Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt để nâng cao chất lượng lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.5 KB, 14 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:…………
1.Tên sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
để nâng cao chất lượng lớp chủ nhiệm.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác chủ nhiệm lớp
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Đất nước ta đang trong giai đoạn Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa,
xã hội ngày một phát triển, cuộc sống ngày một hiện đại với bao sự
đổi mới. Song song với sự phát triển đó, tình hình đạo đức của học
sinh nói chung và của học sinh ở trường Tiểu học nói riêng cũng có
nhiều biến động.
Những năm học gần đây, các lớp tôi chủ nhiệm đa số học sinh đều
ham học và chăm ngoan, đáp ứng được yêu cầu đào tạo. Bên cạnh đó,
vẫn có một bộ phận không nhỏ học sinh chưa ngoan, biểu hiện của sự
chưa ngoan ở các em vô cùng phức tạp và đa dạng: Văng tục, chửi thề,
1


không vâng lời cha mẹ, thầy cô, không trung thực, gây gỗ đánh nhau,
vô lễ với người lớn, có nguy cơ bỏ học, xem thường nội quy trường
lớp,…
Xét về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi hiếu động
và hiếu thắng, nhiều nông nổi do sự phát triển tâm sinh lý chưa hoàn
chỉnh, là lứa tuổi bắt đầu trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách. Quá trình hình thành cái mới diễn ra không đồng đều ở các mặt
trong mỗi cá nhân.
* Ưu điểm


- Đề tài áp dụng vào việc giáo dục học sinh theo hướng tích cực,
tạo mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
với nhau.
- Biện pháp này giúp giáo viên tự tin trong giảng dạy với tâm lí
thoải mái, rèn tính kiên nhẫn, bao dung, vị tha, cảm thông,… Từ đó
góp phần nâng cao phẩm chất và năng lực cho học sinh.
- Tạo cho học sinh học tập trên lớp với sự hứng thú, thân thiện,
vui tươi, nhẹ nhàng. Từ đó phát huy khả năng tự nhận thức, tự làm chủ
của bản thân của học sinh
* Hạn chế:
2


- Trong thực tế vẫn còn một bộ phận giáo viên giảng dạy trên lớp
theo hướng rất nghiêm khắc, mệnh lệnh và áp đặt. Đây là một trong
những nguyên nhân chính làm giảm sự hứng thú học tập của học sinh,
làm hạn chế khả năng sáng tạo của các em.
Để áp dụng các biện pháp này thành công giáo viên cần nhiều
thời gian, sự kiên trì và nhẫn nại để tự điều chỉnh bản thân mình và để
giáo dục học sinh.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
a. Mục đích của giải pháp:
- Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt bằng hình
thức trừng phạt là biện pháp giáo dục không đem lại hiệu quả như
mong muốn. Vậy vấn đề đặt ra là phải tìm ra những biện pháp giáo
dục trẻ vừa mang tính nhân văn, vừa phù hợp với xu thế xã hội hiện
nay.
- Với mong muốn góp phần tạo cho học sinh một môi trường
học tập thân thiện, tích cực và lành mạnh, góp phần vào việc nâng cao
chất lượng học tập của học sinh. Giúp học sinh nắm vững các kiến

thức cơ bản. Dạy cho các em biết cách học làm người, cách sống, cách
ứng xử với mọi người xung quanh. Đồng thời qua đó uốn nắn, bồi
3


dưỡng, giáo dục các em từ những học sinh cá biệt, quậy phá, lười học,
… trở thành người có ích cho xã hội sau này.
b. Nội dung giải pháp
b.1. Tính mới của giải pháp:
- Vận dụng tư tưởng tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
- Sự nhạy bén, linh hoạt trong kết hợp các phương pháp giáo dục
học sinh.
- Đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu trong giáo dục học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm là “Người bạn lớn” của học sinh.
b.2. Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
Trước đây đối với những học sinh cá biệt, thầy cô, cha mẹ và
người lớn thường hay nghiêm khắc giáo dục trẻ. Nhưng thực tế cho
thấy việc giáo dục chúng nghiêm khắc có thể dẫn đến những kết quả
hoàn toàn trái ngược với mong muốn. Việc giáo dục nghiêm khắc sẽ
tước đi cơ hội tự kiểm điểm và tự chịu trách nhiệm của học sinh. Giáo
dục dựa trên sự sợ hãi là dạy trẻ cách bắt nạt người yếu đuối hơn, cũng
khiến trẻ tin rằng sức mạnh là lẽ phái, càng khiến học sinh có xu
hướng nổi loạn.

