Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Đề tài kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp nêu vấn đề trong phần đạo đức môn giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT cẩm thủy III tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.87 KB, 55 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã dẫn
bước cho lịch sử nhân loại bước sang một kỷ nguyên mới:kỷ nguyên của
thông tin, tri thức.Và ngày nay, chìa khóa vàng để mỗi quốc gia tiến bước
vào tương lai, đến với kho tàng của tri thức đú chớnh là giáo dục.
Giáo dục không chỉ cú chỳc năng chuyển tải những kinh nghiệm lịch sử
của thế hệ trước cho thế hệ sau, mà quan trong hơn là trang bị cho mỗi người
phương pháp học tập, tìm cách phát triển năng lực nội sinh, phát triển tư duy
nội tại, thích ứng được với một xã hội học tập thường xuyên và học tập suốt
đời. Để người học đáp ứng được những nhu cầu đó, việc cải cách, đổi mới
GD là một việc hết sức cần thiết và cấp bách, trong đó đổi mới là khâu then
chốt nhất trong quá trình đạt đến mục tiêu đổi mới GD.
Nhận thức được việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập là một
trong những vấn đề bức thiết hiện nay ở nước ta, Đảng va Nhà nước cũng
như bộ GD và ĐT đã đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm thúc đẩy việc đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. “Đổi mới phương
pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người
học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh
nhồi nhét, học vẹt, học chay.”
Luật giáo dục nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005(điều
5 khoản 2) đã ghi: “Phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác
chủ động, tư duy sáng tạo của người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lờn”
Ở cấp học PT,mụn GDCD là một trong những môn học cơ bản góp
phần tạo nên nội dung dạy học, GD tồn diện.Việc hình thành và giáo dục
TGQ, PPLKH, đạo đức cho học sinh do tất cả các mơn học, các hình thức
giáo dục của nhà trường thực hiện, song chỉ có mơn GDCD mới trực tiếp GD
1



cho học sinh những tri thức theo một hệ thống xác định toàn diện về TGQ và
nhân sinh quan, mới cho học sinh hiểu được những quy luật phát triển tất yếu
khách quan của xã hội loài người, giúp học sinh nhận thức đúng đắn: sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có ý thức trách nhiệm cao đối với tổ
quốc, đối với nhân dân, đối với gia đình và đối với chính bản thân mình,
đồng thời đây cũng là mơn học kích thích mạnh mẽ sự phát triển năng lực trí
tuệ chung như tư duy trừu tượng, logic, biện chứng...và rèn luyện thao tác tư
duy như: phân tích tổng hợp, so sánh, khỏi quỏt...cũng như những phẩm chất
của tư duy: linh hoạt, độc lập, sáng tạo.
Nhưng thực tế dạy học môn GDCD hiện nay cho thấy: phương pháp
dạy học vẫn là truyền thụ theo lối một chiều chưa phát huy được tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của người học. Với phương pháp dạy học như vậy
sẽ không đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ của mơn học và làm giảm sút vị
trí mơn học, khơng đáp ứng đòi hỏi về đào tạo con người lao động mới phát
triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu của xã hội và thời đại.
Từ những yêu cầu bức xúc trên, và để góp một phần nhỏ bé của mình
vào việc nâng cao chất lượng học tập mơn GDCD lớp 10 đồng thời tạo điều
kiện cho bản thân sau này dạy học có hiệu quả hơn. Chúng tơi đã mạnh dạn
tiến hành nghiên cứu đề tài: “kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp nêu vấn đề trong phần đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 10
ở trường THPT Cẩm thủy III tỉnh Thanh Hóa”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích để hiểu biết đầy đủ và sâu sắc hơn
về việc sử dụng và kết hợp các phương pháp dạy học môn GDCD ở
trường THPT mà đặc biệt là việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm và
phương pháp nêu vấn đề trong phần đạo đức mơn GDCD lớp 10 ở trường
THPT. Ngồi ra cịn cho thấy được thực trạng của việc vận dụng các
phương pháp trên ở trường THPT. Từ đó đề xuất quy trình và điều kiện
2



vận dụng việc kết hợp các phương pháp dạy học trong dạy học môn
GDCD để các sinh viên khoa GDCT trường ĐHSPHN tham khảo và vận
dụng vào việc giảng dạy nhằm đạt kết quả cao hơn trong giảng dạy môn
GDCD ở trường THPT sau này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trình bày khái quát việc dạy học môn GDCD ở trường THPT
Nguyên nhân và thực trạng của việc vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp nêu vấn đề ở trường THPT Cẩm Thủy III-tỉnh
Thanh Hóa.
Đề xuất phương hướng và cách giải quyết nhằm vận dụng từng bước
các phương pháp này vào việc dạy học môn GDCD lớp 10 phần “cụng dân
với đạo đức”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kết hợp phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Cẩm ThủyIII- Thanh Hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp nêu vấn đề trong dạy
học môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Cẩm Thủy III-tỉnh Thanh Hóa.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Cơ sở phương pháp luận của đề tài dưa trên cơ sở:
Quan điểm của chủ nghĩa Mỏc-Lờnin về nhận thức và giáo dục.
Quan điểm, chính sách của Đảng về giáo dục và đào tạo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận:


3


Nghiên cứu, phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp nêu vấn đề nhằm xây dựng cơ sở lý
luận của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát (dự giờ,thăm lớp) nhằm tri giác trực tiếp đối
tượng và thu được những thông tin đầy đủ về thực nghiệm và đối chứng.
Phương pháp điều tra:điều tra thực trạng việc dạy và học GDCD ở
trường THPT Cẩm Thủy III-tỉnh Thanh Hóa.
Phương pháp phỏng vấn: trao đổi trị chuyện với giáo viên và học sinh
nhằm tìm hiểu thực trạng dạy và học mơn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy
III-tỉnh Thanh Hóa.
5. Những đóng góp của đề tài:
Xây dựng quy trình vận dụng việc kết hợp phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp nêu vấn đề trong dạy học giáo dục công dân lớp 10.
Đề tài khẳng định con đường đổi mới phương pháp dạy học trong nhà
trường theo hướng tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Giúp học sinh ngày càng thích thú hơn và nhận thấy được tầm quan
trọng của việc học tập môn Giáo dục công dân ở trường THPT.
6. Cấu trúc của đề tài:
Cấu trúc của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về PPDH.
Chương II: Thực trạng của việc dạy và học môn giáo dục công dân lớp
10 ở trường THPT Cẩm thủy III-tỉnh Thanh Hóa và việc vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần đạo
đức môn GDCD lớp 10.
Chương III: Những phương hướng và giải pháp nhằm vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm và phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần đạo

đức môn GDCD lớp 10.

