Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến:
Con người sống giữa thiên nhiên đầy ắp màu sắc của cỏ cây, hoa lá, mây trời,
muông thú, tất cả đều lung linh, đẹp đẽ. Chúng không chỉ cho ta vật chất để sống
mà từ cái đẹp đó đã đem lại cho con người những xúc cảm, tình cảm yêu đời, yêu
người.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, phù hợp với truyền thống Việt Nam. Yếu tố cơ bản và nền tảng để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đó là phát triển nguồn
nhân lực con người. Hay nói cách khác là phát triển và đổi mới giáo dục trong đó
có môn Mĩ thuật - một môn học chính thức của cấp trung học. Xuất phát từ nhận
thức trước đây thường xem môn Mĩ thuật là môn phụ cho nên các ngành, các cấp
chưa quan tâm nhiều về trí tuệ, thời gian cũng như trang thiết bị, đồ dùng học tập
đặc biệt là phương pháp dạy học chủ yếu còn mang nặng phương pháp dạy học cổ
truyền, máy móc, rập khuôn, chưa chú trọng đến giáo dục thẩm mĩ. Vì vậy hiệu
quả chưa cao, chưa đáp ứng được mục tiêu môn học. Mà chúng ta đã biết giáo dục
thẩm mĩ cho học sinh là nhiệm vụ chính của môn Mĩ thuật. Bởi con người ta luôn
có khát vọng vươn tới cái đẹp, mà muốn cho mỗi người trong đó có trẻ em tiếp cận
và cảm thụ một cách đầy đủ về cái đẹp nói chung, về màu sắc nói riêng thì việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng màu sắc phù hợp cho học sinh lớp 6 là một việc làm hết sức
cần thiết. Có năng khiếu và yêu thích môn vẽ nhưng phải có kĩ năng chuẩn mực
mới có thể vẽ đẹp, hợp lí và sáng tạo. Đối với học sinh lớp 6 là lứa tuổi nhỏ nhất
trong bậc THCS, cần có sự uốn nắn, rèn luyện ngay từ đầu.
Trong chương trình giáo dục mới, môn Mĩ thuật được xem như là một phương
tiện giáo dục quan trọng trong việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Ngoài việc
cung cấp cho học sinh một số kiến thức mĩ thuật phổ thông, hiểu biết về cái đẹp
môn Mĩ thuật còn giúp các em có thêm hứng thú để các em học tốt các môn học
1


khác cũng như giúp học sinh vận dụng những hiểu biết kiến thức mĩ thuật vào học


tập và sinh hoạt hàng ngày.
Môn Mĩ thuật rèn luyện cho học sinh cách quan sát, khả năng tìm tòi, tư duy,
sáng tạo để góp phần hình thành phẩm chất của người lao động mới Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, giúp học sinh nhận thức được vẽ đẹp của Mĩ thuật dân tộc và có ý
thức giữ gìn và bảo tồn nền mĩ thuật đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta. Vì vậy,
muốn giáo dục cái đẹp để các em tiếp nhận và cảm thụ được một cách đầy đủ, biến
nó thành những giá trị thẩm mĩ thực sự cho bản thân thì việc giáo dục thẩm mĩ nói
chung và rèn luện kĩ năng sữ dụng màu sắc thích hợp cho học sinh nói riêng cần
phải được giải quyết tốt ở những năm học đầu cấp THCS.
Để giúp các em biết bộc lộ tình cảm của bản thân mình với mọi người, với thế
giới tự nhiên và xã hội, thì những người thầy giáo, cô giáo dạy môn Mĩ thuật đóng
một vai trò hết sức quan trọng để đạt được mục tiêu môn học đề ra. Gắn giáo dục
thẩm mĩ với các môn học khác, với đặc thù của địa phương phải được tiến hành
một cách thường xuyên, nghiêm túc để các em có những tư duy tốt về thẩm mĩ, để
các em mang lại nhiều cái hay, cái đẹp cho cuộc sống, cho xã hội.
Từ những thực tế như đã nói trên và qua nhận định chủ quan của cá nhân, qua
kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến “Một số
giải pháp giúp học sinh lớp 6 rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc”.
* Điểm mới của sáng kiến: Ở tiểu học các em vẽ và tô màu theo ý thích, các
em thấy màu sắc nào nổi bật, sặc sỡ thì các em cho đó là đẹp do đó cách sử dụng
màu sắc của các em có phần hạn chế. Điểm mới của sáng kiến ở chổ giúp các em
rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc như: cách phối màu, nhận biết độ đậm nhạt,
nhận biết được các màu sắc, phát huy tính sáng tạo củng như cảm nhận được cái
đẹp trong các tác phẩm mỹ thuật qua đó các em càng yêu thích môn Mĩ thuật hơn.
1.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Đề tài nghiên cứu được áp dụng trong dạy học Mĩ thuật cho học sinh lớp 6
ở trường THCS.
2



