Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN tạo hứng thú học tập và giảng dạy nội dung tích hợp phòng, chống tham nhũng trong môn giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT buôn hồ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.77 KB, 34 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐĂK LĂK
TRƯỜNG THPT BUÔN HỒ

Sáng Kiến Kinh Nghiệm

Đề tài

Tạo hứng thú học tập và giảng dạy nội dung tích hợp
phòng, chống tham nhũng trong môn Giáo dục công
dân lớp 12 ở trường THPT Buôn Hồ hiện nay.

Giáo viên: Trần Đình Đào

-1-


1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm trở lại đây, việc dạy và học bộ môn Giáo dục
công dân (GDCD) đang giành được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và
quản lý. Điều này khẳng định được tầm quan trọng và vai trò vị trí của bộ
môn GDCD. Tuy nhiên xuất phát từ thực tiễn dạy và học của bộ môn
GDCD trong trường THPT hiện nay đang còn nhiều vấn đề làm cho
người học, người dạy và nhà quản lý còn trăn trở và nhiều suy nghĩ.
Đó là vị trí thực của bộ môn GDCD như thế nào ? Tại sao trong
suy nghĩ và hành động của đa số học sinh, phụ huynh, giáo viên và một
bộ phận cán bộ quản lý lại cho đây là môn học phụ, môn học mang tính
hình thức? Nếu như vậy nó quá mâu thuẫn với chính vai trò của bộ môn
GDCD là trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho học sinh.
Nguyên nhân của vấn đề đó xuất phát từ đâu?
Giải pháp để hạn chế những tiêu cực trên, giúp môn GDCD ngày
càng lấy lại vị trí của mình và làm tròn trách nhiệm của chính bộ môn.


Đây cũng chính là tâm huyết và trăn trở của bản thân đang trực tiếp giảng
dạy bộ môn này. Chính vì vậy tôi chọn nội dung: “ Tạo hứng thú học tập
và giảng dạy nội dung tích hợp phòng, chống tham nhũng trong môn
Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT Buôn Hồ hiện nay.” làm đề tài
sáng kiến kinh nghiệm của mình.

-2-


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập tích hợp nội dung
phòng chống tham nhũng môn GDCD lớp 12 của học sinh, đề tài tìm ra
nguyên nhân và mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hứng
thú học tập nội dung tích hợp trong môn GDCD lớp 12 cho học sinh.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có một số nhiệm vụ sau:
1. Làm rõ các vấn đề lý luận về hứng thú học tập và hứng thú học
tập nội dung tích hợp phòng chống tham nhũng môn GDCD lớp12
2. Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hứng thú học
tập nội dung tích hợp phòng chống tham nhũng môn GDCD lớp12 cho
học sinh.

-3-


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỨNG THÚ VÀ TÍNH TÍCH CỰC
CHỦ ĐỘNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THPT


I. Một số khái niệm cơ bản.
1. Hứng thú trong học tập và cuộc sống
Hứng thú gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày, chẳng hạn khi
chúng ta nói về một chủ thể nào đó. Hứng thú nếu được hiểu như vậy thì
chỉ là hứng thú trực tiếp hay hứng thú ngắn hạn. Dạng hứng thú này xuất
hiện chủ yếu trong sự chú ý không chủ định của một người chứ không
phải là một đặc điểm cá nhân của nhân cách. Tuy nhiên, hứng thú không
phải là cái trừu tượng vốn có trong mỗi cá nhân mà là kết quả của sự hình
thành và phát triển nhân cách cá nhân. Nó phản ánh một cách khách quan
thái độ đang tồn tại của con người.
Các nhà tâm lý học đã chỉ ra tính chất phức tạp của hứng thú, xem
xét hứng thú trong mối tương quan với các thuộc tính khác của nhân cách
(nhu cầu, xúc cảm, ý chí, trí tuệ,…). Ở Việt Nam cũng có nhiều cách
hiểu khác nhau về hứng thú. Tiêu biểu là nhóm của tác giả Phạm Minh
Hạc – Lê Khanh - Trần Trọng Thuỷ cho rằng: khi ta có hứng thú về một
cái gì đó thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của
nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc
biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối
tượng của nó tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó.

-4-


Qua đó có thể thấy được rằng hứng thú liên quan đến việc cá nhân
đó có cảm xúc, tình cảm thực sự đối với đối tượng mà mình tiếp xúc, qua
đó có niềm vui, nhận thức về đối tượng. Từ đó hình thành nên động cơ
lôi cuốn chủ thể có những mong muốn về trạng thái tình cảm, cảm xúc và
hành động.
Như vậy với nhiều cách hiểu khác cả trên thế giới và Việt Nam, đa

