Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã vùng đặc biệt khó khăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.11 KB, 16 trang )

SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm (SKKN).
Người xưa từng quan niệm: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, nguyên
khí mạnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống
thấp. Vì vậy các bậc thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc “bồi dưỡng nhân
tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là việc đầu tiên”. Tiếp nối truyền thống ấy,
ngày nay Đảng và Nhà nước ta luôn xác định mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương mới về công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi. Đó là tiếp tục chú trọng xây dựng hệ thống các trường chuyên một
cách hoàn thiện hơn, khuyến khích và tôn vinh các học sinh xuất sắc đạt thành tích
cao. Các em học sinh có năng khiếu được học với chương trình nâng cao, phù hợp
với khả năng để phát huy năng khiếu của mình.
Hiện nay công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm không phải bất cứ
một nhà trường nào cũng làm tốt được, đặc biệt là những trường đóng trên địa bàn
đặc biệt khó khăn, xa trung tâm huyện lị, nơi mà dẫn trí còn thấp, người dân phải vất
vã với cuộc sống hằng ngày, việc đầu tư học tập cho con em còn hạn chế đặc biệt là
đầu tư cho những học sinh giỏi.
Nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò tầm quan trọng của nhiệm vụ phát hiện
và bồi dưỡng những học sinh có khả năng theo học bồi dưỡng các môn Văn hóa của
nhà trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Với trách nhiệm của người trực tiếp chỉ
đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường từ năm học 2008 – 2009 đến
nay, từ những thăng trầm của những này đầu chỉ đạo công tác bồi dưỡng đến những
kết quả đạt được khá tự hào trong hai năm trở lại đây, tôi đã rút ra “Một số giải
pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã vùng đặc biệt khó
khăn” đó là tên của SKKN mà tôi muốn chia sẽ cùng đồng nghiệp trong địa bàn
huyện và trên mọi miền đất nước.


Trang 1


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
Với đề tài chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi không phải là mới và được
nhiều cán bộ quản lí, giáo viên chắp bút. Song với việc thực hiện công tác này tại
những trường thuộc các xã đặc biệt khó khăn, thì đây là điểm mới của đề tài. Đề tài
không những giải quyết công tác bồi dường học sinh giỏi nói chung trong các nhà
trường mà còn đưa ra các hướng giải quyết cho các trường không được đóng trên địa
bàn thuận lợi.
2. Phạm vi áp dụng của SKKN.
Với SKKN này tôi chỉ đưa ra nhữmg giải quyết vấn đề về công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi nói chung và công tác này ở những vùng khó khăn nói chung. Do đó
phạm vi áp dụng của đề tài một phần cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở tất cả
các trường, nhưng áp dụng tốt nhất cho những trường đóng trên địa bàn các xã khó
khăn.
Trong phạm vi áp dụng của SKKN cho hai vấn đề về học sinh giỏi nói chung
và học sinh giỏi ở vùng khó khăn nói riêng. Trong hệ thống giải pháp nêu lên thể
hiện những vấn đề chung về bồi dưỡng học sinh giỏi, đồng thời đưa ra các giải pháp
cho những trường thuộc vùng khó khăn.

Trang 2


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”

PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.