4


Việc giáo dục học sinh cá biệt thầy cô, người lớn cần biết cách
linh hoạt, uyển chuyển trong cách giáo dục. Giáo dục học sinh phải
biết nghiêm khắc bằng tình thương và sự động viên. Từ đó, học sinh

sẽ được cảm hóa biết được cách ứng xử với mọi người xung quanh;
nhận biết được việc nào đúng, việc nào sai; có thể tự kiểm điểm và
chịu trách nhiệm với việc làm của mình.
b.3. Cách thực hiện sáng kiến:
Trong quá trình thực hiện sáng kiến, để đảm bảo có hiệu quả.
Tôi đã phân tích tình trạng, nguyên nhân, giải pháp thực tế. Suy nghĩ,
phát hiện ra những hạn chế trong việc giáo dục học sinh cá biệt (Càng
nghiêm khắc, áp đặt học sinh càng có biểu hiện chống đối). Từ đó, đề
ra biện pháp khắc phục cho những hạn chế và đưa ra những giải pháp
giáo dục phù hợp nhất cho từng đối tượng cá biệt (tình yêu thương,
quan tâm, động viên, khích lệ … kịp thời).
b.4. Các bước thực hiện của sáng kiến :
Giáo viên chủ nhiệm thường là người đứng ra giải quyết mọi
chuyện do học sinh gây ra, nhưng chỉ dừng là ở mức độ khuyên bảo,
hay chỉ dạy kèm cho học sinh quá yếu kém.

5


Đối với học sinh cá biệt về đạo đức thì răn đe, xử phạt, thậm chí
còn hù dọa nhưng hầu hết chỉ có hiệu quả tức thời rồi đâu lại vào đó,
học sinh vẫn trở lại như cũ vì giáo viên không hiểu được nguyên nhân
sâu xa, xuất phát từ tâm lí học sinh.
Cũng có giáo viên chủ nhiệm mời phụ huynh đến để thông báo về
tình trạng của học sinh với mong muốn cùng gia đình kết hợp để giáo
dục. Tuy nhiên, thực tế có phụ huynh tiếp thu, nhưng cũng có người
bực tức, thậm chí la đánh con trước mặt của giáo viên.
Lâu nay chỉ thường nghe cụm từ học sinh cá biệt ám chỉ những trẻ
có vẻ khác thường, khó dạy thậm chí hư hỏng. Trong trường học sinh
cá biệt về đạo đức thường quậy phá, đánh lộn, trộm cắp,… Nhẹ hơn

một chút là học sinh thường xuyên không thuộc bài, không làm bài,
chậm hiểu và rất mau quên. Đa số chúng ta khi thấy hành động khác
thường, chưa ngoan của trẻ thì cho là cá biệt và xử lí trên hành động
do học sinh gây ra mà quên là cần tìm cho ra nguyên nhân. Không
phải tự nhiên mà học sinh trở thành cá biệt, đó có thể là vết thương
tâm lý mà người lớn đã vô tình gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc
sống trong môi trường gia đình cũng như ở trường học.

6


Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp,
đòi hỏi người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng động, kiên nhẫn.
Tất cả sự cố gắng và nỗ lực của chúng ta sẽ là chìa khóa cho các em
bước sang một cuộc đời mới với sự nhìn nhận tích cực và có ý thức
rèn luyện để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa.
*Tìm hiểu và phân loại học sinh đầu năm :
- Xem học bạ về kết quả học tập rèn luyện học sinh qua những
năm học trước đó;
- Tìm hiểu qua nhận xét, đánh giá của bạn bè, đặc biệt là người
thân của các em, qua thầy cô chủ nhiệm cũ, phụ huynh học sinh, qua
các tổ chức, Sao nhi đồng…
- Tiến hành phân loại hành vi cá biệt theo các nhóm :
+ Do ham chơi điện tử, lừa dối bố mẹ, thầy cô, sẵn sàng bỏ học;

+ Do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, chưa ngoan với thầy
cô, cha mẹ, hay nói tục …
+ Môi trường sống không lành mạnh. Có gia đình phương pháp
dạy con không đúng hoặc quá chủ quan, tin con mình đã ngoan, đã tốt;