số các tác giả đều hiểu thống nhất hứng thú là thái độ đặc biệt của cá
nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có
khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Hứng
thú tương đối bền vững, nó nói lên xu hướng lâu dài và tương đối bền
vững của nhân cách đối với một đối tượng, một lĩnh vực, một hoạt động
nhất định. Có hứng thú sẽ đem lại khoái cảm cho cá nhân làm cho hoạt
động của mỗi cá nhân có ý nghĩa, hiệu quả hơn.
2. Tầm quan trọng của hứng thú trong học tập và cuộc sống
Trong cuộc sống và hoạt động sản xuất vật chất thường ngày, hứng
thú tạo nên những yếu tố tác động, kích thích những hoạt động của đời
sống con người, từ đó đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của mình.
Trong cuộc sống thường ngày nhu cầu con người luôn hình thành và phát
triển, vì thế nếu tạo được hứng thú là nhân tố tích cực làm cho quá trình
chiếm lĩnh nhu cầu ngày càng dễ dàng và tác động tích cực đến hoạt động
sống của mỗi chủ thể.
Nhu cầu và hứng thú có mối quan hệ tương hỗ, bổ trợ, tác động
qua lại lẫn nhau, nhu cầu chính là tiền đề, cơ sở để mỗi chủ thể, cá nhân
tạo nên hứng thú, từ đó hình thành nên động cơ tích cực, tác động đến đối
tượng để thỏa mãn nhu cầu đó. Quá trình này luôn luôn hình thành và
phát triển đến những mức độ cao hơn trong cuộc sống thường ngày.

-5-


Sự hứng thú thể hiện ở sự tập trung trong công việc, sự say mê,
yêu thích của chủ thể hoạt động, sự hứng thú gắn liền với tình cảm của
con người, là động cơ thúc đẩy con người tham gia một cách chủ động,
tích cực vào các hoạt động đó. Khi hình thành tạo ra được hứng thú trong
công việc, chủ thể sẽ cảm thấy yêu thích, say mê trong công việc, tạo nên
một tình cảm to lớn đối với hoạt động. Từ đó họ nhận thức được rằng,

chính nhờ những công việc đó đã mang lại những tình cảm, cảm xúc đặc
biệt, đây chính là con đường mang lại hiệu quả một cách nhanh nhất,
thành công nhất.
Ngược lại nếu trong hoạt động, chủ thể không tạo được cho bản
thân hứng thú, cảm xúc họ sẽ cảm thấy nặng nề, gượng ép, mệt mỏi, khó
khăn trong công việc. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự thất
bại, hiệu quả thấp và làm cản trở con đường thành công của chủ thể, cá
nhân.
Như vậy, khi đã hình thành và tạo nên sự hứng thú trong công việc
và trong hoạt động nhận thức, chủ thể sẽ hình thành nên những cảm xúc,
xúc cảm, trạng thái đặc biệt, nó sẽ giúp chủ thể vượt qua những thử
thách, khó khăn để chiếm lĩnh thành công.
3. Hứng thú học tập môn GDCD lớp 12 và tính tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh ở trường THPT
Đối với chủ thể là học sinh THPT, việc tạo hứng thú cho bản thân
trong môn học là yếu tố hết sức quan trọng. Nó sẽ tác động rất lớn đến
hiệu quả học tập. Hứng thú là yếu tố quyết định đến sự hình thành và
phát triển năng lực cá nhân.
Nhà tâm lý học L.I.Bôgiôvich đã viết rằng: Đại đa số học sinh
kém thường có thái độ tiêu cực với học tập. Do đó, muốn kết quả học
sinh tốt thì ngoài phương pháp giảng dạy đúng cần phải gây cho họ hứng
-6-


thú trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động của bản thân học sinh.
Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở
nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng vượt qua khó khăn trở ngại, là cơ sở
dẫn đến thành công. Lúc đó, học sinh sẽ không cần đến sự động viên bên
ngoài mà làm việc với sức mạnh của sự say mê bên trong. Vì vậy, hứng
thú học tập được hiểu là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối

tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm, mang lại sự
khoái cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống của mỗi cá nhân.
Đối với từng môn học cụ thể, hứng thú được biểu hiện
và có những nét đặc thù có tính chất khác nhau. Tuy nhiên, dù được hiểu
dưới khía cạnh nào và dưới góc độ của môn học nào thì trong hoạt động
học tập nếu chủ thể có hứng thú tức là có sự quan tâm đặc biệt, sự cuốn
hút, say mê, thích thú, hứng khởi, giảm sự căng thẳng, nhàm chán để từ
đó mang lại kết quả cao. Hứng thú học tập trong bộ môn GDCD 12 là
thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với kết quả, quá trình của sự
lĩnh hội và vận dụng những tri thức cũng như kỹ năng của môn học
GDCD, do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học đối
với bản thân.
Thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với kết quả, quá trình
của sự lĩnh hội và vận dụng những tri thức môn GDCD 12 được biểu
hiện: Thông qua thái độ chăm chú nghe giảng, ghi chép bài một cách đầy
đủ, học sinh tập trung chú ý cao khi nghe giáo viên giảng, tham gia phát
biểu xây dựng bài một cách tích cực, làm bài tập đầy đủ, học bài củ trước
khi đến lớp, đi học chuyên cần, đúng giờ, không cúp tiết, đọc thêm tài
liệu GDCD, nắm bắt những thông tin của xã hội một cách đều đặn và kịp
thời, nêu thắc mắc về các vấn đề khó hiểu, quyết tâm vượt qua khó khăn

