Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn tiếng việt CGD 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.67 KB, 16 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT CGD1

Quảng Bình, tháng 5 năm 2020


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT CGD1

Họ và tên: Mai Thị Nương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học số 2 An Thủy

Quảng Bình, tháng 5 năm 2020


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
"Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”.
Trẻ em là thế, trong sáng, hồn nhiên như một trang giấy trắng. Khi mới bước vào


lớp 1, các em sẽ vô cùng bỡ ngỡ vì mọi thứ xung quanh đều mới lạ.Từ hoạt động vui
chơi chuyển sang hoạt động học tập quả là vấn đề vô cùng khó khăn đối với trẻ. Trẻ sẽ
không được vui chơi, không được nô đùa thoải mái như trước nữa.Trẻ sẽ phải nhận ra
một điều:” Mình đã lớn thêm một tuổi, phải đến trường để học chữ”. Trẻ sẽ học gì ? :
học ăn, học nói, học gói, học mở… Học để nên người. Khi trẻ mới bước vào tuổi cắp
sách, đầu tiên là sẽ học cách nói, cách chào…Quan trọng hơn cả là triết lý nền tảng của
công nghệ giáo dục, đó là phải làm sao khi trẻ đi học, trẻ vừa chiếm lĩnh được tri thức
vừa nhận thấy một cách tự nhiên: Đi học là hạnh phúc, chiếm lĩnh tri thức là hạnh phúc.
Vì sự trưởng thành và phát triển của trẻ, cho trẻ cảm thấy: ”Mỗi ngày đến trường náo
nức một ngày vui”.
Đến trường, các em được học nhiều môn học và các hoạt động giáo dục.Mỗi môn
học giúp cho các em được hiểu biết thêm các lĩnh vực khác nhau.
Đối với môn Tiếng Việt CGD lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là
điểm xuất phát của cả quá trình chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt mở đường cho các
em đi vào thế giới của sự phong phú và đa dạng, giúp các em biết vận dụng những kiến
thức đã học vào cuộc sống hằng ngày một cách thực tế. Các em học tốt Tiếng Việt ở
lớp Một thì tạo cơ hội, tiền đề để tiến bước lên các lớp trên, nắm bắt và tạo cơ hội
chiếm lĩnh các kiến thức mới, không những thế mà còn thuận lợi cho việc học tập các
môn khác nữa. Để đạt được điều đó người thầy cần phải linh động, phải có cách tổ chức
lớp học một cách khoa học, chặt chẽ, sáng tạo, thực hiện đúng theo quy trình bốn việc
tạo cơ hội cho học sinh lĩnh hội, chiếm lĩnh kiến thức một cách tích cực, chủ động và có
tính sáng tạo.
Thực tế hiện nay , dư luận đã có nhiều ý kiến xung quanh sách tiếng Việt công
nghệ lớp 1 và việc dạy học Chương trình Tiếng Việt công nghệ giáo dục lớp Một. Là
một giáo viên đã và đang trực tiếp giảng dạy Tiếng Việt 1.CGD, bản thân tôi rất tâm
huyết, nhiệt tình. Đơn vị chúng tôi đã thực hiện bốn năm. Tôi được tập huấn chu đáo và
học hỏi những giáo viên có kinh nghiệm trong giảng dạy. So với chương trình cải cách
thì đây là một chương trình đi từ âm thanh sang chữ (viết) và từ chữ trở lại âm thanh
(đọc). Bản thân tôi là một giáo viên được phân công giảng dạy lớp 1 năm học 2018 –
2019 và năm 2019 - 2020. Mới đầu rất khó khăn, nhưng dần cũng đã quen. Tuy nhiên

bản thân tôi đã cố gắng giảng dạy thật tốt, luôn đam mê,tận tụy với nghề, luôn tạo môi
trường tốt nhất cho các em học tập. Tôi luôn mong muốn học sinh của mình chăm
ngoan, học giỏi. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy học sinh, bản thân tôi luôn trăn