7


+ Tư chất của học sinh chậm trong nhận thức, hỏng kiến thức từ
lớp dưới nên chán học, thường hay nghịch phá, mất trật tự….
* Đối với bản thân học sinh cá biệt
Giáo viên chủ nhiệm làm việc riêng với học sinh cá biệt với các
biện pháp được nâng dần từ thuyết phục đến khi đưa học sinh cá biệt
vào thế phải tâm phục, khẩu phục trên cơ sở hài hòa tâm lí giữa thầy
và trò. Có thể học sinh cá biệt mới chịu nói lên ý kiến riêng về hành vi
của mình. Đôi lúc giáo viên chủ nhiệm cũng nên làm cầu nối để học
sinh cá biệt trở lại với tập thể một cách bình thường mà không cưỡng
ép.
 Với nhóm học sinh cá biệt về đạo đức: Đây là các em thường
có hành vi không tốt, thường ảnh hưởng đến sự học tập của lớp:
- Gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình,
giáo viên chủ nhiệm bình tĩnh nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý có
tình mức độ nguy hại của khuyết điểm. Giáo viên chủ nhiệm lớp thức
tỉnh học sinh bằng những câu chuyện đạo đức để cảm phục các em;
- Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của học
sinh cá biệt. Đây là việc làm mang tính hai mặt, đòi hỏi giáo viên chủ
nhiệm lớp phải thường xuyên theo dõi giám sát, kiểm tra, động viên
8


và khen thưởng kịp thời khi học sinh đạt được thành tích dù là nhỏ
nhất;
- Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện
cho học sinh cá biệt tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích
cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Công tác này thực sự đặc

biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm cảm tự ti. Các em sẽ mạnh dạn,
tích cực hơn trong học tập và rèn luyện. Cho các em tham gia và thực
hiện tốt các hoạt động ngoại khóa, rèn kĩ năng sống để các em tiến bộ;
- Áp dụng quy định thưởng phạt vào giờ sinh hoạt lớp cuối tuần
một cách “phân minh, nghiêm túc, công bằng” để học sinh cá biệt có
động lực mục tiêu phấn đấu.

 Với nhóm những học sinh cá biệt về học lực: Những em này
xét về gia cảnh thì khó khăn, các em không có thời gian học tập nên
có kết quả học tập yếu kém;
- Phân công “Đôi bạn cùng tiến”, cùng làm các bài tập đơn giản
hoặc tập viết chính tả, tranh luận các từ sai;
- Hàng ngày giáo viên cần giúp đỡ các em trong học tập, giảng
lại những bài mà các em chưa hiểu, giúp các em hoàn thành các bài
tập bằng tự lực bản thân;
9


- Khi giảng bài thường chú ý và hỏi bài đến các đối tượng này,
để theo dõi việc hiểu bài của các em mà giảng chậm hoặc giảng lại;
- Trao đổi với phụ huynh, nên giành thời gian cho các em học
tập. Tổ chức cho các em học nhóm cùng nhau ôn tập và thực hành;
- Trong các giờ sinh hoạt lớp giáo viên cho các em tự nêu ý kiến,
nhận xét tình hình lớp trong tuần, có bạn nào vi phạm khuyết điểm
hay không? Giáo viên nhận xét lại và tìm hiểu thêm các chi tiết để
nhận định, biểu dương. Bên cạnh đó, tôi phối hợp cùng gia đình từng
lúc nhắc nhở, phân tích những việc làm không đúng. Chỉ trong thời
gian ngắn em đã thay đổi cơ bản những tính xấu này, biết vâng lời,
biết cố gắng học tập và đã vươn lên và hoàn thiện hơn;
- Một biện pháp cũng không kém phần quan trọng đó là việc

biểu dương, khen thưởng (quyển vở, cây viết để khuyến khích các
em);
- Từ những nhiệm vụ được giao, giáo viên phải biết tuyên
dương, khen thưởng, động viên các em khi thực hiện tốt nhiệm vụ. Từ
đó giúp cho các em hiểu được mình vẫn còn có giá trị trong lớp, có
khả năng thực hiện tốt các việc khác.
* Kết hợp với gia đình cha mẹ học sinh cá biệt
10