-7-


để đạt được mục đích học tập, tham gia các bài tập thực hành, bài tập vận
dụng và phát huy tính sáng tạo.
Qua đó khẳng định tầm quan trọng của chủ thể học tập là học sinh,
phải lấy người học làm trung tâm của mọi hoạt động dạy và học, từ đó sẽ
phát huy hiệu quả tính tích cực chủ động của học sinh.
II. Thực trạng của vấn đề

1. Thuận lợi.
Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Ban giám hiệu,
nhà trường đã không ngừng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
công tác giảng dạy và học tập. Đây chính là sự thuận lợi hết sức cơ bản
và quan trọng đầu tiên, góp phần cho công tác giảng dạy chung của nhà
trường cũng như giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân.
Nhà trường luôn tạo mọi thuận lợi để các cán bộ giáo viên được
tham gia đầy đủ tất cả các buổi tập huấn nâng cao chuyên môn nghiệp vụ
cho mỗi giáo viên nói chung và bộ môn Giáo dục công dân nói riêng.
Bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường không ngừng động viên,
khuyến khích thầy cô giáo vững tâm và ngày càng yêu nghề hơn. Điều đó
đã từng bước khích lệ những hoạt động giảng dạy và học tập của cán bộ
giáo viên.
Mặt khác đối tượng giảng dạy là học sinh lớp 12, các em đã phần
nào nâng cao ý thức trong học tập và có thái độ nghiêm túc, coi trọng
giáo viên. Đa số các em học sinh đều có phẩm chất đạo đức tốt, có sự
giáo dục và giám sát tương đối chặt chẽ của gia đình vì thế luôn nghiêm
túc trong học tập, quý mến thầy cô. Đây chính là thuận lợi có ý nghĩa hết

-8-


sức quan trọng, góp phần thành công cho quá trình giảng dạy, học tập của
giáo viên và học sinh.
Qua đó thấy được những thuận lợi cơ bản, góp phần tạo nên sự
thành công hết sức quan trọng trong công tác giảng dạy bộ môn Giáo dục
công dân trong trường hiện nay.
2. Khó khăn
Bộ môn giáo dục công dân trong suy nghĩ của không ít giáo viên
và học sinh là bộ môn học phụ, vì thế nó tác động không nhỏ đến suy

nghĩ và hành động của các em học sinh. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến sự hứng thú, yêu thích bộ môn.
Mặt khác nội dung tích hợp phòng chống tham nhũng lại là một
trong những nội dung rất khó đối với không những học sinh mà cả chính
bản thân giáo viên, người trực tiếp giảng dạy và truyền đạt kiến thức.
Chính vì thế tạo nên những “rào cản” cho chính người học và cả người
dạy.
Bên cạnh đó, tài liệu phục vụ công tác giảng dạy dành cho bộ môn
Giáo dục công dân không phải là nhiều. Ngoài những tài liệu sách giáo
khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức ra thì rất khó tìm được một số tài
liệu hay phục vụ cho công tác giảng dạy. Đây cũng chính là một trong
những khó khăn tác động không nhỏ đến nội dung và chất lượng tiết dạy
của giáo viên.
Trong những năm trở lại đây, bộ môn Giáo dục công dân ngoài vị
trí vai trò và nhiệm vụ của chính bản thân bộ môn, thì còn phải đảm nhận
thêm vị trí tích hợp của một số nội dung khác. Điều này tác động rất lớn
đến chính nội dung của môn học và tạo cho giáo viên sự phân chia, cân

-9-


đối rất khó, nếu không làm chủ được kiến thức thì sẽ dể dẫn đến “chuyên
tâm” vấn đề tích hợp đó.
Một trong những vấn đề tác động đến việc hình thành hứng thú học
tập cho bộ môn đó chính là đặc trưng của chính bộ môn, nó vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính khái quát hóa trừu tượng hóa cao, dẫn đến
học sinh có tư tưởng chán nản, không thích đọc sách và học tập.
Tất cả những vấn đề đó nó tác động rất lớn đến sự hình thành hứng
thú học tập của mỗi học sinh và tác động đến quá trình giảng dạy của
giáo viên trong nhà trường hiện nay.

Thông qua nội dung phiếu câu hỏi điều tra về hứng thú học tập nội
dung tích hợp phòng chống tham nhũng của các em học sinh khối 12
trước khi áp dụng các phương pháp về tạo hứng thú cho học sinh trong
học tập, kết quả khảo sát như sau:
Câu hỏi 1: Em có cảm thấy hứng thú trong học tập môn Giáo dục công
dân 12 không?
a. Có.
b. Không.
c. Không quan tâm.
Kết quả:
A.Có

B.Không

C.Không quan tâm.

13%

77%

10%

Câu 2: Em nhận thức như thế nào về tầm quan trọng của môn Giáo dục
công dân lớp 12?