2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
2.1.1 Đặc điểm tình hình
a. Thuận lợi:
* Về phía nhà trường: Tiếp tục thực hiện phong trào “Ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học”. Năm học này nhà trường đã mua sắm thêm
nhiều máy móc, thiết bị dạy học như màn hình, máy chiếu, kết nối Internet nên
việc tìm hiểu thông tin phục vụ hoạt động dạy học cho giáo viên có phần thuận
lợi. Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên quan tâm chỉ đạo giáo viên thực
hiện việc đổi mới phương pháp dạy học, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên
nghiên cứu và áp dụng các sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học.
* Về phía giáo viên: Bản thân là giáo viên được đào tạo về chuyên môn
giảng dạy Mĩ thuật, giàu lòng đam mê và tâm huyết với bộ môn. Với kinh
nghiệm giảng dạy ở trường phổ thông hơn 4 năm, tôi đã không ngừng trau dồi
kỹ năng, học hỏi phương pháp dạy học từ các đồng nghiệp, theo dõi và nắm bắt
kiến thức mĩ thuật qua các phương tiện truyền thông đã giúp tôi có được một số
kinh nghiệm, một số phương pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc cho học
sinh, đặc biệt là học sinh lớp 6.
* Về phía học sinh: Học sinh bậc THCS nói chung đã được tiếp xúc với
môn học Mĩ thuật từ bậc Tiểu học nên phần nào các em đã có kiến thức cũng
như kĩ năng sử dụng màu sắc. Các em đã được học tập theo phương pháp dạy
học mới (tự học tự chiếm lĩnh) nên đã rèn luyện được tính tự sáng tạo, tính độc
lập của mình. Đa phần các em đều ngoan, thích được học mĩ thuật, nhiều em rất
có năng khiếu vẽ, tích cực hoạt động trong giờ học, tham gia tốt các cuộc thi vẽ
tranh do hội đồng đội phát động.
b. Khó khăn:
* Về phía nhà trường: Hiện tại trường chưa có phòng học bộ môn Mĩ thuật
nên chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu môn học.
3



* Về phía giáo viên: Trường chỉ có một giáo viên dạy mĩ thuật nên việc tiếp
thu, rút kinh nghiệm qua dự giờ góp ý không có mà chỉ dự giờ rút kinh nghiệm
thông qua dự giờ của các đồng nghiệp không cùng chuyên môn nên việc học tập
phương pháp dạy học có phần hạn chế.
* Về phía học sinh: Trong thực tế, bên cạnh việc học sinh thích học môn Mĩ
thuật vẫn còn không ít em chưa thực sự say mê môn học này, nhiều em ngồi học
không chú ý, nói chuyện riêng. Một số em không thực sự có năng khiếu nên việc
học còn mang tính đối phó. Học sinh ở trường đa phần có điều kiện kinh tế gia
đình khó khăn, nên một số em còn thiếu đồ dùng học tập đặc biệt là màu vẽ.
2.1.2 Kết quả của thực trạng trên:
Chất lượng bộ môn qua khảo sát đầu năm học (2013-2014):
Lớp