4


Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1.1. Lý luận chung về phương pháp.
“Phương phỏp” một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “Methodos”
ghĩa là “con đường nghiên cữu”, “cỏch thức nhận thức”, nguyên văn là con
đường đi tới một cái gì đó; có nghĩa là cách thức đạt tới mục đích.
PPDH được hiểu là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất giữa GV
và HS nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ dạy học.
PPDH GDCD là một khoa học, thuộc chuyên ngành khoa học giáo dục,
một bộ phận của lí luận dạy học.
1.1.1. PP nêu vấn đề trong day học môn giáo dục công dân.
PPDH nêu vẫn đề là PPDH, trong đó GV tạo ra các tình huống mâu
thuẫn, đưa HS vào trạng thái tâm lý tìm tịi, khám phá, từ đó hướng dẫn,
khích lệ HS tỡm cỏc giải quyết để nắm được kiến thức, phát triển trí tuệ và
thái độ học tập.
Đây không phải là một PP dạy học cụ thể đơn thuần mà là một tập hợp
nhiều PP dạy học liên kết chặt chẽ và tương tác với nhau trong đó phần nêu
vấn đề (xây dựng bài túan nhận thức) giữ vai trò chung tâm chủ đạo. PP dạy
học nêu vấn đề là phương pháp dạy học trong đó học HS được lơi cuốn tham
gia vào một cách có hệ thống vào q trình giải quyết các vấn đề (bài tốn
nhận thức), địi hỏi người học phải tìm tòi phát hiện vấn đề và cách giải
quyết vấn đề.
- Đặc điểm của PP vấn đề là:
+ HS tiếp nhận mâu thuẫn và được đặt vào trạng thái có nhu cầu giải

quyết mâu thuấn giữa cái đã biờt và cái phải tìm .
+ HS tiếp nhận mâu thuẫn và được đặt vào trạng thái có nhu cầu giải
quyết mâu thuẫn, mong muốn giải quyết mâu thuẫn (vẫn đề) đó.
5


Cách thức tiến hành phương pháp nêu vấn đề.
1. Xây dựng tình huốn có vấn đề:
a. Tạo tình huống có vấn đề.
b. Phát hiện nhận dạng vấn đề nảy sinh.
c. Phát biểu vấn đề cần giải quyết.
2. Giải quyết vấn đề đặt ra:
a. Đề xuất cách giải quyết.
b. Lập kết hoạch giải quyết.
c. Thực hiện kế hoạch giải quyết.
3 Kết luận:
a. Thảo luận kết quả và đánh giá.
b. khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra.
c. Phát biểu kết luận.
d. Đề xuất vấn đề mới.
Trong dạy học nêu vấn đề có thể phân biệt bốn mức trình độ:
Mức 1: GV đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách
giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV. GV đánh giá kết quả làm việc của
HS.
Mức 2: GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm ra cách giải quyết vấn đề. HS
thực hiện cỏch giỏi quyết vấn đề với sự giúp đớ của GV khi cần GV và HS
cùng đánh giá.
Mức 3: GV cung cấp thơng tin có vấn đề. HS phát hiện và xác định vấn
đề nảy sinh , tự đề xuất cách giả thuyết và lựa chon giải pháp . HS thực hiện
cách giải quyết vấn đề. GV và HS cùng đánh giá.

Mức 4: HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hồn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. HS giải quyết vấn đề, tự đánh
giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của GV kết thúc.
Các mức

Đặt vấn đề

Nêu

giả Lập

thuyết

hoạch
6

kế Giải quyết Kết
vấn đề

luận

đánh giá


1

GV

GV


GV

HS

HV

2

GV

GV

HS

HS

GV+HS

3

GV+HS

HS

HS

HS

GV+HS


4

HS

HS

HS

HS

GV+HS

- Ưu điểm:
+ PPDH nêu vấn đề phát huy được tính tích cực, tự giác học tập của HS,
giúp hình thành tính độc lập và sáng tạo trong tư duy, khắc phục được tình
trạng thụ động trong việc tiếp nhận tri thức của HS.
+ Áp dụng PP này là một biện pháp tốt để biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo.
+ PPDH nêu vấn đề giúp cho HS vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm
được PP chiếm lĩnh tri thức đó. Phát triển tư duy tích cực sáng tạo. chuẩn bị
được một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, đó là phát hiện kịp thời và
giải quyết hợp lý các vấn đề mới nảy sinh, thực hiện tốt PP này chính là “dạy
học cách học” cho người học.
+ PPDH nêu vấn đề giúp HS vứng tin vào chân lý của các tư tưởng do
chính mình rút ra và kiêm nghiệm, rèn luyện tác phong mạnh dạn, tự tin, tính
độc lập trong học tập và sinh họat tập thể, tạo niềm vui sướng cho sự khám
phá tri thức cho HS.
+ Áp dụng PP này giúp kiến thức được củng cố và được khắc sâu trong
trí nhớ HS.
+ PPDH nêu vấn đề giúp cho GV thu được những thông tin phản hồi

của HS, tự đú GV điều chỉnh hướng suy nghĩ giải quyết vấn đề của HS được
đúng hướng.
+ PP này thích hợp cho mọi cấp học và mọi môn học.
+ PP này không yêu cầu phải sử dụng các phương tiện hiện đại, rất
phù hợp cho điều kiện còn thiếu trang thiết bị day học hiện đại ở trường
PT hiện nay.
7