- 10 -


a.Môn học bình thường, nên không quan tâm về vai trò của nó.
b. Môn học phụ nên vai trò của nó không quan trọng.

c. Môn học có vai trò quan trọng trong chương trình.
Kết quả:
A

B

C

28%

54%

18%

Câu hỏi 3: Về nhà em có hay học bài củ và đọc trước bài mới môn Giáo
dục công dân 12 không ?
a. Rất ít.
b. Thỉnh thoảng.
c. Thường xuyên .
Kết quả:
A

B

C

50%

36%


14%

Qua kết quả điều tra 10/12 lớp 12 với gần 400 học sinh về vấn đề hứng
thú học tập nội dung tích hợp phòng chống tham nhũng trong môn Giáo
dục công dân ở nhà trường hiện nay cho thấy đây là một thực trạng đáng
buồn về hứng thú đối với môn học. Qua đó đặt ra vấn đề cần nâng cao ý
thức học tập và hứng thú cho học sinh đối với bộ môn giáo dục công dân
lớp 12 hiện nay.

- 11 -


CHƯƠNG 2

NGUYÊN NHÂN, GIẢI PHÁP NHẰM TẠO HỨNG THÚ VÀ PHÁT
HUY HIỆU QUẢ NỘI DUNG TÍCH HỢP PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG TRONG HỌC TẬP MÔN GDCD LỚP 12 HIỆN NAY

I. Đặc trưng của bộ môn GDCD lớp 12 ở trường THPT
Việc trang bị những kiến thức cơ bản, phổ thông, cho học sinh
là yêu cầu bắt buộc của tất cả các môn học trong trường THPT, môn
GDCD không nằm ngoài yêu cầu tất yếu đó. Tuy nhiên do tính đặc thù
của bộ môn là trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho học sinh
nên hệ thống tri thức môn GDCD ở THPT mang tính đa dạng, chính xác,
được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nhiều bộ môn khoa học khác nhau như
triết học, kinh tế - chính trị học đạo đức học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
pháp luật học và chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Những nội dung này lại là những nội dung cơ bản, có tính khái
quát và trừu tượng cao. Những đặc trưng đó được thể hiện:
Hệ thống tri thức môn GDCD ở THPT mang tính khái quát, trừu

tượng hóa cao.
Tính khái quát và trừu tượng hóa của hệ thống tri thức GDCD ở
THPT thể hiện ở những nội dung, luận điểm được đề cập trong mỗi bài

- 12 -


học và từng phần nội dung kiến thức. Đó là những vấn đề lớn ở tầm
vĩ mô chẳng hạn như: những vấn đề cấp thiết của nhân loại, pháp luật với
hòa bình và sự phát triển, tiến bộ của nhân loại hoặc chính sách quốc
phòng và an ninh, chính sách đối ngoại, chính sách dân số và giải quyết
việc làm, chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tính khái quát
trừu tượng của hệ thống tri thức môn GDCD còn thể hiện thông qua
hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật hết sức đặc thù của
triết học, kinh tế - chính trị, pháp luật như: cách thức vận động phát triển
của sự vật, thực tiễn và vai trò của thực tiễn, phương thức sản xuất, lương
tâm, nghĩa vụ…
Nội dung tri thức môn GDCD mang tính hệ thống, logic.
Chương trình GDCD từ lớp 10 đến lớp 12 là một hệ thống với năm
phần. Phần thứ nhất – Hình thành TGQ, PPL khoa học cho công dân;
Phần thứ hai – Công dân với đạo đức; Phần thứ ba – công dân với kinh
tế; Phần thứ tư – Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội; Phần thứ 5
– công dân với pháp luật.
Đây là năm phương diện cơ bản tạo ra những hiểu biết cần thiết
nhất cho một công dân tương lai về các lĩnh vực TGQ, PPL khoa học, các
chuẩn mực đạo đức, pháp luật thể chế chính trị, lĩnh vực kinh tế - xã hội,
từ đó học sinh THPT nâng cao ý thức trách nhiệm công dân. Năm phần
này là một chỉnh thể không thể thiếu hoặc xem nhẹ một lĩnh vực nào
trong việc hình thành những hiểu biết của công dân. Giữa các phần đều
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phần thứ nhất: Hình thành TGQ,

PPL khoa học cho công dân làm cơ sở lý luận cho các phần còn lại. Phần
thứ 3: Công dân với kinh tế là cơ sở kinh tế cho việc xem xét các phần
khác. Các phần: Công dân với đạo đức, Công dân với các vấn đề chính trị
- xã hội, Công dân với pháp luật là những phẩm chất đạo đức, chính trị,
- 13 -