trở, suy nghĩ mình phải làm gì, làm như thế nào, bằng những bước cụ thể ra sao để nâng
cao hiệu quả cho học sinh. Đó là lí do tôi chọn sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học môn Tiếng việt CGD 1”.
2. Điểm mới của sáng kiến.
Điểm mới của sáng kiến là n goài các phương pháp dạy học quen thuộc hằng
ngày mà giáo viên sử dụng, trong quá trình lên lớp giáo viên mạnh dạn, linh hoạt kết
hợp một số phương pháp dạy học nhằm phát huy sự sáng tạo của học sinh; kích thích
hứng thú học tập cho các em . Đối tượng là học sinh lớp 1, các em còn nhỏ, nội dung
học về luật chính tả nhiều nên giáo viên phải tìm nhiều biện pháp để cho các em khắc
sâu và ghi nhớ lâu trong suốt quá trình học tạo thành kĩ năng để vận dụng vào thực tế .
Mặt khác tôi muốn đưa vào sáng kiến những điểm mới về nội dung đánh giá
thường xuyên môn Tiếng Việt nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Hơn thế nữa tôi mong muốn góp tiếng nói để khẳng định chất lượng học sinh có
nhiều chuyển biến tích cực, học sinh nắm chắc Tiếng Việt, giao tiếp tốt, viết ít sai chính
tả. Không những thế mong muốn được đồng tình và chia sẻ quan điểm về tài liệu tiếng
Việt công nghệ lớp 1. Đó là: tài liệu thiết kế theo nguyên tắc “Thầy giao việc- trò thực
hiện nên đã hình thành được ở giáo viên phương pháp dạy tích cực, học sinh học tích
cực. Tài liệu thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy vì vậy giáo
viên không cần phải soạn bài, có thời gian cho việc chuẩn bị và nghiên cứu bài dạy đạt
hiệu quả cao hơn. Kiến thức và năng lực của giáo viên được nâng lên qua quá trình dạy
học.
II. PHẦN NỘI DUNG
A. THỰC TRẠNG:
Năm học 2019-2020 là năm thứ tư trường chúng tôi thực hiện giảng dạy Tiếng
Việt lớp Một theo chương trình Công nghệ giáo dục. Sau nhiều năm thực hiện là một

giáo viên trực tiếp dạy bản thân tôi nhận thấy có những khó khăn và thuận lợi như sau:
1. Thuận lợi:
Đơn vị chúng tôi được sự quan tâm của chính quyền địa phương và các cấp Đảng
uỷ đã tạo điều kiện tốt cho công tác giáo dục của trường học. Chi bộ và ban giám hiệu
nhà trường luôn chỉ đạo sát sao tới công tác dạy và học nói chung và dạy học tiếng việt
công nghệ 1 nói riêng.
Mặt khác,cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang là điều kiện thuận lợi cho việc tổ
chức các hoạt động dạy học đáp ứng việc đổi mới phương pháp dạy hoc.
Dạy học theo chương trình Tiếng việt Công nghệ giáo dục giáo viên phát huy được
tính tích cực của học sinh, giờ học diễn ra sôi nỗi, hào hứng; học sinh nắm được cách
phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định được các âm trong một tiếng như: âm đầu, âm
đệm, âm chính, âm cuối. Việc sử dụng kí hiệu thay cho lời nói của GV đỡ mất thời gian.
Quy trình đọc và phân tích tiếng rất kĩ, HS học sôi nổi. Hướng dẫn tập viết cụ thể, chi


tiết, tỉ mỉ giúp học sinh viết đúng độ cao chữ, viết đúng luật chính tả. Hình thức phân
tích tiếng bằng vỗ tay nên làm cho tiết học sôi nổi, các em hứng thú học tập.Tài liệu
sách thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy.
Phụ huynh đồng thuận cao,luôn quan tâm và đồng hành cùng nhà trường, cùng
giáo viên trong việc hướng dẫn , kèm cặp học sinh học tập.
2. Khó khăn:
Bản thân được giảng dạy năm nay là năm thứ hai theo chương trình CGD nên
cũng gặp khó khăn. Đó là:
Đối với học sinh vùng nông thôn như đơn vị chúng tôi, các em có vốn từ ít, kỹ
năng giao tiếp chưa tốt đôi khi các em chưa tiếp thu kiến thức kịp bằng các bạn trong
các hoạt động học tập, cũng như nhận và hoàn thành nhiệm vụ.
Một số học sinh còn chưa nắm vững luật chính tả từ đó viết chính tả còn sai lỗi.
Các em còn phát âm sai các âm, vần, tiếng.
Lượng bài tập đọc, bài viết chính tả dài nên cũng gặp nhiều khó khăn.
Một số ít phụ huynh nôn nóng trước việc học của học sinh nên về nhà hướng dẫn

cho học sinh chưa đúng, làm phá vỡ quy trình, ảnh hưởng đến hiệu quả một số tiết, bài.
Một số phụ huynh trẻ đi làm ăn xa , gửi con cho ông bà nuôi dạy , chăm sóc do đó
việc quan tâm , mua sắm đồ dùng học tập, kiểm tra con cháu cũng gặp không ít khó
khăn , làm ảnh hưởng chất lượng chung của lớp.
Hiện nay các kênh truyền thông đa dạng, nội dung đa chiều,trong đó có nhiều
thông tin trái chiều về dạy học Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục . Vì vậy nếu công tác
tuyên truyền chưa kịp thời cũng sẽ phần nào gây hoang mang, dao động trong phụ
huynh.
Khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt ( giữa học kì 1) năm học: 2019-2020
(Trước khi áp dụng giải pháp)
Lớp
1B(25HS
)