- Hạn chế:
+ PP nêu vấn đề yêu cầu GV đầu tư nhiều công sức và thời gian vào
việc soạn giáo án, GV phải đặt ra được tình huống có vấn đề, dự kiến các
hướng giải quyết vấn đề của HS và các phương án để điều chỉnh tư duy của
HS vào phương án giải quyết vấn đề đúng.
+ Mức độ tham gia của HS phụ thuộc vào trạng thái tâm lý và phụ
thuộc vào GV đặt ra tình huống có vấn đề có thật sự là “cú vấn đề” đối với
HS hay không?
+ Không phải bất cứ chủ đề gì, nội dung gì cũng có thể sử dụng PP nêu
vấn đề.
+ HS sẽ dễ bị lạc hướng trong quá trình giải quyết tình huống, dễ nản
khi gặp tình huống khó hoặc khơng nhiệt tình tham gia khi tình huống thiếu
tính hấp dẫn. chưa kể đến tình huống khó thực hiện do tốn kém kinh phí.
1.1.2. PP thảo luận trong dạy học mơn GDCD.
PP thảo luận nhóm là PPDH trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia
thành cỏc nhúm nhỏ để tất cả các thành viên ở trong lớp đều được làm việc,
được bàn bạc và trao đổi về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của
nhúm mỡnh về vẫn đề đó.
Thảo luận nhóm là PP dùng để trao đổi ý kiến với người khác về một
vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra mọi khía cạnh của vấn đề với mục đích cuối
cùng là cả nhóm đạt được một cách hiểu thống nhất về vấn đề đó.

PP thảo luận nhóm là sự phát triển của PP thảo luận trên lớp (xemina).
PP này hiện nay được sử dụng khá phổ biến ở tất cả các môn học trong
trường THPT, trong đó cú mụn GDCD.
Mục đích của PP thảo luận nhóm là làm tăng tối đa cơ hội để học sinh
làm việc và thể hiện khả năng của mình, được chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung bài học.
Đây là PPDH hợp quy luật tâm lý con người. Mọi cá nhân từ nhỏ đến
lớn đều có xu hướng thích sinh hoạt, quan hệ và làm việc trong cỏc nhúm
8


nhỏ. ở đó cá nhân khơng những được thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, có cảm
giác an tồn mà cịn xuất hiện những hứng khởi làm tăng hiệu xuất là việc do
có sự tương tác mặt đối mặt giữa các thành viên, có sự phụ thuộc lẫn nhau
một cách tích cực và trách nhiệm phải giải thích vấn đề thuộc về từng cá
nhân trong nhóm và kĩ năng xử lý tình huống trong nhóm.
- Các hình thức thảo luận nhóm.
+ Nhóm nhỏ thơng thường: GV chia lớp học thành cỏc nhúm (từ 5 đến
7 HS) để thảo luận một vấn đề cụ thể và nhanh tróng đưa ra kết luận của tập
thể về vấn đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp với các PP
dạy học khác trong một bài học, một tiết học, nội dung thảo luận của một
nhóm nhỏ thơng thường là các vấn đề ngắn, thời lượng ít (từ 10 đến 15
phút).
+ Nhóm nhỏ rì rầm: GV chia lớp thành cỏc nhúm “cực nhỏ” tù 2 đến 3
HS (thường là cùng một bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất một câu hỏi
trả lời, giải quyết một vấn đề nêu một ý tưởng, một thái độ… để nhóm rì rầm
có hiệu quả, GV cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ kiện, gợi ý và nêu rõ
yêu cầu đối với các câu trả lời để các thành viên tập trung vào giải quyết.
+ Nhóm kim tự tháp: Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm, sau
khi thảo luận theo cặp(nhúm rì rầm) các cặp (nhóm rì rầm) kết hợp thành

một nhóm để hồn thiện một vấn đề chung. Nếu cầm thiết có thể kết hợp
nhóm này thành nhó lớn hơn (8 – 16 HS).
+ Nhóm đồng tâm: GV chia lớp thành hai nhóm: nhóm thảo luận và
nhóm quan sát (sau đó hốn vị cho nhau) Nhóm thảo luận là nhóm nhỏ (6
đến 12 HS) có nhiệm vụ thảo luận, trình bầy vấn đề được giao, còn lại các
thành viên khác trong lớp đóng vai trị là quan sát và phản biện. hình thức
nhóm này rất có hiệu quả đối với việc dạy học các nội dung tri thức có tính
khái qt, trừu tượng của mơn GDCD, nó làm tăng ý thức trách nhiệm của cá
nhân HS trước tập thể và tạo động cơ cho những HS ngại trình bày ý tưởng
của mình trước tập thể.
9


- Ư điểm và hạn chế.
+ Ư điểm.
Kiến thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện làm tăng tính
khách quan khoa học.
Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được
giao lưu học hỏi giữa các thành viờn trong nhóm. HS được rèn luyện kĩ năng
diễn đạt, phương pháp tư duy.
Nhờ khơng khí thảo luận sơi nổi, cởi mở giúp HS thoải mái, tự tin hơn
trong việc trình bầy ý kiến của mình và biết lăng nghe có phê phán ý kiến
của những thành viên khác. Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên
trong nhóm và giữa các nhóm với nhau, đặc biệt là trong những chủ đề có
tính sáng tạo cao.
Tạo điều kiện cho GV nhận được nhiều thông tin phản hồi từ HS, thu
được những tri thức kinh nghiệm qua các ý kiến phát biểu có suy nghĩ và
sáng tạo của HS.
PP thảo luận nhúm giỳp cỏc thành viên trong nhóm chia sẻ các băn
khoăn, kinh nghiệm của bản than, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. bằng

cách nói ra điều mình nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của
mình về chủ đề nêu ra, thấy minh cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ
GV. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của các
thành viên. Vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia.
Như vậy thảo luận nhóm được thực hiện tốt sẽ tăng cường tính tích cực,
chủ động của HS, giúp HS tập trung vào bài học, phát triển được kĩ nằng tư
duy, óc phê phán, kĩ năng giao tiếp xã hội quan trọng khác.
Không yêu cầu sử dụng các trang thiết bị dạy học hiện đại.
+ Hạn chế.