1.1. Thực trạng về công tác học sinh giỏi trong giai đoạn hiện nay.
Đồng chí Lê Khả Phiêu nguyên Bí thư trung ương Đảng đã từng nói : "Về
nhân tài một mặt phải tìm được những cách thích hợp để phát hiện và bồi dưỡng
nhân tài, đồng thời cũng cần lưu ý là nhân tài sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền
dân trí rộng và trên cơ sở việc tổ chức đào tạo nhân lực tốt và nhân tài là người có trí
tuệ sắc bén và những người có bàn tay vàng có những kỹ năng đặc biệt ".
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đã nói : "Không có nền có gốc thì không có cây
cao bóng cả ". Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ có tay nghề thành thạo, có
phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên
tiến gắn liền với một nền khoa học công nghiệp hiện đại.
Gần đây theo điều tra về chỉ số trí tuệ của người Việt nam người ta thấy có từ
2- 5 % là những người xuất sắc, Khoảng 25- 30 % là khá, Khoảng 25- 30% trung
bình yếu, 2- 5 % yếu. Số còn lại là Trung bình.
Về học sinh : 3- 5 % là học sinh giỏi (Trong 20 vạn học sinh)
Vì thế việc phát hiện bồi dưỡng sử dụng các năng khiếu và tài năng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với nhà trường và xã hội và sự phát triển của đất nước.
Khắp nơi trong các tỉnh thành trên cả nước đều đẩy mạnh các phong trào thi
đua trong ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trong các
phong trào đó chúng ta luôn đề cao công tác bồ dưỡng nhân tài cho đất nước. Điều
đó thể hiện qua các cuộc thi học sinh giỏi quốc tế, cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp
huyện, thể hiện qua các cuộc thi qua mạng Internet… Tất cả các cuộc thi đó đều có
một mục tiêu chung là tìm kiếm và phát triển tài năng cho đất nước. Qua các cuộc
thi đó, chúng ta dễ nhận thấy rằng, những học sinh giỏi không phải lúc nào cũng đến
từng vùng thuận lợi, dân trí cao mà còn có những tấm gương đến từ những miền đất
còn khó khăn về kinh tế cũng như địa hình cách trở.
Trang 3


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”

Đối với học sinh giỏi của huyện nơi tôi công tác – là một huyện xa trung tâm
tỉnh lị, nhưng phong trào học sinh giỏi và chất lượng học sinh đại trà luôn đi đầu
trong toàn tỉnh. Trong ba năm trở lại đây thành tích học sinh giỏi đã có những đột
phá chuyển biến mạnh mẽ và đã đứng thứ nhất nhì trong toàn tỉnh. Trong những học
sinh đóng góp cho phong trào huyện nhà, ngoài những học sinh ở vùng thuận lợi còn
có sự đóng góp không nhỏ về thành tích của những học sinh vùng khó khăn.
1.2. Đặc điểm tình hình nhà trường nơi công tác.
1.2.1. Những thuận lợi:
Trường của tôi công tác được đóng trên địa bàn rộng, xã có truyền thống về
học sinh giỏi. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường trong suốt thời gian
qua được sự quan tâm sâu sát của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và
phòng Giáo dục - Đào tạo huyện. Ban Giám Hiệu nhà trường cùng với sự đồng
thuận của ác bậc cha mẹ học sinh và lòng nhiệt tình say mê khoa học của thầy và
trò.
Ban giám Hiệu trường đã đưa ra kế hoạch từ rất sớm (đầu năm học và được
định hướng từ năm học trước) nên giáo viên và học sinh có đủ thời gian để rèn luyện
và bồi dưỡng.
Quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường tiếp tục trên cơ sở của việc
dạy học đại trà, việc dạy của thầy và học của trò theo một nguyên tắc: học thật, thi
thật, chất lượng thật.
Đội ngũ giáo viên tham gia công tác bồi dưỡng HSG, đa số tâm huyết với
nghề, với trường, có năng lực chuyên môn khá tốt. Chi bộ, hội đồng nhà trường
đoàn kết thống nhất, môi trường sư phạm trong lành.
Nhà trường có số học sinh đông, nguồn bồi dưỡng có nhiều, đặc biệt là học
sinh khối 9 (hàng năm có từ 145 đến 170 học sinh).
Phần lớn phụ huynh học sinh rất tin yêu, ủng hộ trường,
1.2.2. Những khó khăn