Điểm 9 - 10
SL
%
9
36

Điểm 7 - 8
SL
%
5
20

Điểm 5 - 6
SL
%
8

32

Điểm dưới 5
SL
%
3
12


B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC MÔN TIẾNG
VIỆT CGD1
Sau khi tìm hiểu những nguyên nhân nói trên, với trách nhiệm của một giáo viên
chủ nhiệm, tôi đã tìm ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng
Việt CGD1.
1. Thực hiện dạy tốt tuần 0.
Ngay từ những tiết học đầu tiên, bản thân tôi đã xác định rõ nhiệm vụ để giúp các
em làm quen với môi trường học tập. Biết nhận việc, hiểu rõ cách làm, tự mình làm và
kiểm soát quá trình làm. Tôi đã chú trọng tập cho học sinh có tác phong nhanh nhẹn,
mạnh dạn ,có tính kỉ luật. Việc hình thành các kĩ năng ở tuần 0 là rất quan trọng, đến
với những tiết học đầu tiên tất cả đều mới mẻ, lạ lẫm, phải biết rằng mọi thao tác, mọi
tư thế, lời nói, cách giao tiếp,... được hình thành trong giai đoạn này và sẽ theo các em
trong suốt cuộc đời học tập, công tác. Những thói quen, những thao tác, những tư thế,
tác phong đúng, đẹp sẽ rất có lợi lâu dài cho các em và ngược lại
Để cho các buổi học đầu tiên được diễn ra nhẹ nhàng, hấp dẫn mà hiệu quả, làm
cho học sinh thấy thật hạnh phúc khi được đến trường bản thân tôi phải đa dạng hóa
việc tổ chức dạy học để các em khỏi nhàm chán và các trò chơi đó cần tiến hành ở giữa
tiết học, chuyến tiết học. Thông qua việc học 2 tuần 0 sẽ giúp các em làm quen với cô
giáo, cũng như các bạn trong lớp.Từ đó phát triển vốn từ và khả năng giao tiếp một
cách tự nhiên ở các em, giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp, cũng như việc nhận và
hoàn thành nhiệm vụ.

Ở tuần 0, tôi đã chú trọng dạy cho các em làm quen với bộ kí hiệu: kí hiệu 4 mức
độ đọc, kí hiệu hoạt động cá nhân, nhóm 2, nhóm 4, các kí hiệu về sách, vở, bảng, đồ
dùng học tập, tư thế viết bảng con, cách cầm viết, xóa bảng, sách giáo khoa, bút chì, đặc
biệt các em nắm và viết được các nét cơ bản. Học sinh nắm chắc những điều đó, thì khi
giáo viên giao việc học sinh sẽ thực hiện tốt hơn.
2. Thực hiện dạy đúng ,đảm bảo quy trình 4 việc
Chương trình CGD đòi hỏi đội ngũ giáo viên lớp 1 phải linh hoạt, sáng tạo trong
tổ chức lớp học, buộc học sinh phải tham gia vào quá trình học tập, qua đó bộc lộ và
phát huy tính tích cực, hình thành kĩ năng tự học.
Đối với phương pháp dạy học, chương trình đã tiếp cận cao đến yêu cầu tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh chuyển từ thiết kế bài học theo 5 bước lên lớp
truyền thống sang 4 việc, dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự chiếm
lĩnh tri thức và hoàn thiện kỹ năng một cách tối đa nhất.
Nhằm giúp cho bản thân giảng dạy CGD1 có hiệu quả, tôi đã thâm nhập kĩ quy
trình 4 việc và vận dụng linh hoạt, mềm dẻo,không cắt xén, bỏ bước.
Chẳng hạn: Đối với quy trình dạy vần:


Việc 1: Thao tác trên vật thật để rút ra âm vị
Việc 2: nắm được âm vị HS biết thay thề âm vị để nắm chắc trong đầu âm vị đó
và cụ thể hóa bằng chữ viết.
Việc 3: Từ vật thay thế đó lại trở về với vật thật.
Việc 4: Củng cố, đánh giá cả 3 việc trên bằng cách cho HS viết lại các tiếng, vần
đã học bằng chữ từ cách đánh vần, phân tích và ghi lại bằng con chữ cụ thể.
Trong dạy học, để thể hiện rõ quy trình 4 việc tôi đx vận dụng trong các hoạt
động dạy học nhuần nhuyễn, hợp lý .Thông thường, tôi thực hiện như sau:
*Mở đầu: Tôi cho học sinh nhắc lại vần đã học theo mẫu nào ? ( Mẫu an- vần có
âm chính và âm cuối)
- Thay âm chính bằng âm khác, thêm dấu thanh. Nêu luật chính tả ghi dấu thanh.
- Vẽ mô hình

- Học âm mới bằng cách thay âm chính a bằng một âm khác
- Tổ chức nhận xét.
*Bài mới
Việc 1: Học vần mới
Giới thiệu tiếng.
Phân tích tiếng.
Vẽ mô hình vần.
Tìm tiếng mới có vần mới học.
Việc 2: Viết
Hướng dẫn viết chữ
Hướng dẫn viết vần
Hướng dẫn viết vở “ Em tập viết”.
Việc 3: Đọc
Đọc chữ trên bảng lớp
Đọc sách Tiếng việt CGD lớp1.
Cho các em đọc thầm, đọc theo nhóm đôi và tổ chức đọc thi đua trước lớp. Với
tính chất thi đua như thế sẽ giúp HS hứng thú rất nhiều, đồng thời phát huy được việc tự
đánh giá của HS trong lớp.
Việc 4: Viết chính tả.
Viết bảng con.
Viết vở chính tả
Thu vở chấm bài, nhận xét để học sinh rút kinh nghiệm (Trong quá trình viết
chính tả nếu gặp trường hợp dùng luật chính tả thì dừng lại và cho học sinh nhắc lại luật
chính tả).
Thực hiện nhuần nhuyễn quy trình 4 việc trong tiết tiếng Việt sẽ giúp học sinh có
thói quen tốt trong học tập; giáo viên thuộc quy trình và làm theo quy trình đó mới
chính thực sự là công nghệ.Thực hiện tốt quy trình 4 việc hoc sinh tập trung chú ý ,