- Tâm lý phụ huynh của học sinh cá biệt rất ngại việc uốn nắn
của giáo viên về con mình, cho nên giáo viên phải hết sức tế nhị trong
giao tiếp với phụ huynh. Vận động phụ huynh trong việc đến trường
liên hệ với giáo viên chủ nhiệm khi có giấy mời ( hoặc điện thoại) để
trao đổi kịp thời ngăn chặn được sai lầm của học sinh.
- Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm
chia sẻ với họ những kiến thức về giáo dục con cái, tạo được sự thống
nhất quan điểm giáo dục với cha mẹ học sinh;
- Trao đổi thẳng thắn, chân thành đối với cha mẹ học sinh để
hiểu được hoàn cảnh gia đình, tính cách của học sinh cá biệt. Đây là
hoạt động rất quan trọng bởi hầu hết những học sinh cá biệt đều do
ảnh hưởng từ nền tảng giáo dục của gia đình;
- Gặp gia đình, trao đổi hoặc gọi điện thoại liên hệ với gia đình
học sinh để từ đó hiểu rõ hơn về hoàn cảnh, nguyên nhân cá biệt của
học sinh mình;
- Thiết lập sổ theo dõi giữa gia đình và lớp. Giáo viên thường
xuyên đánh giá nhận xét việc học tập cũng như hành động của các em
vào sổ gửi về cho gia đình. Và đồng thời cũng lấy ý kiến từ gia đình
để giáo viên có biện pháp giáo dục phù hợp. Từ đó gia đình luôn nắm
11



bắt được tình hình học tập của con em mình, cùng với nhà trường
kèm cặp học sinh tốt hơn;
- Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi
hình thức như: thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Giáo viên chủ
nhiệm lớp có thể lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc của chính một
học sinh cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá học sinh cá biệt;
- Bản thân luôn là tấm gương trước học sinh về mọi mặt: đạo
đức, về lối sống,… Đồng thời người giáo viên chủ nhiệm phải luôn có
tình cảm yêu thương, niềm tin, động viên học sinh bởi “Chỉ có tấm
lòng mới đánh thức được tấm lòng”. Giáo viên chủ nhiệm lớp cần phải
khéo léo, linh hoạt, trong mỗi trường hợp cụ thể, biết tập hợp và sử
dụng sức mạnh của các yếu tố giáo dục nhằm rèn luyện cho học sinh
cá biệt. Giáo viên chủ nhiệm lớp cần tuyệt đối tránh tư tưởng định
kiến, cách cư xử thiếu sư phạm đối với học sinh.
* Kết hợp với giáo viên bộ môn, Tổng phụ trách và nhà
trường
- Kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn vừa để hiểu hơn về
những tiến bộ, hạn chế của học sinh vừa giúp các em có những cố
gắng ở từng môn học. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ với hội cha mẹ học
12


sinh, Đội Thiếu niên Tiền phong để thống nhất biện pháp giáo dục học
sinh cá biệt;
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Giải pháp đã áp dụng vào thực tế ở lớp và ở các giáo viên của
khối. Bản thân tôi đã thực hiện trong 2 năm học vừa qua và đã nhận
được những chuyển biến tích cực của học sinh. Tôi nghĩ giải pháp này

sẽ áp dụng thành công nếu biết phối hợp chặt chẽ, linh hoạt các biện
pháp nói trên.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được
do áp dụng giải pháp
- Qua thời gian áp dụng sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục
học sinh cá biệt để nâng cao chất lượng lớp chủ nhiệm.” tôi nhận
thấy học sinh cá biệt của lớp chủ nhiệm có sự chuyển biến rõ nét, cuối
năm không có học sinh chưa hoàn thành, nề nếp lớp tốt, luôn dẫn đầu
các phong trào, đạt nhiều thành tích cao. Một số kết quả bước đầu đã
đạt được như sau:
* Đối với học sinh:
+ Các em có cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc với giáo viên, luôn
được quan tâm, lắng nghe ý kiến;
13


+ Học sinh tích cực, mạnh dạn hơn trong học tập, trong mọi hoạt
động tập thể, tự tin trước đám đông;
+ Học sinh ngày càng gần gũi giáo viên và thường xuyên chia sẻ
những suy nghĩ của các em với giáo viên chủ nhiệm.
* Đối với giáo viên:
- Giảm được áp lực quản lí học sinh vì học sinh hiểu và tự giác
chấp hành tốt nội quy trường;
- Xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò;
- Nâng cao chất lượng giáo dục học sinh;
- Phụ huynh các em bắt đầu có quan tâm thiết thực đến việc học
của các em và tin tưởng giáo viên;
- Được sự đồng tình của gia đình học sinh và xã hội.
3.5. Tài liệu gồm theo gồm: Không.


Bến Tre, ngày 5 tháng 2 năm 2019

14



×