hiểu biết, ý thức và hành vi pháp luật cần phải có của một công dân,
chúng có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi một phần trong toàn bộ
chương trình là một hệ thống lôgic và mỗi chương trong từng phần cũng
là một hệ thống có kết cấu lôgic biện chứng.
Hệ thống tri thức môn GDCD ở THPT gắn liền với tính thực tiễn
cao
Tri thức của tất cả các môn học đều gắn liền với tính thực tiễn
cuộc sống ở những khía cạnh khác nhau. Đối với môn GDCD, đặc điểm
cơ bản của nó mang tính thời sự, gắn liền thực tiễn sâu sắc. Những tri
thức của môn học dù khái quát, trừu tượng hay cụ thể đều tập trung phản
ánh những vấn đề, những hiện tượng đang nảy sinh trong cuộc sống hằng
ngày. Từ những vấn đề thách thức toàn cầu như chủ quyền quốc gia (biển
đảo), bùng nổ dân số, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, đến những vấn đề
của một quốc gia đang phải giải quyết như chính sách giải quyết việc
làm, chính sách giáo dục, chính sách bảo vệ môi trường. Các sự kiện lớn
về chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa, luật pháp diễn ra trong đời sống
thường ngày đòi hỏi trong quá trình dạy học, nhất thiết phải được giáo
viên đưa vào bài giảng.
Như vậy từ việc xác định những đặc thù của bộ môn GDCD ở
trường THPT chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến
học sinh ít hứng thú đến bộ môn này.
Thứ nhất


do đặc thù của môn học, tính trừu tượng và khái quát

cao, khô khan là nguyên nhân ảnh hưởng nhiều nhất đến hứng thú học tập
của học sinh. Điều này xuất phát từ thực trạng dạy và học môn GDCD ở
bậc phổ thông hiện nay. Mặc dù đã thực hiện chương trình giảm tải, tuy
nhiên chương trình khá dài và nặng nề, nhiều nội dung chưa được sắp

- 14 -


xếp phù hợp với độ tuổi và tâm sinh lý của học sinh, thời lượng giảng dạy
không đủ để chuyển tải khối lượng kiến thức.
Thứ hai vị trí và vai trò của bộ môn GDCD hiện nay chưa được
coi trọng điều nay có tác động lớn đến thái độ học tập của học sinh và
tâm lý giảng dạy của giáo viên. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hứng thú
học tập môn GDCD. Bởi xuất phát từ nhận thức sai lệch của học sinh về
môn này sẽ làm cho các em không chú trọng, đầu tư học tập mà chỉ là
học cho qua, học bài kiểu đối phó. Bên cạnh đó giáo viên cũng chưa chú
trọng đầu tư nhiều cho mỗi giờ giảng.
Thứ ba bộ môn GDCD đã phải “gánh” thêm quá nhiều nội dung
tích hợp khác, như: Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa
gia đình, kỹ năng sống, bảo vệ môi trường, giáo dục pháp luật, giáo dục
phòng chống tham nhũng …Vì thế, nhiều giáo viên cho biết việc giảng
dạy nhiều lúc rất nặng tính hình thức. Mỗi tuần, chỉ có một tiết GDCD
trong khi chương trình lồng ghép thì dạy khi bài nào đó có nội dung
tương tự hoặc liên quan.
Qua những nguyên nhân cơ bản như trên đã tác động rất lớn đến
hoạt động giảng dạy và học tập của học sinh. Giáo viên có tâm lý “dạy
cho xong nghĩa vụ” và chưa đầu tư nhiều cho chuyên môn điều này tác
động rất lớn đến hứng thú học tập của học sinh. Dẫn đến học sinh xuất

hiện tâm lý học tập đối phó, không thích học và mang tính ép buộc. Từ
đó nó lại tiếp tục tác động đến giáo viên khi thấy tâm lý học sinh không
hứng thú học, cứ như vậy giữa giáo viên và học sinh tự tạo ra những rào
cản, càng làm cho việc học tập và giảng dạy bộ môn GDCD ngày càng
mất dần vị trí và vai trò của nó.

- 15 -


II. Những giải pháp cơ bản nhằm tạo hứng thú và phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh trong học tập nội dung tích hợp phòng
chống tham nhũng ở bộ môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Buôn Hồ
hiện nay.
1. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú và phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học đối với bộ môn GDCD đang được
xem là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đa số các giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy bộ môn GDCD đều thấy được vai trò, vị trí hết sức quan trọng của bộ
môn GDCD và đang từng bước thay đổi phương pháp nhằm tạo hứng thú
cho học sinh. Tuy nhiên xuất phát từ thực tế do nhiều sự tác động và góc
độ khác nhau, bộ môn GDCD vẫn được xem là môn học phụ, khô khan,
trừu tượng. Đa số giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD vẫn còn chủ yếu sử
dụng phương pháp truyền thống đọc chép, dạy học chủ yếu một chiều vì
thế tạo tâm lý nhàm chán cho học sinh. Vậy để môn GDCD thực sự phát
huy hiệu quả vai trò của mình, mỗi giáo viên phải thấy được đổi mới
phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nhàm phát huy hiệu quả tính chủ động, tích cực, sáng tạo và
niềm say mê, hứng thú cho học sinh.
Sự thành công của mỗi tiết dạy như thế nào, yếu tố có tính quyết
định là giáo viên. Người dẫn dắt và xây dựng các hoạt động để cuốn hút,

lôi cuốn, tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ giảng. Vì thế người
giáo viên được xem như “tổng đạo diễn” các hoạt động chính từ chắt lọc
nội dung trong sách giáo khoa như thế nào, lựa chọn ví dụ sao cho phù