Số
lượng

Đạt
SL

%

6A
6B
6C
6D

27
29
28

28

24
25
23
24

88,9
86,2
82,1
85,

Chưa đạt
SL
%
03
04
05
04

11,1
13,8
17,9
14,3

7
Tổng
112
96
85,7

16
14,3
Từ kết quả nêu trên bản thân tôi luôn tìm biện pháp làm thế nào để cho kết
quả tốt hơn, cụ thể là tìm “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 rèn luyện kỹ
năng sử dụng màu sắc” góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Mĩ
thuật đối với học sinh đầu cấp của bậc THCS.
2.2. Các giải pháp:
2.2.1. Thường xuyên quan tâm giáo dục cho học sinh biết yêu thích cái đẹp:
Xuất phát từ nội dung và mục tiêu đã định, dạy học Mĩ thuật phải tạo điều kiện
cho học sinh tiếp xúc, làm quen và bước đầu tập thể hiện cái đẹp, vận dụng nó vào
học tập và sinh hoạt hàng ngày, bộ môn Mĩ thuật góp phần vào giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh. Dạy Mĩ thuật giáo viên phải gợi mở, cung cấp kiến thức tới học sinh
4


để hướng kiến thức đó không những giúp học sinh dễ hiểu mà còn là động lực thúc
đẩy sự phát triển, tìm tòi, sáng tạo hơn trong học tập.
2.2.2. Yêu cầu học sinh nhớ tên ba màu cơ bản, dần dần nhận biết được các
màu nhị hợp và tiến tới gọi tên màu thành thạo (hộp 12 màu), cao hơn nữa biết
phân biệt màu đậm, màu nhạt:
Mặc dầu các em đã nhận biết ba màu cơ bản từ bậc học mầm non, tiểu học song
do đặc điểm tâm sinh lí của các em ở lứa tuổi này, việc ghi nhớ chưa bền vững, nên
việc nhắc nhở thường xuyên là một việc làm cần thiết. Đặc biệt các màu do pha
trộn mà có (đỏ pha với vàng tạo thành màu da cam; đỏ pha với xanh lam tạo thành
màu tím...), cao hơn phân biệt độ đậm nhạt của màu sắc, biết chọn những màu sắc
phù hợp để vẽ vào tranh.

Hình 1: Cách pha màu
5



2.2.3. Hướng dẫn học sinh so sánh các mẫu vật thực:
Độ đậm nhạt của màu sắc phụ thuộc vào các màu nằm cạnh nó, hay nói cách
khác một màu sắc nào đó không phát huy hết tính chất của nó khi chỉ nằm một
mình đơn độc, mà nó được bộc lộ tốt hơn khi nằm cạnh màu khác làm tôn nó lên.
Trong trường hợp này có thể xẩy ra hai hiện tượng hoàn toàn trái ngược nhau: hoặc
tốt hơn, hoặc xấu đi. Thí dụ: màu đỏ đặt lên màu vàng làm cho đỏ ấy tươi sáng lên,
rực rỡ hơn; nhưng cũng màu đỏ ấy đặt lên màu xanh thì sẽ làm mất tính chất của
nó mà thôi. Điều này đòi hỏi giáo viên định hướng cho các em một cách hết sức
khéo léo và tế nhị, vì chọn màu gì và sử dụng màu như thế nào mà không làm mất
đi sự tự do sáng tạo của học sinh mà vẫn đảm bảo sự hợp lí trong khi sử dụng màu,
đó mới là điều cơ bản của việc dạy học môn Mĩ thuật mà giáo viên cần lưu tâm.
Ví dụ: Bài 9 - Vẽ tranh: Đề tài học tập - Lớp 6
Chọn màu gì vẽ vào hình ảnh chính, phụ thì tuỳ thuộc vào ý thích các em,
nhưng khi đã chọn hình ảnh chính màu đậm rồi thì hình ảnh phụ nên vẽ màu nhạt,
hoặc ngược lại. Ngoài ra khi chọn màu phù hợp rồi cũng cần hướng dẫn học sinh
kĩ thuật vẽ màu đó là vẽ hình ảnh chính trước vẽ màu ở hình ảnh phụ sau, hay sử
dụng các loại chất liệu (loại bút màu) khác nhau như: Bút lông cần đưa nét nhanh
và nhẹ nhàng, sáp màu, chì màu cần nhấn mạnh hơn, bên cạnh đó vẽ màu vào các
hình không nên vẽ đều nhau tạo thành mảng bẹt mà có thể vẽ chỗ đậm, chỗ nhạt sẽ
tạo thành hình khối của nó hơn...