Trang 4



SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
Trường đóng trên địa bàn xã đặc biệt khó khăn nên có rất nhiều vấn đề đặt ra,
đó là:
Phụ huynh tuy rất quan tâm đến việc học hành của con em, nhưng đa số là
nông dân nghèo, việc dạy học chủ yếu nhờ sự tâm huyết của giáo viên, hầu như
không có việc dạy gia sư hay một hình thức dạy thêm nào khác. Hoàn cảnh gia đình
học sinh còn khó khăn, nhà xa nên việc đi lại ảnh hưởng đến thời gian học.
Trường ở xa trung tâm của huyện (15 km), nên học sinh đi học bồi dưỡng khó
khăn đặc biệt về mùa mưa lụt.
Kinh phí cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi theo qui định của nhà nước
không có, vì vậy giáo viên bồi dưỡng chỉ được bố trí dựa trên số tiết dôi dư, nên
thành tích làm được chủ yếu bằng tinh thần trách nhiệm, bằng sự cống hiến, bằng sự
khích lệ danh dự, uy tín của giáo viên tâm huyết.
Tư liệu bồi dưỡng do ngành cung cấp còn ít. Phần lớn giáo viên dạy bồi dưỡng
đều phải tự soạn, tự tìm mua và tự nghiên cứu tài liệu.
Học sinh thường không yên tâm khi được chọn vào lớp bồi dưỡng HSG vì phải
mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến sức khoẻ và kết quả học tập chung.
1.2.3. Một số kết quả khi chưa áp dụng SKKN.
HSG cấp huyện

HSG cấp tỉnh

Năm học

(TS giải)
(TS giải
Đồng đội
Cá nhân

Cá nhân)
2007 - 2008
1
16
2
2008 - 2009
0
15
2
2009 - 2010
1
17
1
2010 - 2011
2
13
1
CỘNG
4
61
6
Như vậy trong một thời gian dài từ năm học 2007 - 2008 đến năm học 2010 2011 kết quả học sinh giỏi không xứng về tiềm năng về truyền thống cũng như năng
lực học và quy mô về số lượng học sinh trong nhà trường. Số lượng học sinh giỏi
cấp tỉnh hàng năm còn thấp trong lúc đó số lượng lớp 9 của nhà trường hàng năm có
từ 145 đến 170 học sinh.
Trang 5


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”

2. Các giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.1. Các giải pháp chung trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi áp dụng
vào vùng khó khăn.
2.1.1. Tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo Phòng GD - ĐT:
Là một huyện có truyền thống học sinh giỏi của tỉnh nhà, công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi luôn là một nhiệm vụ hàng đầu được mọi ban ban ngành quan tâm. Đặc
biệt lãnh đạo Phòng GD - ĐT đã đưa ra các giải pháp kĩ thuật về công tác bồi dưỡng
học sinnh giỏi cấp tỉnh, những giải pháp đó như liều thuốc hữu hiệu cho công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi cho từng giai đoạn, đồng thời các giải pháp đã huy động tất cả
các lực lượng bồi dưỡng vào cuộc. Từ những giáo viên tuyến 1 (giáo viên chính) đến
những giáo viên tuyến 2 (ở các trường), tuyến 3 (các giáo viên đã nghỉ hưu) và đặc
biệt là sự liên kết của các tuyến này tạo một nền tảng vững chắc cho việc truyền thụ,
tiếp sức cho học sinh. Song song giải pháp về con người, ban chỉ đạo học sinh giỏi
của huyện đã có những nổ lực tham mưu tăng chế độ bồi dưỡng cho giáo viên dạy
và tăng trưởng cơ sở vật chất, tài liệu cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi thi tỉnh.
Do đó việc nắm bắt tốt chỉ đạo của cấp trên một cách sâu sát, hợp lí và áp dụng
đúng đã làm nên hơn 50% sự thành công. Để làm được điều đó, ban giám hiệu các
trường phải bám sát kế hoạch, sử dụng những giải pháp phù hợp vời nhà trường của
mình, sau đó xây dựng kế hoạch sát đúng với tình hình của trường mình, trong quá
trình thực hiện cần có sự kiểm tra, theo dõi, giám sát việc thực hiện kế hoạch.
2.1.2. Công tác tuyển chọn học sinh.
Chỉ đạo trong giáo viên về công tác tuyển chọn học sinh, cụ thể:
a. Các tiêu chuẩn :
Thông minh, trí tuệ: Là những học sinh có năng lực tư duy tốt ở mọi vấn đề, có
hiểu biết và khá thông tuệ mọi vấn đề. Có khả năng nhớ lâu, khả năng suy diễn, giải
quyết xử lý tình huống linh hoạt hiệu quả cao.
Khả năng sáng tạo: Luôn có phát hiện mới mẻ độc đáo, luôn chủ động độc lập
trong tư duy, có khả năng tự học và tự tìm tòi.
Trang 6



SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
Tinh thần say mê ham học: Là những học sinh có chính kiến, biết bảo vệ chính
kiến, trung thực, điềm đạm và nhạy cảm, khiêm tốn học hỏi. Say mê và yêu thích
môn học. Có ý chí vươn lên để khẳng định mình.
b. Tổ chức phát hiện và tuyển chọn
Bước 1: Căn cứ vào điểm và kết quả của năm học trước, nhất là điểm qua các
kỳ thi mà nhà trường tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc và trung thực. Tìm hiểu
về học sinh lớp 5 trên địa bàn xã nhà thông qua sự trao đổi, tìm hiểu từ ban giám
hiệu trường Tiểu học và các giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5 để có cách nhìn
tốt nhất, cách tuyển chọn tốt nhất để bố trí vào các đội tuyển trong năm học ở lớp 6
của nhà trường.
Tất nhiên điểm số không phải là cơ sở và căn cứ chủ yếu càng không phải là
điều kiện quyết định để lựa chọn học sinh có năng khiếu nhưng nó vẫn là kết quả
trực quan ban đầu để đánh giá và đưa các em vào danh sách tuyển chọn.
Bước 2: Xem xét kết quả của quá trình học tập ở nhà trường . Một học sinh
liên tục cả năm và nhiều năm đạt học sinh giỏi trong các kỳ thi thì đó chính là một
căn cứ tin cậy và nó cũng thể hiện đầy đủ những khả năng phẩm chất đáng quí của
một học sinh có năng khiếu. Việc tìm hiểu từ giáo viên đã từng giảng dạy ở các lớp,
dựa vào thực tế quá trình học tập bồi dưỡng. Đây là những cơ sở thực tiễn có chiều
sâu chính xác và sác xuất cao vì qua đó các em được bộc lộ và thể hiện đầy đủ
những khả năng của mình.
Bước 3: Tuyển chọn bằng cách trực tiếp phỏng vấn trao đổi đối với từng cá
nhân học sinh. Qua thực tế thì cách này mang lại hiệu quả khá cao bởi vì người dạy
sẽ phát hiện được những học trò thích và ham mê bộ môn của mình bởi trong quá
trình học tập và giảng dạy giữa thầy và trò bao giờ cũng có sự đồng cảm và ăn ý với
nhau.
(Cách đặt câu hỏi có thể là : Bộ môn học trong nhà trường mà em yêu thích
nhất? Vì sao? Điều mà em thấy lý thú và hấp dẫn ở bộ môn này?... )


Trang 7


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
Bước 4 : Kiểm tra đánh giá sau thời gian bồi dưỡng và tổ chức điều chỉnh
thành lớp đội tuyển. Bước này được coi là bước cuối cùng trong khâu tuyển chọn.
Cuối mỗi kỳ các lớp đội tuyển được kiểm tra khảo sát chất lượng bằng một bài thi
chuẩn bị cho các đội tuyển của năm học tiếp theo. Sau khi lựa chọn được học sinh,
lập đội tuyển, lập kế hoạch một cách cụ thể tránh tình trạng thích đâu dạy đó. Dạy
theo chuyên đề là biện pháp mà chúng tôi thấy đó là hữu hiệu nhất. Trong các
chuyên đề giáo viên phải lựa chọn được nội dung bồi dưỡng vừa nhắc lại kiến thức
cơ bản vừa có kiến thức nâng cao, mở rộng; dành nhiều thời gian cho học sinh luyện
các dạng đề học sinh giỏi trên cơ sở xác định các đơn vị kiến thức cần thiết trong
bài làm để từ đó giúp học sinh nhận dạng đề, xác định các đường hướng cơ bản cho
một đề bài…
2.1.3. Công tác chọn giáo viên giảng dạy.
Là khâu hết sức quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả các lớp đội
tuyển vì phải có thầy giỏi thì mới có trò giỏi . Chính vì vậy cần chú ý đến các tiêu
chuẩn sau: Phải là giáo viên có phẩm chất tốt. Có trình độ năng lực chuyên môn và
sư phạm giỏi. Phải có trách nhiệm cao nhiệt tình say mê với công việc, có kiến thức
và hiểu biết sâu rộng. Có kinh nghiệm và phương pháp dạy phù hợp. Thầy phải biết
hướng cho các em động cơ thái độ học tập đúng đắn tạo niềm say mê yêu thích và
niềm hứng thú trong học tập cho các em.
Người thầy giỏi là người thầy dạy cho các em biết cách học. Thầy phải biết trò
cần gì? Thiếu gì trong kiến thức và phương pháp học tập để biết cách giúp các em
lấp đầy lỗ hổng và thiếu sót.
2.1.4. Công tác tổ chức và điều kiện phục vụ cho công tác bồi dưỡng
Sau khi tuyển chọn học sinh giáo viên thực hiện giảng dạy theo qui định của