- 16 -


hợp, sử dụng và lựa chọn những phương pháp nào là chủ đạo, tổ chức tiết
học thế nào nhằm cuốn hút nhất sụ hoạt động tích cực của mỗi học sinh.
Trong mỗi giờ học môn GDCD học sinh phải được cuốn hút, lôi
cuốn vào các hoạt động tổ chức của giáo viên và cũng chính những nội
dung đó mỗi học sinh đều làm chủ các hoạt động một cách tích cực. Từ
đó tạo cơ hội cho học sinh tự thể hiện những năng lực, khả năng của bản
thân mình, khai thác tối đa kinh nghiệm sống của học sinh, từ đó giúp các
em thể hiện rõ và thẳng thắn quan niệm sống của mình như thế nào thông
qua nội dung bài học.
Chính vì vậy mỗi giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD 12 muốn thu
hút, tạo hứng thú tích cực cho học sinh cần nhận thức được rằng không
có một phương pháp nào là tối ưu, mà cần vận dụng một cách linh hoạt
các phương pháp trong từng bài học, từng đối tượng học sinh của từng
lớp. Trong những phương pháp mà giáo viên sử dụng trong bài giảng,
giáo viên cần phải xác định được rằng đâu là phương pháp chiếm ưu thế
và tạo nên được sự cuốn hút, thích thú của học sinh vào bài giảng thì
giáo viên cần tập trung, nghiên cứu, đầu tư và vận dụng một cách hiệu
quả nhất so với các phương pháp đang sử dụng khác. Đây chính là điểm
nhấn rất quan trọng trong việc sử dụng phương pháp vào từng bài dạy
của bộ môn GDCD.
Ví dụ
Khi giảng dạy Bài 2: Thực hiện pháp luật của lớp 12 cần xác định
được những nội dung cơ bản về kiến thức, về kỹ năng về thái độ để từ đó

xác định được phương pháp đúng, phù hợp
Về kiến thức:

- 17 -


- Người có hành vi tham nhũng là người vi phạm pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước.
- Để hiểu được những hành vi nào là hành vi tham nhũng cần hiểu được
khái niệm tham nhũng.
- Người có hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
Về kĩ năng:
- Phân biệt hành vi vi phạm pháp luật do tham nhũng với các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
- Phân biệt trách nhiệm pháp lí đối với vi phạm luật do tham nhũng với
các loại trách nhiệm pháp lí khác.
Về thái độ:
Đồng tình với việc xử lí vi phạm đối với người có hành vi tham
nhũng.
Từ đó xác định được những phương pháp cụ thể sử dụng trong bài
học:
+ Phương pháp thảo luận nhóm.
+ Phương pháp xử lý tình huống.
+ Phương pháp giải quyết vấn đề
+ Phương pháp thuyết trình
+ Kết hợp công nghệ thông tin
Trong các phương pháp cơ bản đó, giáo viên cần nhận thức được
rằng, phương pháp thuyết trình là chủ yếu và giữ vai trò chủ đạo xuyên
suốt toàn bộ bài dạy. Bởi vì bài này thuộc khối kiến thức pháp luật nên

- 18 -


trừu tượng mặt khác những vấn đề nội dung về tham nhũng, phòng chống
tham nhũng mới và khó tiếp cận. Giáo viên cần đưa đến học sinh một
lượng kiến thức phù hợp với lứa tuổi và thời gian tiết dạy. Đây cũng
chính yêu cầu cơ bản nhằm xây dựng hứng thú cho học sinh trong tiết
dạy.
Mặt khác trong bài này, giáo viên thông qua một đoạn phim ngắn
về các vụ án tham nhũng để thu hút sự chú ý của học sinh, tạo nên sự
hứng thú ban đầu để giải quyết những nội dung tiếp theo. Thông qua đó
cho học sinh đi vào thảo luận nhóm để bàn bạc và rút ra vấn đề cơ bản
của bài học, vì thế giáo viên cần thấy được rằng trong bài này phương
pháp thảo luận nhóm là cơ bản và chủ đạo. Như vậy thông qua phương
pháp thảo luận nhóm giáo viên tăng cường tính chủ động, tích cực và
hứng thú cho học sinh. Trên cơ sở đó giáo viên khái quát và chốt lại một
số nội dung chính, cơ bản của bài học.
Thông qua phương pháp này, giáo viên nêu ra một số ví dụ một
cách cụ thể và chính xác những vụ án mang tính thời sự, trọng điểm vừa
qua về tham nhũng. Như: Vụ Vinashin, vụ Lã Thị Huyền Như, vụ án
Ngân hàng ở ĐăkNông
Trong vụ “đại án” tham nhũng xảy ra tại Ngân hàng Phát triển Việt
Nam khu vực Đắk Lắk - Đắk Nông, TAND tỉnh Đắk Nông đã tuyên 1 án
tử hình, 3 án chung thân. Sáng 25-9, TAND Tối cao tại Đà Nẵng đã đưa
ra xét xử phúc thẩm vụ án Vũ Việt Hùng, nguyên Giám đốc Ngân hàng
phát triển Việt Nam khu vực Đắk Lắk - Đắk Nông (VDB Đắk Lăk - Đắk
Nông) và đồng phạm về tội nhận hối lộ, chiếm đoạt hơn 1.000 tỷ đồng
xảy ra tại VDB Đắk Lắk - Đắk Nông