Hình 2:

Tranh của học
sinh

6



2.2.4. Gợi ý học sinh chỉ các màu sắc có trong bức tranh, màu nào được sử
dụng nhiều, màu nào ít sử dụng trong bức tranh đó:
Ở trường hợp này có thể tổ chức cho học sinh học theo nhóm. Thông qua hoạt
động nhóm học sinh ham thích tìm được những màu vẽ có trong tranh, các em cảm
nhận được cái hay, cái đẹp thông qua việc sử dụng màu sắc mà mình hay các bạn
tìm ra...
Ví dụ: Khi dạy bài 24 (tiết 20): Giới thiệu một số tranh dân gian Việt Nam (Mĩ
thuật 6)
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm bằng cách đặt các câu
hỏi gợi ý:
- Hãy nêu nội dung của bức tranh?
- Trong tranh có những màu nào?
- Hình ảnh nào được vẽ to nhất, nổi bật nhất?
- Ngoài các hình ảnh to, nổi bật đó rồi còn có hình ảnh nào nữa?
- Màu sắc của những hình ảnh này như thế nào?
- Màu sắc nào được sử dụng nhiều nhất trong bức tranh?
- Em có thích bức tranh này không? Vì sao?
Như vậy học sinh phải suy nghĩ trả lời các câu hỏi. Với cách tiến hành như vậy
giáo viên đã tạo điều kiện cho mọi đối tượng học sinh tham gia hoạt động, học hỏi
lẫn nhau, được bày tỏ ý kiến trước tập thể, thông qua hoạt động học nhóm này
giúp cho học sinh mạnh dạn hơn, cứng cỏi hơn.

Hình 3: Đám cưới chuột

Hình 4: Bịt mắt bắt dê

(tranh Đông Hồ)
7



2.2.5. Phát huy năng lực sáng tạo và khả năng độc lập của học sinh:
Dạy Mĩ thuật phải phát triển ở các em những năng lực quan sát, so sánh, đối
chiếu, phân tích, tổng hợp, suy nghĩ độc lập sáng tạo trong học tập, để các em tìm
ra được cái mới, cái đẹp và cảm thụ được nó.
Mục tiêu của dạy học lấy học sinh làm trung tâm là tôn trọng nhu cầu tiềm
năng của học sinh, chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội, hoà
nhập và phát triển cộng đồng. Giáo viên là người tổ chức điều hành, học sinh là
người thực hiện, học sinh tự giác, chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình,
được tham gia đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
Ví dụ : Bài 18 (tiết 18) Trang trí hình vuông (Mĩ thuật 6)
Khi hướng dẫn vẽ màu thì không nên yêu cầu học sinh phải chọn màu này cho
hoa, màu kia cho lá. Nên để cho học sinh vẽ màu tự do theo ý thích, tự do không
có nghĩa là vẽ màu linh tinh, vẽ màu theo ngẫu hứng, mà cần vẽ đúng luật trang
trí (đối xứng, xen kẻ hay nhắc lại...). Chẳng hạn: Bông hoa có bốn cánh đó học
sinh có thể tự do chọn màu nhưng khi đã chọn một màu nào đó rồi thì nhất định
bốn cánh hoa đó chỉ nên vẽ một màu. Và ở các lá bốn góc cũng vậy, không yêu cầu
học sinh vẽ màu gì, nhưng khi đã chọn lá ở một góc thì lá ba góc còn lại phải vẽ
cùng màu đó (những hình vẽ, hoạ tiết giống nhau cố gắng vẽ bằng nhau và vẽ
cùng một màu). Điều này luôn làm cho học sinh cảm giác thoải mái trong học tập,
không bị gò bó, ràng buộc làm những việc mà mình không thích, tức là đã phát
huy tối đa tính tích cực độc lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh, mà vẫn đạt được
mục tiêu bài học cũng như đặc trưng của môn học. Hơn nữa qua đây chúng ta
thấy rất rõ, sự định hướng của giáo viên chung cho cả lớp, nhưng kết quả lại là đa
dạng, phong phú về màu sắc của sản phẩm, sự phong phú đó được thể hiện thông
qua những suy nghĩ, những việc làm hết sức ngây thơ và hồn nhiên của các em mà
điều đó rất khó có được ở người lớn và đây chính là đặc trưng cơ bản của dạy học
Mĩ thuật, mềm mỏng nhưng cần phải đúng đắn, một môn học ít công thức, không
8



có đáp số nhưng vẫn có những chuẩn mực về cái đẹp. Và điều đặc biệt hơn tất cả
là: giáo viên sẽ phát hiện ra được những học sinh có thế mạnh ở từng phân môn,
từng môn học, để từ đó định hướng thêm, bổ sung thêm cho các đối tượng học sinh
một cách hợp lí nhất.