10


Cỏc nhóm và cá nhấn trong nhóm dễ bị chờch hướng với các chủ đề mà
GV đưa ra. Với các chủ đề thảo luận nội dung phong phú, hấp dẫn, phát biểu
của HS dễ tản nạn, thiếu tập trung do mải theo đuổi ý tưởng riêng.
Thảo luận nhóm là phương pháp tốn nhiểu thời gian đặc biệt với những
tri thức khoa học có logic tường minh hoặc những tri thức có tính xác định
cao.
Hiệu quả của PP này phụ thuộc nhiều vào tinh thần tham gia của các
thành viên trong nhóm. Nếu chỉ có vài HS tham gia nhiệt tình và số còn lại
chỉ ngồi nghe, để mặc cho người khác dẫn dắt và quyết định.
Đây là PP dễ gây hưng phấn cho HS nhưng cũng dễ tạo ra trạng thái
mệt mỏi, trì trệ.
PP này địi hỏi khơng gian rộng nhưng trên thực tế thì ở các trường
THPT hiện nay, việc sử dụng PP này còn bị hạn chế, đồng thời do thời gian
hạn định của tiết học. Cho nên GV phải biết tổ trức hợp lí và HS đó khỏ
quen với PP này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động nhóm, tư
duy tích cực của HS phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của PP này là

rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động. Cần
tránh khuynh hướng hình thức và đề phong lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt
động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất cho đổi mới PPDH và hoạt động nhóm
càng nhiều thì chứng tỏ PPDH càng đổi mới.
Thực hiện PP này mất nhiều thời gian để chuẩn bị và tiến hành cuộc
thảo luận. Vì vậy, Người dạy cần phải cân nhắc giữa việc bảo đảm mục tiêu
bài học với thời gian quy định.
Nếu lớp đông mà chia thành nhiều nhúm thỡ người dạy sẽ rất vất vả
trong việc bao quát toàn bộ lớp học.
Sẽ có nhiều yếu tố gây nhiễu và làm mất thời gian trong quá trình thảo
luận. Chẳng hạn tiếng ồn của cỏc nhúm sẽ làm ảnh hưởng đến cỏc nhúm
xung quanh, các thành viên quá tập trung vào một vài vấn đề thú vị.
1.2. Vị trí và vai trị của hai phương pháp này.
11


Vai trò vận dụng hai PP này sẽ giúp người học tham gia vào các hoạt
động học tập ở mức độ cao. Người học không học thụ động, chỉ nghe thầy
giảng và truyền đạt kiến thức, mà học tập tích cực bằng hành động của chính
mình.
Người học sẽ tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng và điều chỉnh
thái độ phù với những tác động của nhà trường cũng như thực tiễn.
Những tri thức trong mơn GDCD mang tính khái quát hóa, trừu tượng
hóa cao, vận dụng hai PPDH này sẽ giúp HS chiếm lĩnh tri thức một cách
sâu sắc, vững bền.
Mối quan hệ giữa mức độ lưu giữ thông tin của HS với các PP dạy học.
PP

ĐỘ LƯU TRỮ THƠNG TIN


- Nghe thuyết trình.

5%

- Đọc.

10%

- Nghe nhìn.

20%

- Trình diễn.

30%

- Nhóm thảo luận.

50%

- Thực hành bằng cách làm thực

75%

- Dạy người khác(vừa nói vừa

90%

tế.
làm).

Nguồn: theo nghiên cứu được tiến hành tại phịng thí nghiệm đào tạo
quốc gia tại Bethel Maine, Mỹ (54:129)
Vận dụng hai PP này sẽ giúp HS có cơ hội tranh luận về các nội dung
học tập: khái niệm, quy luật…từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, từ đó HS có
cơ sơ khoa học về các giá trị, các tư tưởng , các quy luật…
Áp dụng hai PP nay người học có cơ hội đưa ra những quan điểm, cách
hiểu, cách nhận thức của mình về một vấn đề cụ thể, bảo vệ quan điểm của
mình, và cùng nhau giải quyết vấn đề trên cơ sở hợp tác, chia sẻ lấn nhau. Từ

12


đó người học, học được nhiều các tiếp cận, cách nhìn nhận, cách đánh giá
các vấn đề khác nhau.
Hai PP này tạo ra các điều kiện, cơ hội để cho người học làm việc với
nhau, học tập lẫn nhau và giúp đỡ nhau trong quá trình học tập. Điều này sẽ
khơng thể có được trong các tiếp cận dạy học lấy người dạy làm trung tâm.
Hợp tác, học tập, và giúp đỡ lẫn nhau cũng là một yêu cầu của đào tạo con
người mới tồn diện của mơn GDCD.
Vận dụng hai PP này sẽ khuyến khích lịng say mê học hỏi, tính tự giác,
chủ động trong học tập của người học. Từ đó người học nâng cao vai trị,
trách nhiệm của mình trong q trình học tập, có khả năng tạo ra được tính
chủ động, độc lập hành động cho cuộc sống sau này.
Vận dụng hai PP này sẽ giúp cho người học phát triển các kỹ năng tư
duy và kỹ năng giao tiếp cơ bản. Điều này rất quan trọng trong cuộc sống lao
động sau này của người học và đó là những kỹ năng cần thiết để người học
trở thành người lao động hiờu quả.
1.3. Đặc thù của môn GDCD.
Môn GDCD là một môn khoa học xã hội, có vị trí đặc biệt quan trọng
trong trường THPT. Điều này có được từ chính đặc thù về tri thức của mơn

GDCD đem lại. có thể nêu lên một vài điểm riêng biệt về hệ thống tri thức
của nó như sau:
Thứ nhất, nội dung tri thức môn DGCD bao gồm phạm vi kiến thức
rộng lớn, bao quát toàn bộ đời sống xã hội, những tri thức này được khái
quát từ những vẫn đề rất gần gũi, thiết thực trong đời sống thường nhật của
cá nhân cơng dân, gia đình và xã hội đến những vẫn đề lớn hơn của quốc gia,
dân tộc, nhân loại. Đây là những kiến thức thể hiện tên gọi của một môn học,
dạy và học để làm người công dân. Để trở thành người công dân đúng chuẩn
mực xác định-người công dân Việt Nam trong thời đại mới – khỏe mạnh, tự
trọng, có kiến thức, kĩ năng, có động lực học tập suốt đời, biết quan tâm tới
người khác và có trách nhiệm với xã hội.
13