nhà trường do Hiệu trưởng quyết định thành lập cho từng khối môn.
Phân công giáo viên trực tiếp dạy ở các lớp. Hiệu phó phụ trách chuyên môn
trực tiếp phụ trách. Xây dựng thời khóa biểu bồi dưỡng hợp lý. Các điều kiện như tài

Trang 8


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
liệu, sách giáo khoa, sách tham khảo và các điều kiện khác phải đầy đủ công tác
giảng dạy.
Với lựa chọn sách tham khảo nhà trường giao cho những giáo viên trực tiếp
giảng dạy đề xuất mua các tài liệu cho từng bộ môn mình đảm nhiệm trên cơ sở nhất
trí của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn.
2.2. Các giải pháp trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở vùng khó
khăn.
2.2.1. Công tác tư tưởng và động viên:
Việc tham gia ôn thi học sinh giỏi khiến học sinh phải bỏ ra rất nhiều thời gian
cho môn học này do đó it nhiều sẽ ảnh hưởng đến các môn học khác. Đã không ít
học sinh có ý định bỏ cuộc giữa chừng khi các em đang tham gia ôn tập. Để các em
có thái độ tích cực ngoài giờ học cần tâm sự phân tích cho các em hiểu về lợi ích sau
này của việc ôn thi học sinh giỏi chứ không đơn thuần là ôn tập để thi là xong. Đặc
biệt học sinh vùng khó khăn, sự nhận thức chưa thấu đáo về công tác bồi dưỡng và
tương lai học tập của các em sau này, do đó việc thông tư tưởng cho các em, để các
em bồi dưỡng những môn Sử, Địa thi cấp tỉnh cần có sự động viên không những từ
giáo viên giảng dạy mà từ ban giám hiệu nhà trường.
Thấy được tiềm năng to lớn của trường là số lượng học sinh đông, nguồn bồi
dưỡng có nhiều nên BGH nhà trường đã mạnh dạn, thống nhất quan điểm, tư tưởng
để xin phép Phòng GD bồi dưỡng tại trường môn Lịch Sử và Địa lí.
Động viên giáo viên có năng lực tham gia giảng dạy thể hiện sự ưu tiên hàng

đầu cho các giáo viên dạy dạy Sử, Địa 9 tại trường, đồng thời ưu tiên cho họ tuyển
chọn những học sinh có năng lực học tập tốt để bồi dưỡng.
Động viên học sinh tham gia học về tinh thần cũng như vật chất: Về tinh thần,
thể hiện hàng tuần BGH đã gặp mặt các học sinh bồi dưỡng tại trường cũng như học
sinh bồi dưỡng tập trung tại trung tâm huyện để nắm bắt tình hình, học sinh trao đổi
về những khó khăn của mình, từ đó nhà trường có các biện pháp giúp đỡ. Về vật
chất, thể hiện qua việc dành những suất học bổng của các tổ chức, của đại phương
Trang 9