hiệu quả tiết dạy đạt cao, là điểm quan trọng để nâng cao chất lượng môn tiếng Việt 1công nghệ giáo dục.

3. Linh hoạt đổi mới phương pháp và hình thức dạy học khác nhau:
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích
cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm
tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, tôi không
ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp
các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh,
xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.Muốn dạy tốt thì giáo viên
cần vận dụng linh hoạt nhiều hình thức tổ chức và sử dụng một số phương pháp dạy
học.
Ngoài các phương pháp dạy học quen thuộc hằng ngày mà giáo viên sử dụng,
trong quá trình lên lớp giáo viên mạnh dạn, linh hoạt kết hợp một số phương pháp dạy
học sau. Chẳng hạn:
Phương pháp làm mẫu: Giáo viên thực hiện mẫu trước lớp để phân tích tiếng
/ca/, /cà/…
học sinh thực hiện theo.
Phương pháp phân tích mẫu: Giáo viên phân tích các tiếng bằng cách chỉ vào
mô hình kết hợp vừa chỉ tay vào mô hình vừa nói to lần lượt (1),(2),(3),(4) ( vừa
tách ra vừa nhập lại) Ví dụ:
ba
(1)
(4)

(2)

b
â

a a

(3)


Phương pháp hỏi đáp: Qua bài đọc giáo viên khai thác nội dung bài đọc qua một
số câu hỏi giúp học sinh khắc sâu nội dung bài học.
Phương pháp trực quan….
Kết hợp với nhiều hình thức dạy học như: Học theo lớp, học theo tổ, học theo
nhóm, học theo cá nhân.
4. Nắm và thực hiện tốt các mẫu bài và dạng bài:
Việc tổ chức dạy học không mang tính áp đặt, phát huy được tính tích cực, chủ
động của các em, phát huy tối đa phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Học
sinh có kĩ năng ghi mô hình, phân tích các tiếng. Giáo viên ít làm việc, việc dạy chủ yếu
dùng kí hiệu, sách thiết kế rõ ràng cụ thể.
Lập mẫu thực hiện quy trình 4 việc rõ ràng, rành mạch.
Lời nói ngắn gọn, chậm, nhẹ nhàng, thân thiện.
Phát âm và viết mẫu phải chuẩn, chính xác.


Câu lệnh của giáo viên cần phải dứt khoát, rõ ràng. HS thực hiện theo đúng yêu
cầu của giáo viên, hoạt động giữa GV- HS cần diễn ra nhịp nhàng.
Thực hiện theo “ký hiệu” trên bảng hoặc ký hiệu bằng tay của giáo viên. Giáo
viên không phải nói nhiều mà phải ưu tiên các hoạt động cho học sinh.
Yêu cầu đối với học sinh là thuộc bảng chữ cái, âm tiếng việt. Biết kết hợp đọc
và viết được âm khi học, tập ghép vần và phân tích.
Biết phân biệt nguyên âm và phụ âm, biết cách lập mẫu và dùng mẫu, phân tích
vần, tiếng, đọc được theo các mức độ to – nhỏ - nhẩm - thầm theo lệnh và ký hiệu của
giáo viên. Biết phân biệt đâu là âm đệm, âm chính đâu là âm chính và đâu là âm cuối,
học về luật chính tả biết phân biệt được luật chính tả về âm đệm, nguyên âm đôi.
*Lưu ý khi dạy các mẫu bài:
- Không để học sinh đánh vần theo cách cũ.
- GV cần nói gọn, rõ, chậm chắc, tỉ mỉ, giáo viên nói học sinh phải nghe.
- Cần có nề nếp, tạo cho học sinh tâm thế đón nhận nhiệm vụ mới