Hai là, các tri thức mơn GDCD mang tính khái quát cao, tính trừu
tượng, tính quy luật, tính logic chặt chẽ. Đây là những tri thức mang tính
định hướng chính trị sâu sắc, nó trực tiếp đề cập đến những vẫn đề chính trị,
tư tưởng của giai cấp cơng nhân, của Đảng cộng sản Việt Nam, trực tiếp xác
lập, củng cố định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa cho HS. Toàn bộ nội
dung từ lớp 10 đến lớp 12 tập trung vào việc xây dựng cho HS thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp luận đúng đắn với những
biện pháp và hình thức khác nhau. Những kiến thức triết học - nền tảng của
thế giớ quan, phương pháp luận khoa học đã trực tiếp giúp cho HS có được
định hướng đúng đẳn trong hoạt động thực tiến, biết cách giải quyết các mối
quan hệ của bản thõn với cộng đồng trờn cỏc lĩnh vực và ở những phạm vi
khac nhau. Những kiến thức về kinh tế, chính trị - xã hội, pháp luật, đạo
đức…trực tiếp giúp cho HS bước đầu biết tìm hiểu, phân tích, đánh giá và tự
rút ra kết luận đúng đắn về những vẫn đề nóng bỏng của đất nước về thế
giới. trên cơ sở những kiến thức được trang bị, HS có thể tự trả lời một cách
khoa học, đúng đắn câu hỏi: sống để làm gì ? Sống như thế nào cho xứng

đáng là người cơng dân nươc cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mỗi môn
học trong nhà trường đều có nhiệm vụ xây dựng thế giới quan, phương pháp
luận khoa học và giáo dục tư tưởng, đạo đức cho HS. Song, lợi thế hơn cỏc
mụn khỏc, mụn GDCD thực hiện nhiệm vụ này một cách trực tiếp. đây là
đặc điểm nói lên khả năng to lớn và trách nhiệm nặng nề của môn GDCD
trong trường THPT.
Ba là, tri thức của mơn GDCD mang tính tích hợp, có quan hệ chặt chẽ
với nhiều môn khoa học, nhiều lĩnh vực khoa học khác. Phân tích chương
trình mơn GDCD ta thấy môn học này chứa đựng nhiều loại kiến thức của
các môn học khác nhau và ở một mức độ nhất định nào đó chứa đựng cả kiến
thức của cỏc mụn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. vĩ dụ nguyên lý về sự
phát triển trong triết học có liên quan đến tốn học, hóa học, lí học, sinh học.
khái niệm tồn tại xã hội trong triết học có liên quan tới địa lí, dân số. Tính
14


tích hợp địi hỏi mơn GDCD khơng chỉ xác lập PP đặc thù cho cả mơn học
mà cịn phải xác lập PP riêng cho từng phân môn.
Bốn là, tri thức GDCD gắn bó mật thiết với hiện thực, phản ánh một
cách sinh động đời sống hiện thực, nếu việc dạy học tri thức môn GDCD
tách khỏi thực tiến xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thì sẽ mất hết ý nghĩa và tác dụng. Bởi lẽ, dạy học GDCD là dạy HS trở
thành người công dân có tinh thần trách nhiệm của một thành viên hữu ích
cho đất nước, có những kiến thức và kĩ năng cần thiết để tham gia vào một
thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Do đó, q trình dạy học bộ môn phải
trực tiếp, cụ thể với đời sống, với việc rèn luyện và tu dưỡng của mỗi HS.
Tóm lại, môn GDCD ở trường THPT đã đề cập và giải quyết một cách
toàn diện hệ thống kiến thức cơ bản, cần thiết của một công dân Việt Nam
trong thời đại mới là tổng hợp tri thức của nhiều môn khoa học. Đào tạo ra
những thế hệ cơng dân có lập trường vững vàng, có ý thức tự tơn dân tộc, có

lý tưởng cách mạng, tự trọng, giỏi giang là hết sức cần thiết. Điều đó cho
thấy vị trí của mơn GDCD là rất quan trọng, phải nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về vị trí của mơn học này thì mới góp phần thực hiện được “chiến lược
con người” mà chúng ta đang triển khai trong tư duy và hành động.
Kết luận chương I
PPDH là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc của quá trình dạy học.
Áp dụng PPDH nêu vấn đề và PP thảo luận là nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học, hai PP này có những dấu hiệu đặc trưng
cơ bản như: dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS; Dạy
và học chú trọng rèn luyện PP tự học; tăng cường học tập cá thể, phối hợp
với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá. Hai PP này
đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định, vì vậy tùy thuộc vào nội dung của
môn học, của từng bài học để chúng ta lụa chọn PP nào là thích hợp nhất và
vận dụng kết hợp những PP đó như thế nào để đạt kết quả cao.

15


Trong nhà trường THPT, mơn GDCD là mơn KHXH có một vị trí quan
trọng trong việc giáo dục trực tiếp HS về thế giới quan và PP luận, về đạo
đức và lỗi sống … mặt khác, tri thức môn nạy lại mang tính khái qt hóa,
trừu tượng hóa rất cao, vì vậy, đối với HS lớp 10, việc lựa chọn và vận dụng
hai PP này mang lại mục đích GD cao nhất là điều vô cùng cần thiết. vận
dung hai PP này kết hợp với các PPDHTC khác phải đạt được những yêu cầu
cơ bản như: phát triển năng lực tư duy; rèn luyện quá trình nắm vững kĩ
năng, kĩ xảo, HS học tập một cách tích cực và sáng tạo…

