chơi phải kích thích được mọi đối tượng học sinh trong lớp tham
gia một cách tích cực.
+ Giáo viên cần động viên, khích lệ tất cả học sinh tham gia các trò chơi.
Các trò chơi ở tiểu học thường được tổ chức theo nhóm, theo cá nhân

ngay trong lớp học với thời gian tiến hành rất ngắn. Giáo viên cần hướng dẫn
một cách cụ thể cách chơi, tiến hành chơi, đánh giá, nhận xét. Trong mỗi trò
chơi giáo viên luôn là người “chủ trò”, vì vậy giáo viên cần biết tạo cho học
sinh không khí vui vẻ, thoải mái sau mỗi tiết học căng thẳng.
2.2.4. Tập luyện cho học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng hình học vào
giải toán, nhất là các bài toán có nội dung thực tế
2.2.4.1. Ý nghĩa của việc vận dụng các kiến thức, kĩ năng hình học vào giải
toán
Việc vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào giải toán giúp học sinh
khắc sâu, nhớ kĩ và vận dụng đúng các kiến thức của mình vào giải toán, đặc
biệt là các bài toán có nội dung thực tế.
Nó còn có ý nghĩa quan trọng đó là giúp học sinh tìm kiếm tri thức, cách
giải, cách vận dụng các bài toán vào thực tế. Từ đó phát huy được tính độc lập,
sáng tạo, tính tích cực nhận thức…của học sinh.
Đối với mỗi bài toán mà giáo viên đưa ra, giáo viên cần gợi ý, hướng dẫn
học sinh xác định các kiến thức, kĩ năng hình học cần thiết để giải được bài toán
đó.
24


Khi học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào giải toán sẽ giúp cho
học sinh khắc sâu những kiến thức đã được học. Để phát huy được những hiệu
quả mà biện phát này mang lại thì giáo viên cần hướng dẫn, dẫn dắt một cách
dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh.
2.2.2.2. Quy trình tiến hành
Bước 1: Tìm hiểu bài toán
- Trước hết yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài.
- Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh phân tích bài
toán.
Bài toán cho biết gì?

Bài toán hỏi gì?
Yêu cầu học sinh tìm ra cách để giải bài toán.
Bước 2: Yêu cầu học sinh giải bài toán.
Bước 3: Nhận xét, đánh giá.
2.2.2.3. Ví dụ minh họa
* Ví dụ 1: Khung của một bức tranh là hình vuông có cạnh là 50cm. Hỏi chu vi
của khung bức tranh đó bằng bao nhiêu mét?
Để giải được bài toán này, học sinh phải nắm được các kiến thức, kĩ năng
sau:
+ Quy tắc, công thức tính chu vi hình vuông.
+ Quy tắc chuyển đổi đơn vị.
Quy trình giải các bài tập:
+ Trước hết yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài.
+ Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh phân tích
bài toán.
. Bài toán cho biết gì? (Khung cảu một bức tranh là hình vuông có cạnh
50cm)
. Bài toán yêu cầu gì? (Tính chu vi của khung bức tranh)
. Muốn tính chu vi của khung bức tranh ta làm như thế nào? (Lấy cạnh
của khung tranh nhân với 4)
. Vì sao em lại tính được như vậy? (Bởi vì khung tranh là hình vuông, mà
chu vi hình vuông bằng cạnh của nó nhân với 4)
. Sau khi tinh được kết quả ta phải làm gì? (Đổi đơn vị của kết quả)
Đến đây, giáo viên yêu cầu một học sinh đưa ra lời giải cụ thể:
Bài giải
Chu vi của khung bức tranh là:
50 x 4 = 200 (cm)
Đổi: 200cm = 2m
Chu vi của khung bức tranh là: 2m
Đáp số: 2m

25


×