- Cần đảm bảo hai phẩm chất: Nói ít, chữ đẹp.
- Có tính linh hoạt và sáng tạo trong học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy Mẫu 1- ba Vần chỉ có âm chính. Thực hiện quy trình 4 việc và
nhấn mạnh ở việc 1. Phát âm, phân tích, vẽ mô hình. Khai thác ở phần mô hình:
Đưa tiếng /ba/ vào mô hình.
Hỏi phần đầu và phần vần là loại âm gì? Sau đó nhấn mạnh đây là kiểu vần chỉ
có âm chính.
Tìm tiếng có âm, vần đã học.
5. Rèn cách viết đúng chính tả
Trong chương trình CGD1, nội dung về Luật chính tả ít được dạy thành bài riêng,
kể cả các tiết Luyện tập cũng thiết kế ngắn gọn, đó là điều rất khó đối với giáo viên.
Hầu hết giáo viên đều nhận thấy hai điểm nổi bật của chương trình đó là: tính vững
chắc và sự phù hợp với mọi đối tượng học sinh, cho dù học sinh là người Kinh hay
người dân tộc thiểu số, học sinh ở vùng thuận lợi hay vùng khó khăn, học sinh có được
chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1 hay chưa thì chương trình cũng từng bước giải
quyết được việc dạy Tiếng Việt một cách hiệu quả nhất. Thông qua chương trình này,
học sinh nắm chắc về Nguyên âm, Phụ âm, biết chắc chắn một vần, một tiếng cụ thể có
thể ghép với bao nhiêu thanh. Đặc biệt là học sinh nắm chắc được Luật chính tả.
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho học
sinh, giúp các em phân biệt các âm đầu, âm chính, âm cuối qua giọng đọc mẫu của giáo
viên.
Việc rèn phát âm được thực hiện thường xuyên trong các tiết học.
Trong các bài chính tả , tôi thường xuyên hướng dẫn các em phân tích về cấu tạo
tiếng rồi so sánh những tiếng dễ lẫn lộn, luyện viết bảng con trước khi viết vào vở.


Ví dụ : Khi viết tiếng "thành", học sinh dễ lẫn lộn với tiếng "thần", tôi yêu cầu học sinh
phân tích cấu tạo 2 tiếng này đồng thời giải nghĩa từ để các em hiểu và viết đúng.
Mặt khác , Muốn viết chính tả tốt trước hết HS phải được luyện đọc nhiều và đọc đúng
(tăng cường đọc cá nhân để sửa lỗi)

Tôi thường xuyên nhắc các em về tư thế ngồi viết vừa để có được tư thế ngồi học
đúng, vừa viết đẹp.
Trong quá trình dạy học, tôi chú trọng về cách dạy Luật chính tả của TV1.CGD.Đó là:
Âm /cờ/ đứng trước e,ê,i viết bằng con chữ /ca/ : ki, ke, kê
Âm /c/ đứng trước âm đệm ghi bằng con chữ q, âm đệm ghi bằng con chữ u:
quai, quê…
Âm /gờ/, /ngờ/ đứng trước e,ê,i viết bằng con chữ /gh/, /ngh/.
Dấu thanh được đặt trên đầu âm chính.
Luật chính tả nguyên âm đôi /uô/, ươ/, /iê/ khi viết 1 mình dấu thanh được đặt ở
âm thứ nhất, khi có âm cuối thì dấu thanh được đặt ở âm thứ 2…(nguyên âm đôi được
viết iê hoặc ya: tiên, khuya…
Thường xuyên nhắc lại luật chính tả khi đọc hay viết gặp lại những từ có liên
quan đến luật chính tả. Tôi cho các em đọc luật chính tả đến đâu thực hành viết vào
bảng con đúng chữ đó ( Âm /cờ/ đứng trước âm đệm ghi bằng con chữ q, HS viết chữ
q…), Hoặc cho HS nhận diện luật chính tả sau khi GV viết xong.
Ví dụ 1: Tuần 10 tiết 5, 6 Vần / oe / việc 1 mục 1d
1d. Tìm tiếng mới .
T. ( Giao việc ) Viết tiếng / loe / .
H. Viết: loe
T. Thay âm đầu trong tiếng / loe /, em có tiếng gì ? ( Chú ý chia các phụ âm đầu
cho từng tổ, H thuộc tổ nào thì dùng phụ âm đầu cho tổ đó ).
H. 1H viết ở bảng lớp, H khác viết ở bảng con. Lần lượt nêu tiếng của mình,
chẳng hạn : boe , choe , doe , đoe , goe .
T. Em viết: Khoe .
H. Viết : Khoe ( viết xong , đọc to )
T. Em thay thanh để tạo ra tiếng mới. Em nhớ luật chính tả về vị trí đặt dấu
thanh .
H. Khòe, khóe, khỏe, khõe, khọe .
T. Dấu thanh đặt ở đâu ?
H. Dấu thanh đặt ở chữ ghi âm chính / e /.

T. Em viết: que. Em lưu ý luật chính tả âm / cờ / đứng trước âm đệm.
H. H viết: que.
T. Em hãy thêm thanh vào / que / để tạo ra tiếng mới .
H. què , qué , quẻ , quẽ , quẹ .
T. Luật chính tả về âm đệm .