16



Chương II
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC MÔN GIÁO DỤC CƠNG
DÂN LÍP 10 Ở TRƯỜNG THPT CẨM THỦY III-TỈNH THANH HÓA
VÀ VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀ
PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN
ĐẠO ĐỨC MƠN GDCD LÍP 10
2.1. Khỏi qt chung:
2.1.1. Khỏi qt chung về trường THPT Cẩm Thủy III:
Trường THPT Cẩm Thủy III là một trường nằm ở một huyện vùng cao
thuộc tỉnh Thanh Hóa với diện tích là 5.600m2, trường mới được thành lập
năm 2002. Là một trường mới được ra đời cách đây 8 năm nhưng trường đã
đạt được nhiều những thành tích lớn lao với nhiều những giải thưởng của bộ
giáo dục.
Hiện nay với sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo và sự nỗ lực của
toàn thể đội ngũ giáo viên học sinh trong nhà trường thì trường THPT Cẩm
Thủy III đó cú 63 giáo viên với 51 giáo viên trực tiếp đứng lớp, ban giám
hiệu gồm 4 người với 1 hiệu trưởng và 3 hiệu phó, có 26 lớp với 1230 học
sinh. Số giáo viên giảng dạy môn GDCD là 2 người đều được đào tạo ở các
trường đại học Sư phạm.
2.1.2. Khái quát chung về học sinh THPT.
2.1.2.1. Đặc điểm chung:
- Học sinh THPT ở tuổi chưa thành niên(15-18 tuổi), các em đang trong
giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể lực, tõm lí, sinh lí, là thời kỡ cỏc em
chuyển từ tuổi “trẻ con” sang tuổi “người lớn”, là giai đoạn các em tích cực
tham gia các hoạt động xã hội, thâm nhập cuộc sống từ đó hình thành phẩm
chất, nhân cách của người công dân.
Ở tuổi này các em luôn luôn thể hiện những phẩm chất mang tính đặc
trưng như: năng lực trí tuệ dồi dào, ý chí cảm xúc mãnh liệt, nhạy bén, sáng
tạo và thích tìm tịi những cái mới trong cuộc sống.
17



Tuy nhiên, ở một số trường hợp, những phẩm chất này lại gắn liền với
sự bồng bột, thiếu chín chắn, dễ bị ảnh hưởng do tác động của ngoại cảm. Ở
lứa tuổi này, các em cũng có những nhu cầu mạnh mẽ về tình bạn, tình yêu.
Bên cạnh đú cỏc em cũng bước đầu xây dựng cho bản thân những quan điểm
riêng, quyết định tương lai của mình, kế hoạch cho cuộc sống. Trong quá
trình trình trưởng thành tầm nhìn của các em cũng được mở rộng. Trước
những khám phá mới, có nhiều trường hợp do các em chưa hiểu được bản
chất của vấn đề, chưa đầy đủ bản lĩnh để kiềm chế những tác động của ngoại
cảnh nên dễ dẫn đến hành động bột phát và khi thực hiện các em khơng hề
nghĩ đến hậu quả do mình gây ra cho xã hội.
Ngồi ra chúng ta có thể nhận thấy một số nét tích cực trong hoạt động
học tập của các em trong độ tuổi THPT đó là: hứng thú học tập của các em
có những thay đổi rõ rệt, bền vững và gắn liền với các khuynh hướng nghề
nghiệp. Đối với các lĩnh vực khoa học, các em đã có thái độ lựa chọn rõ
ràng, thái độ học tập cũng gắn liền với động cơ thực tiễn, nhận thức sau đó là
ý nghĩa của mơn học.
Như vậy một yêu cầu rất lớn được đặt ra là ngoài việc giáo dục tri thức
cho hoc sinh thì nhà trường cũng là nơi đào tạo nhân cách cho người học
sinh, hướng các em đi theo một con đường đúng đắn để trở thành một người
công dân tốt cho xã hội.
2.1.2. Thực trạng của việc dạy và học môn GDCD ở trường THPT
Cẩm Thủy III tỉnh Thanh Hóa:
Qua một số điều tra thì chúng tơi nhận thấy một số thực trạng dạy và
học mơn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy III nói riêng và ở một số trường
THPT nói chung như sau:
- Tình hình đội ngũ giáo viên giảng dạy mơn GDCD:
a. Về chất lượng GV:
Qua khảo sát thực tiễn tại trường THPT Cẩm Thủy III- tỉnh Thanh Hóa

chúng tơi nhận thấy tình trạng thiếu giáo viên giảng dạy đạt chất lượng cao,
18


số giáo viên kiêm nhiệm vẫn có và chất lượng thì khơng đồng đều. Chỉ có 2
giáo viên giảng dạy mơn GDCD cho 26 lớp, chính vì thế mà chất lượng
giảng dạy chưa cao, sự đầu tư về chất lương cho bài giảng là chưa cao.
Ngồi ra tình trạng một số lớp các em không phải học môn GDCD mà
vẫn có điểm tổng kết vẫn xảy ra, đây là trường hợp khơng nhiều nhưng
khơng phải là khơng có. Ngun nhân là do sự chỉ đạo của nhà trường muốn
dành nhiều thời gian cho các em tập trung vào các môn học chính như: Tốn,
Lý, Hóa... Hơn nữa một ngun nhân rất phổ biến là do những bài giảng của
giáo viên sơ sài, khơng chun sâu, khơng có sự liên hệ thực tiễn với các vấn
đề xung quanh giúp học sinh u thích mơn GDCD, thấy tầm quan trọng của
mơn học.
b.Về phương pháp dạy học:
Qua khảo sát chúng tôi thu được kết quả về việc sử dụng các phương
pháp dạy học hiện nay của GV trong trường THPT Cẩm Thủy III. kết quả
thu được như sau:
Bảng1:Kết quả điều tra việc sử dụng các PPDH của GV
STT

PP

Tỉ lệ GV sư dụng

1

PP thuyết trình


100%

2

PP đàm thoại

77,5%

3

PP động não

12%

4

PP thảo luận nhóm

25%

5

PP nêu vấn đề

21%

Như vậy qua điều tra chúng tôi nhận thấy các PPDHTC hiện nay như:
PP thảo luận nhóm, PP động não, PP nêu vấn đề....cỏc GV rất ít hoặc hầu
như khơng sử dụng. Ngược lại nhóm PP dạy học truyền thống như: thuyết
trình, diễn giải thì GV lại sử dụng thường xuyên.