Hình 5: Trang trí hình vuông
2.2.6. Tổ chức cho học sinh các trò chơi học tập:
Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung trí thức gắn với hoạt động của học
sinh, gắn với nội dung bài học. Thông qua trò chơi giúp các em biết vận dụng linh
hoạt những kiến thức đã học vào cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày; tạo cho các em
tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, sáng tạo hơn nhằm thích nghi với mọi tình
huống xảy ra trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Áp dụng trò chơi ở bài vẽ trang trí: Màu sắc trong trang trí
(Bài 11 – Tiết 8 MT 6)
- Trò chơi có tên gọi ai nhanh, ai khéo
- Luật chơi: Chia lớp thành ba nhóm, mỗi nhóm cử khoảng 3 bạn.
- Cách chơi: Giáo viên chuẩn bị ba hình trang trí hình chữ nhật giống nhau trên
khổ giấy A3 (chưa vẽ màu ). Nhiệm vụ các nhóm là tô màu lên hình mẫu. Thời
9


gian cho trò chơi là khoảng 5 phút, các đội lên tô màu lúc nào hết giờ hoặc xong
trước thì kết thúc trò chơi. Nhóm nào hoàn thành trước, đẹp, hài hoà thì nhóm đó
chiến thắng, sau khi kết thúc trò chơi yêu cầu các nhóm nhận xét, sau đó giáo viên
tổng hợp các ý kiến, nhận xét bổ sung. Với yêu cầu này, học sinh sẽ tự biết tô màu
đẹp hơn bằng sự kết hợp sức mạnh tập thể, bằng sự nhanh nhạy, khéo léo và khả
năng quan sát, phán đoán, tư duy của mình. Trò chơi giúp cho các em hứng thú
hơn trong học tập, biết vận dụng kiến thức của bài học để làm cho bài trang trí
đẹp thêm.
2.2.7 Liên hệ với thực tiễn cuộc sống:

Tri thức của môn học đều được chắt lọc từ cuộc sống và trở lại phục vụ cho
cuộc sống, cho nên trong dạy học cần liên hệ bài học với thực tiễn tạo cho học sinh
sự liên tưởng, gây thói quen quan sát, so sánh, móc nối giữa cái đang học và cái đã
có trong cuộc sống, hướng các em đi tìm cái đẹp cho mai sau.
Để vận dụng biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi giáo viên cần suy nghĩ, tìm tòi,
phân tích tổng hợp, yêu nghề và hứng thú với bộ môn.
Biện pháp này giúp học sinh tự bổ sung nhận thức và phát huy óc tưởng tượng,
khả năng tư duy, sáng tạo cho các em. Trang bị cho các em những hiểu biết cần
thiết để vận dụng vào cuộc sống. Như là cảm nhận được màu sắc đẹp ở viên gạch
lát nền của lớp học, hình vẽ, hoạ tiết ở tờ giấy khen... hay sự cảm nhận tinh tế với
màu sắc của thiên nhiên khi thể hiện qua các bài văn miêu tả sau này, thiết thực
hơn nữa có thể chọn màu sắc trang phục, đồ dùng cá nhân cho phù hợp với con
người...
Ngoài những biện pháp trên còn phải vận dụng các phương pháp giáo dục
chính khoá và ngoại khoá để giáo dục, hướng dẫn học sinh phân biệt các màu sắc,
những màu đậm, những màu nhạt, vẽ màu từ đơn giản đến phức tạp để vận dụng
vào các bài tập thực hành một cách có hiệu quả.
- Đánh giá phân tích kết quả qua các bài thực hành của học sinh về vẽ tranh, vẽ
trang trí của học sinh lớp 6.