Khi viết chữ có âm đệm, em cần lưu ý :
- Dấu thanh đặt ở chữ ghi âm chính .
- Âm / cờ / đứng trước âm đệm, ghi bằng chữ q, âm đệm ghi bằng chữ u. Như
vậy, một âm đệm có thể ghi bằng hai chữ : o hoặc u.
Ví dụ 2: Tuần 20: tiết 1. Việc 2. Mục 2b và 2c
2b: Luật chính tả với nguyên âm /uô/
T. Đọc các từ chứa tiếng có nguyên âm /ua/ cho H viết.
H. Viết ở bảng con: buôn buốt; tuồn tuột, tua tủa, sáng sủa.
T. Em đã viết nguyên âm /ua/ trong các tiếng theo luật chính tả nào?
H. Theo luật chính tả, nếu âm chính /ua/ có âm cuối đi kèm, thì quy ước viết uô:
uôn.
2c: Luật chính tả nguyên âm /ươ/
T. Đọc cho H viết bảng con các từ chứa tiếng có nguyên âm /ưa/.
H. Viết ở bảng con: sườn sượt, thườn thượt, lưa thưa, sửa chữa.
T. Em đã viết nguyên âm /ưa/ trong các tiếng theo luật chính tả nào?
H. Âm /ươ/ trong vần có âm cuối viết ươ, ở vần không có âm cuối thì viết ưa.
T. Đọc cho H viết bảng con các từ chứa tiếng có nguyên âm /ia/
H. Viết bảng con: về khuya, khuyên răn, khuyết tật.
T. Em đã viết nguyên âm /ia/ trong các tiếng theo luật chính tả nào?
H. Khi vần không có âm cuối thì viết ia.
Khi vần có âm cuối thì viết iê.
6. Tăng cường phụ đạo kèm cặp học sinh chậm tiến
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học

sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác
tối đa bài giảng của giáo viên , nhất là đối với học sinh chậm tiến . Ở các em có sự khác
biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ so với những học sinh
khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra
những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi
vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao
đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Trước hết , bản thân đã tìm hiểu nguyên nhân học sinh khi học không đồng đều
để phân loại học sinh, từ đó có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ thêm.
Ngoài giờ học chính khóa, kết hợp phụ đạo kèm cặp thêm những học sinh chậm
tiến vào đầu và cuối buổi học. Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh trong lớp hợp lí để các em
hỗ trợ nhau.
Rèn kĩ năng đọc đúng, đọc thật chuẩn và chính xác bài đọc. Luyện đọc cá nhân
nhiều và nhận xét lẫn nhau.


7. Sử dụng các trò chơi học tập để thay đổi không khí, phát huy tính tích
cực , sáng tạo của học sinh.
Để cho các em ghi nhớ và khắc sâu các kiến thức đã học, người giáo viên phải làm
cho lớp học sôi nổi, học sinh thoải mái trong học tập. Chính vì điều đó, giáo viên phải
tạo ra những trò chơi học tập để làm cho không khí sôi nổi, tích cực, đồng thời củng cố
kĩ năng.
Ví dụ: Trò chơi “Đi chợ”: Khi dạy bài âm /o/, tuần 6 tổ chức trò chơi “Đi chợ”
để các em tìm và phân tích được tiếng mới có âm /o/ đã học giúp các em hứng thú học
tập hơn.
Trò chơi“Tinh mắt tìm chữ” (Chữ thường hoặc chữ in)
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ phiếu có ghi lẫn lộn các âm đã học, mỗi âm
được lặp lại nhiều lần. (ví dụ: ph ch d m ph m ch d ph m ch d….), sau khi người điều
khiển trò chơi phát lệnh: khoanh vào chữ ph, học sinh sẽ khoanh vào tất cả những chữ
ph có trong phiếu, đếm số và báo cáo, tiếp tục chơi với các chữ còn lại. (Để thú vị hơn,

giáo viên có thể viết ngược hoặc viết nghiêng lại các chữ đó).
Trò chơi: “Bắn tên” Quản trò hô: Bắn tên, bắn tên và khi bắn trúng tên bạn nào
thì bạn đó nêu tiếng của mình vừa tìm được và cả lớp phân tích. Trò chơi cứ tiếp tục
diễn ra trong khoảng thời gian cho phép.
Ngoài các trò chơi liên quan đến phát huy tính tích cực của học sinh tôi mạnh dạn
đưa thêm một số trò chơi khác liên quan đến tính vui chơi, giải trí giúp học sinh thoải
mái tạo hứng thú trong học tập, như trò chơi: “ Gọi thuyền”. Trò chơi: “ Chào bạn”…
8. Chú trọng rèn luyện các thủ thuật ghi nhớ các âm, vần trong Tiếng việt
lớp 1-CGD
Bản thân tôi phải cố gắng rèn luyện để phát âm chuẩn nhằm giúp học sinh phát
âm theo.Tôi chỉ phát âm một lần, cần rõ ràng, và chính xác.
Đối với các em còn chậm,tôi chú trọng đến các em nhiều hơn. Nếu các em phát
âm còn sai âm mới,tôi đến gần phát âm lại 2-3 lần, giúp các em sửa chữa và nắm được,
nắm chắc các âm đó.
Mặt khác , tôi tập trung rèn cần nắm được đó là nguyên âm hay phụ âm( thông
qua việc phát âm), để đưa vào mô hình phân tích tiếng cho đúng.Tránh nhầm lẫn khi
đưa vào mô hình( phần đầu là phụ âm, phần vần bao giờ cũng là nguyên âm).
Ví dụ:
ng
A
Phụ âm
Nguyên âm
Về phần vần, để học tốt phần vần của Tiếng việt lớp 1-CGD, trước hết tôi luyện
cho các em nắm chắc các âm đã học.
Ví dụ: Học vần /an/ học sinh biết vần an gồm có 2 âm, âm a đứng trước, âm n
đứng sau. Hơn thế nữa các em phải nắm chắc việc phân tích tiếng, vị trí các âm trong
mô hình.