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
cho các em học sinh này. Giáo viên tuyến 2 khoảng 1 tháng 1 lần đưa học sinh đi
học ở trung tâm nhằm động viên, khích lệ các em.
2.2.2. Thực hiện tốt công tác phối hợp:
Phân công các thầy cô giáo giỏi trực tiếp phụ trách bồi dưỡng các đội HSG.
Tạo mọi điều kiện để các thầy cô giáo trẻ tích luỹ kiến thức, học hỏi phương pháp và
kinh nghiệm, nâng cao trình độ, nhanh chóng đảm nhận được nhiệm vụ bồi dưỡng
học sinh giỏi với chất lượng ngày càng cao.
Dành nhiều thời gian, lập kế hoạch triển khai sớm và phù hợp, bố trí phòng
học. Tôn vinh các thầy cô giáo và học sinh đạt nhiều thành tích xuất sắc.
Coi bồi dưỡng đội HSG mỗi môn là nhiệm vụ chung của tổ chuyên môn. Lấy
nỗ lực của bản thân là chính, coi việc học hỏi vốn kiến thức, kinh nghiệm của các
thế hệ đi trước là quan trọng trong việc định hướng tìm tòi, xác định trọng tâm kiến
thức, kỹ năng, phương pháp để đạt được hiệu quả cao trong thời gian ngắn nhất.
Phối hợp tốt với giáo viên tuyến 1 để thực hiện công tác bồi dưỡng thường
xuyên. Giáo viên tuyến 2 tại trường thực hiện nghiêm túc kế hoạch bồi dưỡng của
Phòng GD và cụ thể hóa công tác BD trong nhà trường để sát đúng với tình hình
thực tế.
Các đoàn thể xây dựng kế hoạch hành động của mình coi trọng việc đẩy mạnh

công tác bồi dưỡng học sinh giỏi: Công đoàn tổ chức thi đua, động viên. khen
thưởng; đoàn TN tổ chức bồi dưỡng, huấn luyện, đưa đón, cổ vũ động viên học sinh
khi học sinh tham gia thi tuyển chọn hoặc học bồi dưỡng giai đoạn cuối.
2.2.3. Vận dụng môi trường dạy bồi dưỡng trong điều kiện khó.
Nhà trường không có phòng học dôi dư phục vụ cho công tác bồi dưỡng nên
việc bố trí các phòng chức năng bồi dưỡng là một bài toán khó (vì các phòng này
vừa dành học các buổi thực hành, học BD HSG lớp 6,7,8 và của tuyến 2). Do đó nhà
trường phải tận dụng tối đa các địa điểm dạy học như phòng đọc của giáo viên,
phòng truyền thống, thậm chí cả phòng trực ban, phòng y tế…

Trang 10


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
Giáo viên bồi dưỡng trong mọi giai đoạn đều tận dụng hết thời gian để đầu tư
tiếp sức cho học sinh. Nhà trường bố trí các giáo viên không phải chuyên môn
nhưng có điều kiện về thời gian giúp các giáo viên bồi dưỡng trong việc quản lí truy
bài của học sinh, coi kiểm tra…
2.2.4. Bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình lâu dài cũng như phát huy
tính tích cực, độc lập nghiên cứu của học sinh ở vùng khó khăn.
Cần phát hiện sớm các em HSG và bồi dưỡng sớm, tốt nhất từ lớp 6,7 để có
thể đạt kết quả cao.
Cách tốt nhất bồi dưỡng hứng thú cho học sinh là hướng dẫn dìu dắt cho các
em đạt được những thành công từ thấp lên cao. Nhiều học sinh lúc đầu chưa bộ lộ rõ
năng khiếu nhưng sau quá trình được dìu dắt đã trưởng thành rất vững chắc và đạt
thành tích cao.
Để đạt hiệu quả cao, cần phải phải tăng cường hướng dẫn học sinh tự tìm đọc
các tài liệu có định hướng theo những chuyên đề. Đặc biệt là nghiên cứu thông tin từ
mạng Internet, các tài liệu tham khảo từ thư viện. Nhà trường bố trí máy nối mạng