10


- Quá trình tư duy của học sinh có vai trò trong việc tiếp thu những tri thức về
môn Mĩ thuật và vận dụng những tư duy của các em dần dần phát triển từ khái quát
đến chi tiết.
- Ở lớp 6, tư duy hình ảnh trực quan còn đơn giản, dễ sai lệch, khi lên các lớp
trên khả năng tư duy hình ảnh trực quan của các em cao hơn, chính xác hơn, đến
lớp cuối cấp khả năng tư duy trừu tượng xuất hiện và hoàn thiện dần. Việc rèn
luyện cách quan sát, nhận xét, kĩ năng chọn màu thích hợp thông qua các bài vẽ

tranh, vẽ trang trí, hay xem tranh (thường thức mĩ thuật), tôi nhận thấy các em vẽ
tốt hơn, không lạm dụng quá nhiều màu sắc và biết phân định màu sắc tương đối
hợp lí . Những biểu hiện cụ thể:
- Học sinh vẽ màu mạnh dạn biết sử dụng màu có đậm, có nhạt, vẽ màu rất tự tin
không vẽ tuỳ tiện, đơn điệu.
- Biết áp dụng các đường nét đã học để vẽ màu theo ý thích của mình. Mặt khác
cũng thấy được sự hào hứng, say mê khi vẽ bài...
2.2.8 Ứng dụng công nghệ thông tin:
Có thể nói, công nghệ thông tin đã thổi một luồng gió mới vào xu thế đổi
mới quá trình Dạy - Học. Từ bấy lâu nay, công nghệ thông tin đã giúp cho giáo
viên vận dụng được những phương pháp dạy học một cách linh hoạt và đơn giản,
công nghệ thông tin đã giúp giáo viên thực hiện được những bài giảng để truyền
đạt kiến thức tới học sinh thực sự dễ dàng và hiệu quả.
Đối với môn Mĩ thuật việc sử dụng giáo án điện tử đã đem lại rất nhiều
thuận lợi cho sự hình thành kiến thức về “Hội hoạ” cho học sinh. Nhờ vào phương
pháp áp dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy Mỹ thuật mà học sinh
được tiếp cận trực quan hơn.
Phần Quan sát nhận xét giữ một vai trò quan trọng trong phần bài giảng,
giáo viên sẽ cho các em xem tranh và đặt ra các câu hỏi để các em nhận xét như:
Bức tranh này đẹp hay xấu? Đẹp ở chỗ nào? Hoạ tiết ra sao ? Bố cục thế nào ? Có
những màu nào trong tranh? Màu sắc có hài hoà không ?... nhằm giúp các em tự
nhận biết được màu sắc, phân biệt được cái đẹp và có cảm xúc nghệ thuật, thích
thú bài học, từ đó hình thành cho các em kỹ năng sử dụng màu sắc để đạt kết quả
tốt nhất.
11


* Kết quả đạt được
Qua quá trình thực hiện các giải pháp trên đã đạt được kết qủa như sau:
Kết quả kiểm tra học kỳ I (2013-2014):

Số
Đạt
Chưa đạt
Lớp
lượng
SL
%
SL
%
6A
6B
6C
6D
Tổng

27
29
28
28
112

27
29
28
28
112

100
100
100

100
100

\
\
\
\
\

\
\
\
\
\

Tuy thời gian chưa nhiều, song kết quả thu được là rất đáng mừng, số học sinh
làm bài hoàn thành tốt tăng lên rõ rệt. Theo tôi đã là giáo viên thì việc học hỏi, tìm
tòi và sáng tạo trong cách dạy là một nhiệm vụ mỗi ngày của người thầy, hoạt động
đó phải được diễn ra thường xuyên có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao đối với tri thức, và đặc biệt đi sâu nghiên cứu biện pháp rèn luyện kĩ năng
sử dụng màu sắc phù hợp cho học sinh lớp 6.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục toàn diện cho đất nước, từ nhiệm vụ phải giáo
dục thẩm mĩ cho thế hệ trẻ để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, việc giảng dạy Mĩ thuật nhằm mục tiêu giáo dục con người có một
tầm quan trọng trong các trường phổ thông nói chung và cấp THCS nói riêng.
Những khả năng bước đầu sử dụng màu sắc phù hợp cho học sinh lớp 6 có
phát huy được hết những giá trị giáo dục hay không, còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: chủ quan, khách quan, môi trường giáo dục... xác định được vấn đề quan trọng

như vậy, các nhà giáo dục, các thầy giáo, cô giáo, các bậc phụ huynh hãy cùng
phối hợp để khơi dậy những điều tốt đẹp còn tiềm ẩn trong mỗi một con người các
em để phát huy năng lực nhận thức của mình từ khi đang ngồi trên ghế nhà trường.