Ví dụ: / hoa/

/ hờ/- / oa/ -/hoa/
Việc nắm chắc các mẫu vần đã học để khi đưa tiếng vào mô hình không bị sai.
Các em đôi khi còn sai khi đưa tiếng đã học vào mô hình.Vì vậy, tôi giúp các em nắm
chắc các mẫu vần, nếu sai giao viên kịp thời giúp học sinh sửa lỗi.
Về cơ chế đánh vần: thông thường các em còn nhầm lẫn cách đánh vần do ảnh
hưởng từ phụ huynh.Vì vậy giáo viên cần giúp các em nắm chắc cơ chế đánh vần với
các bước:
Bước 1: Tạm thời tách thanh ra để lại tiếng thanh ngang
Bước 2: Đọc tiếng thanh ngang
Bước 3: Trả lại thanh.
Đối với các học sinh chậm, nếu các em không đọc được, thì chúng ta cần chia
nhỏ ra nữa.
Ví dụ: Tiếng /bà/ các em không đọc được, thì cho các em phân tích ra:
/ bà/
/ ba/ -/huyền/ -/bà/, nếu không đọc được nữa, cho học sinh phân tích tiếng /ba/: /
bờ/- / a/ -/ ba/, không đọc được nữa thì gợi mở cho các em nhớ lại các nét cơ bản cấu
tạo nên / b/ và /a/.Nắm được cơ chế đó các em sẽ đọc được dù bất kể tiếng nào.
9. Đổi mới cách đánh giá học sinh.
Đánh giá kết quả học tập là đánh giá quá trình học tập của học sinh, diễn ra hàng
ngày, hàng tuần, với mục đích giáo viên nhận được một cách kịp thời các phản hồi hai
chiều từ phía giáo viên và từ phía học sinh, để có thể điều chỉnh và cải thiện hoạt động
dạy và hoạt động học, sao cho đảm bảo được mục tiêu dạy học.
Đánh giá về tiếng Việt 1- công nghệ giáo dục thực hiện đánh giá thường xuyên
và đánh giá định kì.
Đánh giá phải động viên sự tiến bộ của học sinh. Để đánh giá, tôi luôn xác định
những mẫu cần đạt.Mẫu chính là cái tôi muốn có ở học sinh, đó chính là cái đích, mẫu
hình lí tưởng của những sản phẩm tiếng Việt mà mỗi giờ học, mỗi nhiệm vụ giao cho
học sinh trong giờ học hướng tới.
Các kĩ thuật đánh giá thường xuyên tôi thường được dùng trong môn Tiếng Việt
là quan sát, vấn đáp nhanh, đánh giá sản phẩm của học sinh,bài tập trắc nghiệm,bài thực

hành. Để sử dụng các kĩ thuật đánh giá này, tôi luôn xác định được mẫu chuẩn đầu ra
của mỗi hoạt động trong giờ học Tiếng Việt. Mẫu chính là cái chúng ta muốn có ở học
sinh.Phải biết rõ khi giờ dạy kết thúc, học sinh có được những kĩ năng tiếng Việt gì,
phải dự tính được có thể kiểm tra những kĩ năng này bằng phép đo nào.
Chuẩn này cần được xây dựng thành các chỉ báo để có thể quan sát, đối chiếu,
đánh giá được.Ví dụ: Chỉ báo tư thế ngồi đọc ,chỉ báo đọc thành tiếng ;dạy đọc hiểu với
những câu hỏi/bài tập mở....
Để đổi mới đánh gia, tôi đã tự bồi dưỡng để rèn khả năng tạo các mẫu Tiếng Việt
theo các tiêu chí, chỉ báo đã xác định. Không được yêu cầu học sinh làm cái gì mà