để hướng dẫn học sinh truy cập lấy tài liệu. Tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh
mượn tài liệu ở thư viện nhà trường.
Sách là công cụ ôn tập quan trọng: Việc ôn tập bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi
cần phải cho học sinh thực hành làm thật nhiều các dạng bài tập nâng cao khác nhau
do vậy nhà trường và giáo viên bồi dưỡng đã sưu tầm rất nhiều loại sách nâng cao
qua từng năm học. Qua nhiều năm sưu tầm, lựa chọn và tìm mua những sách dùng
để ôn tập và nâng cao cho mỗi khối lớp. Ngoài ra Ban giám hiệu nhà trường có sự
liên hệ với các nhà hảo tâm để hỗ trợ nguồn kinh phí cho việc mua tài liệu bồi dưỡng
học sinh giỏi.
Hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc: dựa vào những mặt mạnh của từng học
sinh có thể giao chuyên đề cho từng học sinh làm sau đó trao đổi với các bạn khác
trong đội.
3. Kết quả đạt được:
Trang 11


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
Qua hai năm áp dụng SKKN tại nhà trường đã đạt được kết quả khá khả quan,
đặc biệt là thành tích học sinh giỏi cấp tỉnh:
HSG cấp huyện
Năm học
2011 - 2012
2012 - 2013
CỘNG

(TS giải)
Đồng đội
Cá nhân
1

6
7

28
24
52

HSG cấp tỉnh
(TS giải
Cá nhân)
8
4
12

Như vậy với việc áp dụng SKKN đã cải tiến rất lớn về chất lượng mũi nhọn
học sinh giỏi của nhà trường, số giải đồng đội cấp huyện tăng trưởng đáng kể, trong
năm học 2012 - 2013 đó có 3 đội năm trong thứ từ 1 đến 3. Về học sinh giỏi cấp tỉnh
có sự tăng trưởng vượt bậc, trong 2 năm học đạt 12 giải (tăng gấp đôi so với 4 năm
học khi chưa áp dụng SKKN).
4. Bài học kinh nghiệm.
4.1. Để chỉ đạo có hiệu quả công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng
khiếu trước hết cần có kế hoạch rõ ràng, cụ thể chi tiết và phù hợp với điều kiện từng
trường đặc biệt là các trường vùng đặc biệt khó khăn. Để đạt được kết quả như trên
bản thân với vai trò người chỉ đạo công tác bồ đương học sinh giỏi luôn không
ngừng học tập, trao đổi kinh nghiệm, luôn lắng nghe, rút kinh nghiệm từ sự thất bại,
không nản lòng, sẳn sàng chia sẽ những kinh nghiệm vốn có giúp đỡ đồng nghiệp
bằng tất cả khả năng.
4.2. Kế hoạch tuyển chọn học sinh phải được phát hiện và chọn ngay từ cấp 1,
những em có thiên hướng đặc biệt về Toán, Văn, Lý, Hóa, ...
4.3. Thực hiện biên soạn tài liệu cho công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu

do những giáo viên đã có kinh nghiệm bồi dưỡng, tài liệu biên soạn cần đảm bảo
tính hệ thống, khoa học từ dễ đến khó và bao quát được chương trình mà cấp học
giới hạn.
4.4. Công tác xây dựng cơ sở vật chất - Thiết bị dạy học và phòng thực hành.
Không chỉ phục vụ chất lượng đại trà mà còn có khả năng phục vụ cho việc bồi
Trang 12


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
dưỡng học sinh năng khiếu để các em có điều kiện nâng cao và vận dụng hiểu biết
sáng tạo của mình cho phần lí thuyết nhất là các môn thiên về thực hành.
4.5. Công tác thi đua khen thưởng: Cần có sự tham mưu với cấp ủy chính
quyền địa phương, phối hợp với gia đình, hội khuyến học các đoàn thể xã hội để
nâng cao nhận thức vai trò của các tổ chức này đối với nhiệm vụ đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho địa phương. Tranh thủ các nguồn quỹ để có hỗ trợ đắc lực
cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. Có phần thưởng xứng đáng cho những giáo viên
học sinh có giải và giải cao trong các kỳ thi. Điều này có ý nghĩa rất lớn với học sinh
vùng khó khăn. Không làm tốt công tác này thì rất khó để động viên khích lệ họ
nhiệt huyết và toàn tâm toàn ý.

PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của SKKN.
Trong nhà trường THCS ngoài nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh còn phải chú ý đến nhiệm vụ "mũi nhọn " phát hiện bồi dưỡng học
Trang 13


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”

sinh năng khiếu để nhanh chóng tạo nguồn đào tạo cán bộ tri thức và tay nghề lao
động cao cho cộng đồng để hoàn thành công cuộc CNH - HĐH đất nước đúng như
điều Bác Hồ đã từng nói: "Kiến thiết cần có nhân tài, nhân tài ở nước ta tuy chưa
thật nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo léo chọn lựa, khéo phân phối, khéo dùng
thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều". Như vậy, nhân tài là những bông hoa
tiềm ẩn trong mọi vùng miền, chờ những bàn tay phát hiện, chăm sóc, bồi dưỡng để
tạo ra những hiền tài cho đất nước.
Để chỉ đạo thực hiện công tác này cho nhiều năm tiếp theo tốt hơn nữa phù
hợp với qui luật hình thành và phát triển những tài năng thật sự, phù hợp với truyền
thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
con người trước hết là những yêu cầu về phát triển đất nước. Đặc biệt tạo ra các thế
học sinh giỏi ở những vùng còn khó khăn để các em có những bước phát triển học
lên để xây dựng quê hương sau này, rút ngắn khoảng cách về dân trí cũng như đới
sống với những vùng thuận lợi.
Với những giải pháp bồi dưỡng học sinh giỏi vùng khó khăn đã mang lại kết
quả to lớn, không những thu hẹp về thành tich học sinh giỏi của các trường trong đại
bàn huyện mà còn khẳng định một điều rằng, học sinh giỏi là những tài năng tiềm
tàng trong các đại phương, vấn đề chúng ta phải có sự khai thác, khích động, bồi
dưỡng một cách khoa học những mầm xanh tài năng năng này.
2. Kiến nghị và đề xuất.
Các đội tuyển bồi dưỡng tại trường (Sử, Địa) cần có sự giúp đỡ nhiều hơn từ
giáo viên bồi dưỡng tuyến 1 về tài liệu ôn tập. Phòng giáo dục cần có kế hoạch hỗ
trợ một phần kinh phí cho giáo viên bồi dưỡng tại trường hai môn Lịch sử và Địa lí.
Trên đây là những suy nghĩ, những việc đã làm đang làm, đang thực hiện trong
quá trình chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trong nhà trường ở xã thuộc
vùng đặc biệt khó khăn của huyện. Đây là một đơn vị có quy mô vừa, thành tích và
kinh nghiệm chưa nhiều, SKKN không tránh khỏi có phần thiếu sót, phiến diện; tôi
Trang 14



SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã
vùng đặc biệt khó khăn”
rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các đơn vị bạn, sự chỉ đạo của phòng
giáo dục và đào tạo để nhà trường phát huy ưu điểm, khắc phục tồn tại, hạn chế,
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của ngành giáo dục đề ra.
Những kết quả gặt hái được chỉ là bước đầu xin được trình bày để đồng
nghiệp tham khảo và mong những góp ý chân thành để bản thân hoàn thiện hơn góp
phần nhỏ vào phong trào chung trong sự nghiệp giáo dục hiện nay.
Chân thành cảm ơn bạn đọc đã bỏ chút thời gian quý báu để đến với SKKN
và xin được tiếp thu ý kiến góp ý của các đồng nghiệp.

Quảng Bình, ngày 20 tháng 5 năm 2013

MỤC LỤC

Phần I:
1. Lý do chọn đề tài

Mục

Trang

MỞ ĐẦU

1
1
Trang 15


SKKN: “Một số giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường thuộc xã

vùng đặc biệt khó khăn”
2. Phạm vi áp dụng của SKKN.
Phần II
NỘI DUNG

2
3

1. Thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.

3

2. Các giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.

6

3. Kết quả đạt được:
4. Bài học kinh nghiệm.
Phần III:
KẾT LUẬN

12
12
14

1. Ý nghĩa của SKKN.

14

2. Kiến nghị và đề xuất.


14

Trang 16



×