Qua thực tiễn điều tra chúng tôi nhận thấy rằng:PPDHTC là một thuật
ngữ mới xuất hiện gần đây trong lý luận dạy học ở nước ta. Mặc dù đã xuất

19


hiện rất nhiều trờn cỏc tạp chí chuyên ngành nhưng không phải GV nào cũng
quan tâm để hiểu đúng về nó và áp dụng trong q trình dạy học của mình.
Đi sâu tìm hiểu chúng tơi đã nhận thấy cái yếu của GV chính là ở PP
dạy học, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Khi lựa chọn PPDH, GV chưa chú ý đến việc tìm hiểu thật kĩ
nội dung để từ đó lựa chọn phương pháp cho phù hợp.Việc lựa chọn phương
pháp tùy tiện khơng có cơ sở khoa học, việc sử dụng PP khơng theo một quy
trình chặt chẽ. Giáo viên thuyết trình là chủ yếu.
Thứ hai: Thơng qua một vài lần tham gia dự giờ các tiết GDCD chung
tôi nhận thấy rằng các bài giảng của GV trước khi lên lớp còn rất sơ sài,
chưa đầu tư thời gian, công sức và tâm huyết.
Thứ ba: Nhận thức của GV về phương pháp dạy học, những ưu điểm,
nhược điểm của phương pháp dạy học và đặc biệt là PPDHTC còn rất mơ
hồ.
Thứ tư: Về cấu trúc giờ học đa số các GV đều làm theo khuôn mẫu
không tạo được điểm nhấn cho tiết học chính vì thế mà dễ gây ra tình trạng
nhàm chán cho bài giảng, các em học sinh khơng tìm thấy điều gì mới lạ nờn
khụng chú tâm thậm chí thờ ơ với bài giảng của giáo viên.
Những điểm hạn chế nói trên đã làm ảnh hưởng đến tính tích cực nhận
thức cuả học sinh và do đó làm giảm chất lượng học tập bộ mơn. Đúng như
đồng chí Phạm Văn Đồng khẳng định:...Vỡ sao chất lượng giáo dục phổ
thơng chưa tốt. Đó là vì trình độ của GV chưa đủ tốt để dạy tốt...Ngồi
ra,cũn nhiều nguyờn nhân khác nữa, nhưng cái chủ yếu, cái có tác dụng
quyết định nhất vẫn là đội ngũ GV chưa đủ trình độ về mọi mặt: Kiến thức,

PP, Kinh nghiệm, nhiệt tình u nghề”
- Thực trạng học tập mơn GDCD của học sinh:
Nhìn chung một thực trạng rất rõ nét có thể nhận thấy được đó là số học
sinh quan tâm và u thích mơn GDCD là rất ít thậm chí là khơng có. Đa
phần các em đều cho rằng đây là môn học phụ và không nhất thiết phải quan
20


tâm, có học cũng chẳng thu lại được kết quả gỡ nờn bỏ bờ,khụng chịu học
hoặc là không muốn học.
Hiện nay chương trình GDCD trong sách giáo khoa có nhiều điểm đổi
mới mà số giáo viên mới nắm bắt được vấn đề quan trọng cần thiết và có
phương pháp mới là rất hạn chế. Chính vì vậy mà các bài giảng mơn GDCD
từ việc khó lại càng trở nên khó hơn, giáo viên thì đọc những kiến thức có
sẵn trong sách giáo khoa cho học sinh, cịn học sinh thì khơng muốn học vì
khơng tìm thấy điểm thú vị trong môn học.
Chúng tôi đã phát phiếu điều tra HS thông qua việc trả lời câu hỏi: Em
có hứng thú khi học mơn GDCD khơng ? Vì Sao? Kết quả thu được như sau:
Bảng 2:Mức độ hứng thú học tập môn GDCD của HS
Mức độ hứng Rất hứng thú
thú
Tỉ lê (%)

5%

Hứng thú
14,9

Bình thương


chưa hứng

26

thú
54,1

Qua kết quả điều tra ở bảng 2 cùng với sự trao đổi của GV cho thấy,
Nhìn chung học sinh đã có nhiều cố gắng trong học tập bộ mơn. Tuy vậy,
việc dạy và học mơn GDCD cịn nhiều hạn chế, cần được khắc phục.
Các GV đã có nhiều cố gắng đổi mới PP, năng cao chất lượng dạy và
học: tích cực đọc thêm tài liệu, học hỏi, trao đổi thêm với đồng nghiệp . tuy
vậy trên thực tế, chất lượng giảng dạy bộ môn này vẫn chưa cao, chưa đáp
ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng dạy và học. Hiện tượng GV lên lớp
qua loa, chiếu lệ cho hết giờ còn khá nhiều
Nhiều GV và HS cho rằng việc day và học bộ môn GDCD theo PP thảo
luận nhóm và nêu vấn đề có nhiều ưu điểm, nhưng việc áp dụng cịn nhiều
khó khăn.
Do viờc vận dụng các PPDH tích cực vào giảng dạy bộ mơn này còn
nhiều hạn chế cùng với nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác cho
nên

21


Chưa tạo được sự hứng thú trong học tập của HS, Từ đó làm giảm hiệu
quả và chất lượng của tiết học.
• Nhận xét chung:
Qua kết quả điều tra thu được về thực trạng học tập mơn GDCD và qua
trị chuyện tâm sự với các em HS, chúng tôi nhận thấy:

- Đa số các em học sinh lớp 10 chưa nhận thức đúng vị trí vai trị tầm
quan trọng việc học tập mơn GDCD. Có 65,5%HS cho rằng đó chỉ là môn
học phụ, học cũng được mà không học cũng được.
- Đa số học sinh còn chưa hứng thú trong việc học tập mơn GDCD
(54,1%HS). Thậm chí cũn cú một số HS chán học mơn học này.
Có 2 ngun nhân chính dẫn đến thực trạng học sinh khơng thích học
mơn GDCD là do nội dung mơn học khó học, khó nhớ(39,6%HS)và do thầy
giảng bài không hấp dẫn(49,2%HS)
- Do nhận thức chưa đúng về vị trí vai trị của bộ mơn GDCD và do GV
giảng bài không hấp dẫn lại thêm nội dung mơn học khó học, khó nhớ dẫn
đến một thực trạng phổ biến là HS chưa thích học mơn GDCD và do vậy kết
quả học tập cũng chưa cao. Đa số HS trường THPT Cẩm thủy III chỉ xếp loại
khá và trung bình (chiếm 96,6%HS)
2.2. Ngun nhân chính của những tồn tại và hạn chế:
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan:
- Một số học sinh yếu kém đó là do các em chưa nhận thức rõ được vai
trò quan trọng của mơn giáo dục cơng dân trong việc hình thành, phát triển
và hoàn thiện cả về mặt tri thức lẫn nhân cách.
Hay nguyên nhân cũng là do khả năng nắm bắt và tiếp thu những tri
thức mang tính khái quát và biện chứng của mơn GDCD là cịn chậm và dẫn
đến các em khơng thích hoặc chán nản khi phải học tập.
Hiện nay mặc dù vấn đề đỏnh gớa về tầm quan trọng của môn GDCD
đã được cải thiện rất nhiều nhưng nhìn chung ở các trường THPT các em vẫn