chính bản thân mình không làm được( nguyên tắc bắt buộc) . Tôi chú trọng khả năng
tạo được những sản phẩm giao tiếp bằng ngôn ngữ mà mình muốn có ở học sinh, phải
có những kĩ năng Tiếng Việt thành thạo.Phải có lòng ham muốn đọc, nói, viết đúng và
hay, phải có ý thức tự điều chỉnh mình để đọc, nói, viết đúng hơn, hay hơn.
Trước giờ dạy, tôi phải tạo được các mẫu tiếng Việt một cách chắc chắn, nghĩa là
với nhiều lần làm mẫu khác nhau, tôi cố tạo ra được một mẫu không đổi.
Trong dạy học, tôi dự kiến các tình huống, biết trước học sinh có thể thực hiện
được những nhiệm vụ nào và cái gì là khó đối với các em để điều chỉnh hoạt động dạy
học cho phù hợp. Dự tính được học sinh sẽ có những sai phạm gì.
Chẳng hạn, nhờ nắm vững đặc điểm phương ngữ của học sinh nên giáo viên dự
tính được những từ ngữ các em sẽ phát âm sai do phương ngữ lệch với chuẩn chữ viết,
từ đó mà định ra được cần phải luyện cho các em phát âm những từ ngữ nào, ...
Khi chuẩn bị bài dạy, tôi phải hình dung rất rõ sản phẩm mẫu của mỗi hành động
dạy học, của toàn giờ học sẽ đạt được ở học sinh: một bài chính tả được viết đúng
chuẩn, không mắc lỗi, đẹp như thế nào, một bài tập đọc được đọc lên với âm thanh,
giọng điệu ra sao, cần phải hiểu nội dung của nó như thế nào …
C. Hiệu quả.
Sau thời gian thực hiện bản thân tôi nhận thấy chất lượng tiếng Việt nâng lên rõ
rệt.

Việc học về cấu trúc ngữ âm học (nguyên âm, phụ âm, âm chính, âm cuối, âm
đệm nó giúp học sinh hiểu quy luật để tạo ra từ mới hoặc vần mới. Ví dụ, ghép một phụ
âm (b, c, d...) với một nguyên âm (a, e...) sẽ tạo ra một từ mới (ba, ca, da, be, ce, de...),
từ này có thể có nghĩa hoặc không. Ghép một nguyên âm tròn môi (o, u, ô) với một
nguyên âm không tròn môi (a, e...) sẽ tạo thành vần mới (oa, oe, ua, ue...).
Phương pháp học tiếng, từ theo biểu tượng trực quan là hình vuông, tròn, tam
giác... với màu sắc sinh động,. Đối với học sinh lớp 1 - khi từ ngữ vẫn chưa rõ ràng thì
cách học bằng hình khối giúp các em thấy thú vị, dễ nhớ, dễ đánh vần hơn", .
Cách tách đôi mỗi từ, giúp việc đánh vần nhanh hơn. Ví dụ, từ "quy", học sinh
lớp đại trà sẽ đánh vần là "u-y-uy, quờ-uy-quy" thì học sinh học tài liệu Tiếng Việt lớp 1
Công nghệ giáo dục sẽ đánh vần là "cờ-uy-quy".
Phụ huynh không bị áp lực vì phải kèm cặp con học thêm ở nhà.
Kiến thức học sinh thu nhận được tốt, thậm chí nhanh và bản chất hơn học sinh
chương trình đại trà. Vì từ lớp 1 đã được tự do sáng tạo, tô màu hay chọn các hình khối
(biểu thị cho các tiếng) theo sở thích... nên phát triển ở các em được sự tự tin, tư duy
độc lập.
.

Khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt cuối học kì I năm học 2019 – 2020
(Sau khi áp dụng giải pháp)


Lớp
1B(25HS

Điểm 9 - 10
SL
%
17
68


Điểm 7 - 8
SL
%
7
28

Điểm 5- 6
SL
%
1
4

Điểm dưới 5
SL
%
0
0

)
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy học tôi thấy rằng chất lượng môn
Tiếng Việt được nâng lên rõ rệt góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Cụ
thể như sau:
Điểm 9 – 10: Tăng 32%
Điểm 7 - 8:

Tăng 8%

Điểm 5 – 6:


Giảm 28%

Điểm dưới 5: Giảm 12%
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài.
Ý nghĩa được rút ra từ sáng kiến kinh nghiệm đó là:
Để thực hiện việc viết đúng, viết đẹp phải thấy được sự gắn kết, hỗ trợ và tác động
lẫn nhau giữa các khâu đọc, nghe, nói, viết.
Mặt khác , phải tích cực tham khảo tài liệu trong và ngoài chương trình, học hỏi
đồng nghiệp để nâng cao trình độ, hình thức và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Phối hợp với GV bộ môn hình thành thói quen khi trả lời câu hỏi phải đầy đủ, đúng ý và
nói thành câu.
Giáo viên phải nắm vững phương pháp về Luật chính tả để đưa các hoạt động
một cách hợp lý.
Bản thân giáo viên phải chịu khó, kiên trì nhắc nhở hằng ngày, tìm các phương pháp
phù hợp .
2. Kiến nghị, đề xuất.
Đối với giáo viên:
Tăng cường dự giờ, rút kinh nghiệm.
Tích cực nghiên cứu nội dung bài học.
Linh hoạt hơn trong khi dạy, có thể tự làm các thiết bị dạy học tạo thêm sự phong
phú.
Cần có sự kết hợp với phụ huynh một cách khéo léo, lôi cuốn phụ huynh để phụ
huynh cùng đồng tình ủng hộ.
Đối với nhà trường: Tổ chức chuyên đề về dạy học chuyên sâu tiếng Việt 1-CGD


Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thử nghiệm thành công tại
đơn vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 1 -CGD. Rất mong
nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và bạn bè đồng nghiệp.




×