- 19 -



Đại án tham nhũng Công ty Vifonthiệt hại cho Nhà nước và các cổ
đông số tiền gần 20 tỷ đồng. Các bị cáo Đàm Tú Liên (53 tuổi), nguyên
kế toán trưởng 8 năm tù. Hai bị cáo Ka Thị Thu Hồng (55 tuổi), nguyên
thủ quỹ và Dương Thị Mẫn (67 tuổi), nguyên kế toán thanh toán, mỗi bị
cáo bị phạt 7 năm tù cùng về tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Vụ Huỳnh Thị Huyền Như và 22 đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản lớn nhất từ trước đến nay, với số tiền chiếm đoạt gần 4.000 tỷ
đồng.
Như vậy thông qua những ví dụ cụ thể mang tính thời sự và điển
hình đó, tạo cho học sinh những hứng thú trong tiết học, tránh sự nhàm
chán, khô khan của bài học.
Phương pháp thảo luận nhóm: Tăng cường tính hợp tác, bàn luận
vấn đề (Đối với bài này chỉ sử dụng trong phần kiến thức đơn giản và
thời gian ngắn)
Trong quá trình giảng dạy giáo viên linh hoạt nêu một số câu hỏi
mang tính chất liên môn, vận dụng kiến thức văn học làm sáng tỏ vấn đề.
Qua đó giúp học sinh nhàm chán, kích thích hứng thú, tìm tòi trong bài
học. Như:
Em hãy tìm một số câu ca dao, tục ngữ, văn học nói về những hiện
tượng tiêu cực trong xã hội đã có từ xưa?
Qua thực tiễn tiết dạy học sinh đã trả lời và tìm được những câu ca
dao, tục ngữ phù hợp nội dung bài dạy như sau:
“Con ơi nhớ lấy câu này:

- 20 -



Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.”
“Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa lại quét lá đa.”
“con vua thì lại làm vua
con nhà kẻ khó bắt cua tối ngày”
“Tri phủ Xuân Trường được mấy niên,
Nhờ trời hạt ấy được bình yên.
Chữ “y” chữ “chiểu” không phê đến,
Quan chỉ quen phê một chữ”tiền””(tú xương)
Từ đó có thể nhận thấy được rằng giáo viên sử dụng kiến thức liên
môn một cách phù hợp vừa tạo hứng thú cho học sinh, vừa tạo ra tính tư
duy, sáng tạo, tìm tòi cho học sinh trong tiết học.
Phương pháp trực quan: Kích thích và tạo được hứng thú cho học
sinh, bước khởi điểm cho sự nhập cuộc bài học một cách hiệu quả.
Bằng những hình ảnh minh họa mà giáo viên sưu tầm cho học sinh
quan sát và đưa ra những lời bình luận bức tranh với tiêu chí: Có ý nghĩa
– Hài hước. Qua đó kích thích tính sáng tạo, dí dỏm của các em, tạo nên
hứng thú trong quá trình học tập.
Trong bài phần Trách nhiệm pháp lý có thể sử dụng phương pháp
trực quan thông qua trò chơi bình luận tranh như sau:

- 21 -


Cho mỗi nhóm học sinh một bức tranh có nội dung châm biếm,
phê phán, lên án tình trạng tham nhũng, mãi lộ. Từ đó các nhóm sẽ đưa ra
những bình luận tranh của mình, sau khoảng thời gian nhất định giáo viên
cử đại diện nhóm trình bày giữa tập thể lớp. Lúc này giáo viên với tư
cách là trọng tài và đưa ra quyết định, nhận xét xem nhóm nào có câu
bình luận hay, hóm hĩnh, châm biếm, phù hợp chủ đề tranh sẽ khen

thưởng trước lớp bằng tràng vỗ tay hoặc cho điểm cả nhóm…
Ví dụ: Qua bức tranh này, yêu cầu nhóm đưa ra bình luận.

Kết quả thu được thực tế của nhóm học sinh được chọn lọc:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên đống tiền đô”
“Muốn qua phải lót đồng tiền
Muốn no phải lấy nhiều tiền của dân”
“Công lý dưới dấu bánh xe”

- 22 -


Kết quả thu được từ nhóm khác qua bức tranh này:

"Đã béo còn kéo nhau ăn"
"Quan tham lại còn ăn tham"
“Đất công là của các ông
"Gặm" cho phì má, "béo" hông rồi kìa!”
Như vậy giáo viên phải nhận thức sâu sắc rằng đổi mới phương
pháp dạy học tích cực, nhằm gây hứng thú và tạo ra tính tích cực chủ
động cho học sinh không có nghĩa là gạt bỏ, thay thế hay loại trừ hoàn
toàn các phương pháp truyền thống. Xuất phát từ đặc thù của bộ môn
GDCD mỗi giáo viên cần biết kế thừa, kết hợp và phát huy hiệu quả các
phương pháp dạy học. Bên cạnh đó giáo viên cần thấy được rằng không
có phương pháp dạy học nào là vạn năng, mỗi phương pháp đều có mặt
- 23 -


mạnh, hạn chế của nó vì thế cần biết kết hợp một cách linh hoạt, hài hòa,

khoa học các phương pháp dạy học. Tuy nhiên cần phải thấy được
phương pháp nào là cơ bản, chủ đạo trong nhóm phương pháp đó. Thực
hiện được điều này, chắc chắn trong mỗi giờ dạy giáo viên sẽ chủ động
được những tình huống, tạo nên tính hứng khởi, tránh tâm lý nhàm chán
đối với học sinh. Qua đó luôn tạo nên được cái mới trong quá trình giảng
dạy và học tập. Từ đó sẽ kích thích sự hứng thú học tập và phát huy được
tính năng động, sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn GDCD hiện
nay ở trường THPT.
2. Tạo tâm lý thoải mái cho học sinh trong quá trình học tập và giảng
dạy bộ môn GDCD lớp 12
Bản thân hiện là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn GDCD
lớp 12 ở trường THPT, tôi nhận thấy yếu tố tâm lý tác động rất lớn đến
thái độ học tập, sự lĩnh hội và hứng thú của học sinh đối với bộ môn. Đặc
biệt đối với bộ môn GDCDlớp 12, nó gắn liền những đặc trưng cơ bản
của nó, cùng với khối lượng kiến thức tương đối rộng và nhiều. Tác động
đến tâm lý học sinh nhàm chán, nhác học, gượng ép, bắt buộc. Chính vì
vậy giáo viên cần nắm bắt tâm lý này của học sinh, chủ động thiết lập
“mối quan hệ” giữa giáo viên và học sinh, học sinh và kiến thức sách
giáo khoa.
Nếu vào mỗi tiết dạy, giáo viên cứ mãi tập trung vào quy trình định
sẵn trong giáo án kiểm tra bài củ - vào bài mới – kết thúc tiết dạy. Nó sẽ
tạo nên áp lực và tâm lý gượng ép, nhàm chán, đối phó với bài giảng của
giáo viên.
Hiện nay theo bản thân tôi cần có cái nhìn thoáng hơn về kiểm tra
đánh giá bài củ của học sinh trong môn GDCD. Chúng ta cũng không
nhất thiết bắt các em phải đến mỗi đầu giờ lên bảng đọc thuộc lại những
nội dung hôm trước đã học, điều này tạo nên tính thụ động. Trong khi đó
- 24 -



những kiến thức này xét trên góc độ giáo dục là các em vận dụng như thế
nào vào cuộc sống. Đây chính là cái chúng ta cần đạt đến.
Vì thế khi vào lớp giáo viên phải là người chủ động tạo nên tâm lý
thật thoải mái cho học sinh bằng cách kể một câu chuyện vui, hỏi thăm
lớp một vấn đề gì đó, trao đổi nhanh một tin nóng thời sự nào mà mình
mới cập nhật. Đặc biệt thái độ của học sinh đối với môn học còn có sự
diễn biến thùy thuộc vào thời gian. Từ tiết 1 đến tiết 5 tâm lý, thái độ
hứng thú của các em có sự thay đổi, vì thế trong dạy học bộ môn GDCD
giáo viên cần phải đứng trên góc độ của một nhà tâm lý học để xem xét
và giải quyết vấn đề, linh hoạt trong việc điều tiết, chủ động tiết dạy sao
phù hợp tâm lý các em. Có như vậy sẽ tạo nên tâm lý thoải mái, hứng
khởi cho các em. Đây cũng chính là yếu tố giúp các em hứng thú trong
học tập đối với bộ môn GDCD lớp 12 .
Bên cạnh đó để tạo tâm lý hứng khởi, thoải mái, hứng thú cho học
sinh trong học tập giáo viên cũng cần chú trọng đến khâu kiểm tra và
đánh giá học sinh. Đó chính là phương pháp ra đề kiểm tra. Mặc dù thực
tế chúng ta có nhiều đợt tập huấn công tác ra đề kiểm tra, đánh giá học
sinh tuy nhiên đối với đặc trưng bộ môn GDCD giáo viên nên ra đề kiểm
tra đánh giá theo hướng mở. Hạn chế tối đa việc ra đề tái hiện kiến thức,
thuộc lòng, chép lại. Có như vậy mới tạo nên sự hứng thú, sáng tạo trong
cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề của học sinh. Học sinh được quyền phát
huy tính chủ động, trình bày quan điểm sống, ý kiến của bản thân một
cách thiết thực và khách quan nhất. Có thể xem đây là một diễn đàn mở,
học sinh thể hiện những hiểu biết, nhận thức của chính bản thân mình về
cuộc sống và các mối quan hệ xung quanh bản thân mình.
Có thể nói hướng ra đề kiểm tra mở đối với học sinh theo bản thân
tôi đã tạo được sự thích thú, hứng khởi và tâm lý thoải mái cho học sinh
trong đánh giá và kiểm tra. Học sinh không phải học thuộc lòng từng câu,

- 25 -



×