12


Để điều đó trở thành hiện thực khi mỗi một chúng ta, nhất là giáo viên dạy học
môn Mĩ thuật cần:
- Kiên trì, chịu khó nghiên cứu bài dạy một cách chu đáo.
- Phải nắm vững nội dung yêu cầu, nhiệm vụ của từng tiết dạy cụ thể, nắm được
đặc điểm tâm sinh lí của của học sinh cũng như khả năng tư duy, sáng tạo của từng
học sinh.
- Phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, tinh thần học hỏi cao để luôn luôn trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ.
- Tăng cường làm đồ dùng dạy học, dụng cụ trực quan...
Trên đây là một vài biện pháp của bản thân tôi đã áp dụng thành công trong
những năm học vừa qua. Mặc dầu vậy nhưng không tránh khỏi những hạn chế tồn
tại nhất định rất mong được sự góp ý của HĐKH trường, HĐCM và đồng nghiệp
để ngày càng đạt kết quả cao hơn trong dạy học môn Mĩ thuật.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
3.2.1. Về phía Sở GD và Phòng GD:
- Tăng cường mở các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học môn Mĩ
thuật để mỗi một giáo viên có điều kiện nắm bắt kịp thời các phương pháp dạy
học mới.
- Tổ chức có định kỳ các đợt sinh hoạt chuyên môn Mĩ thuật để giáo viên có
cơ hội được giao lưu, học tập kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp.
3.2.2. Về phía nhà trường:
- Nhà trường cần mua thêm tranh, ảnh và vật mẫu cho bộ môn Mĩ thuật.
3.2.3. Về phía Giáo viên.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
- Ngày càng nâng cao hiệu quả về công nghệ thông tin trong dạy học.
- Không ngừng học tập, đổi mới phương pháp dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay.
MỤC LỤC
Trang
13


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài.
1.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1.Thực trạng của nội dung nghiên cứu.
2.1.1. Đặc điểm tình hình
2.1.2. Kết quả thực trạng
2.2. Các giải pháp .
2.2.1. Thường xuyên quan tâm giáo dục cho học sinh biết yêu
thích cái đẹp.
2.2.2.Yêu cầu học sinh nhớ tên ba màu cơ bản, dần dần nhận biết
được các màu nhị hợp và tiến tới gọi tên màu thành thạo (hộp 12
màu), cao hơn nữa biết phân biệt màu đậm, màu nhạt:
2.2.3. Hướng dẫn học sinh so sánh các mẫu vật thực:

1
1,2
2
3
3
3

4
4
4,5
5
6
7

2.2.4. Gợi ý học sinh chỉ các màu sắc có trong bức tranh, màu
nào được sử dụng nhiều, màu nào ít sử dung trong bức tranh đó:
2.2.5. Phát huy năng lực sáng tạo và khả năng độc lập của học 8,9
sinh:
9,10
2.2.6. Tổ chức cho học sinh các trò chơi học tập:
2.2.7. Liên hệ với thực tiễn cuộc sống:
10,11
2.2.8 Ứng dụng công nghệ thong tin:
11
3. PHẦN KẾT LUẬN
12
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
12,13
3.2. Kiến nghị - Đế xuất
13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng môn Mĩ thuật - Bộ GD
& ĐT tháng 11/2009
14



2. Sách giáo khoa môn Mĩ thuật lớp 6 - Nhà xuất bản giáo dục.
3. Sách giáo viên môn Mĩ thuật lớp 6 - Nhà xuất bản giáo dục.
4. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Mĩ thuật THCS- Nhà xuất
bản giáo dục(2008)

15



×