22


chú trọng nhiều vào cỏc mụn khối của mình và bỏ mặc những mơn học khác
trong đó cú mụn GDCD.
- GV chưa đầu tư thời gian,cụng sức vào bài soạn Giáo án trước khi lên

lớp. Vì vậy khi dạy học GV chủ yếu là là sử dụng phương pháp thuyết trình,
thầy đọc-trũ chộp, thầy giảng-trũ nghe và HS khơng phải động não và suy
nghĩ gì nhiều khi tiếp cận kiến thức.
- Những trang thiết bị dạy học thuận lợi cho thực hiện PPDHTC chưa
được trang bị đầy đủ ở nhà trường PT
2.2.2. Nguyên nhân khách quan:
- Do tõm lớ HS ở lứa tuổi này các em cịn chưa hình thành được những
thói quen tốt cho mình, cịn dễ thay đổi và chưa xác định rõ ràng được điều
gì là cần thiết quan trọng.
- Do những thay đổi của xã hội chi phối dẫn tới những nhận thức cho
rằng chỉ cần học những mụn chuyờn nghành giúp ích cho mình sau này thụi
cũn học những môn học khác là không cần thiết.
Nói tóm lại để giáo dục tốt hơn nữa và nâng cao hơn nữa những nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của mơn GDCD thì địi hỏi chúng ta phải
áp dụng tích cực hơn nữa nhưng PPDH phát huy được khả năng sáng tạo và
tự chủ hơn nữa việc học tập và rèn luyện của người học, bởi vì giáo dục hiện
nay không chỉ là giáo dục về kiến thức mà còn là về kĩ năng nhân cách sống
cho người học. Áp dụng các PPDHTC vào trong quá trình học là điều kiện
cần thiết đáp ứng được yêu cầu giáo dục và phát huy được năng lực của
người học.
Trong nhà trường THPT,mụn GDCD là mơn KHXH có vị trí quan trọng
trong việc giáo dục trực tiếp HS về thế giới quan và phương pháp luận, về
đạo đức và lối sống. Mặt khác, tri thức môn học này lại mang tính khái qt
hóa rất cao, vì vậy, đối với HS lớp 10, việc lựa chọn và vận PPDHTC vào
giảng dạy nhằm mang lại mục đích GD cao nhất là điều vô cùng cần thiết.
Vận dụng PPDHTC vào bài giảng GDCD phải đạt được những yêu cầu cơ
23


bản như:Phỏt triển năng lực tư duy, rèn luyện quá trình nắm vững kĩ năng, kĩ

xảo; phối hợp hài hịa giữa các PPDHTC; HS học tập mọt cách tích cực, chủ
động và sáng tạo...
Thực tiễn dạy học môn GDCD ở trường THPT Cẩm Thủy III cho thấy,
đa số GV giảng dạy bộ môn đều sử dụng các phương pháp truyền thống, vì
vậy, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Vấn đề đăt ra là cần nhanh chóng vận dụng các PPDHTC vào dạy học bộ
môn để nâng cao chất lượng học tập môn GDCD, góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục tồn diện, giáo dục con người lao động mới trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.2. Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp nêu
vấn đề trong việc giảng dạy một số kiến thức cụ thể trong phần đạo đức
môn GDCD lớp 10.
Cũng như phương pháp dạy học của các môn học khác, phương pháp
dạy học môn GDCD phải theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HS hoặc loại bỏ thói quen học tập theo lối thụ động: thầy giảng-trũ
nghe, thầy đọc-trũ chộp, và học thuộc lịng. Vì vậy trong dạy học GV phải
huy động khai thác tối đa kinh nghiệm sống của HS tạo cơ hội cho HS bày tỏ
quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học, khuyến khích các em nếu
thắc mắc trong khi nghe giảng,đặt ra câu hỏi cho thầy, cho bạn tranh luận,
thảo luận, trao đổi, tạo nên mối quan hệ hợp tác trong giao tiếp giữa thầy và
trị, giữa trị với trị trong q trình chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua
thảo luận, tranh luận trong tập thể ý kiến cá nhân được bác bỏ hoặc khẳng
định, HS sẽ nâng cao trình độ nhận thức.
Bài học cần vận dụng vốn hiểu biết kinh nghiệm của mỗi học sinh và cả
lớp, không nên chỉ vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của riêng GV. GV
cần tăng cường sử dụng các câu hỏi đặt ra vấn đề cho học sinh thảo luận và
giải quyết, khuyến khích học sinh tự liên hệ đánh giá các vấn đề xảy ra xung
quanh trường lớp và gia đình, xã hội.
24



PPDH môn GDCD rất phong phú và đa dạng bao gồm cả PPDH truyền
thống và PPDH hiện đại, thế nhưng mỗi PP đều có mặt mạnh và mặt hạn chế
riêng phù hợp với từng loại bài, từng khõu riờng trong tiết học. Do đó khơng
nên q lạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một phương pháp nào mà điều
quan trọng là phải lựa chọn và sử dụng kết hợp các PP để bài giảng có hiệu
quả.
Bài 12: CễNG DÂN VỚI TÌNH U, HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
(tiết 1)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong tiết này, HS cần đạt được:
1.Về kiến thức
- Hiểu được thế nào là tình yêu và tình u chân chính
- Có những hiểu biết về những điều cần tránh trong tình u.
2. Về kỹ năng
HS có thể sử dụng các kiến thức đã học để nhận xét, lý giải, phê phán
một quan niệm, thái độ, hành vi… trong xã hội trong quan hệ tình yêu.
3. Về thái độ
- Đồng tình và ủng hộ những quan niệm, những hành động đúng và tiến
bộ
- Phê phán những nhận thức và hành vi lệch lạc, sai trái về quan hệ tình
yêu trong điều kiện hiện nay.
II. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
- Khái niệm tình yêu
- Các biểu hiện của một tình u chân chính
- Một số điều nên tránh trong tình yêu
III. PHƯƠNG PHÁP – HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
Bài này vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn vì vậy người dạy sử
dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với diễn giảng, đàm thoại.
25



×