Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

LUẬN VĂN: HỆ THỐNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP SƯ PHẠM CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.9 KB, 138 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
`
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ


NGUYỄN BÁ HÙNG

HỆ THỐNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP SƯ PHẠM CHO HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Hà nội - 2006


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ



NGUYỄN BÁ HÙNG

HỆ THỐNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP SƯ PHẠM CHO HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ


Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số : 60 14 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Phạm Minh Thụ

Hà nội - 2006


3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Một trong những quan điểm chiến lược cơ bản chỉ đạo phát triển GD - ĐT
của Đảng ta chỉ rõ: “Muốn cho giáo dục thật sự là quốc sách hàng đầu thì giáo
viên (nhà giáo)…phải là lực lượng nòng cốt thực hiện chất lượng và hiệu quả
giáo dục…Bởi vậy cần đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo…về mọi
mặt, đặc biệt phải chú trọng đúng mức việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất, lối sống của đội ngũ cán bộ này”[1, tr.3]; “Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học”[18, tr.97].
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã cụ thể hóa quan điểm chỉ
đạo của Đảng và xác định: đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo
viên là khâu đột phá có ý nghĩa quyết định, góp phần triển khai thắng lợi
đường lối phát triển giáo dục của Đảng.
Là những người trực tiếp tiến hành hoạt động sư phạm, đội ngũ giáo
viên trong các NTQS có một vai trò hết sức quan trọng. Họ không chỉ là
những người truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng cho người học
mà còn phải giáo dục hình thành, phát triển PCNC cho người sỹ quan tương

lai. Tổng kết thực hiện Nghị quyết 93/ĐUQSTW và tiếp tục triển khai công
tác GD - ĐT những năm tới đây, Đảng ủy quân sự Trung ương xác định:
“Kiện toàn và phát triển đội ngũ nhà giáo… đủ số lượng, hợp lý về cơ cấu,
chuẩn hóa về trình độ học vấn, năng lực sư phạm và kinh nghiệm thực tiễn…
[21, tr.16] là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng
GD - ĐT ở các NTQS hiện nay.
Quán triệt sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là của Đảng uỷ Quân sự
Trung ương, những năm gần đây các nhà trường quân đội đã và đang tích cực
triển khai thực hiện “Đề án kiện toàn, phát triển đội ngũ nhà giáo quân đội


4

đến năm 2010” nhằm tập trung đảm bảo cho các học viên, nhà trường có đội
ngũ giáo viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, chuẩn hoá về trình độ học
vấn, có đủ phẩm chất, năng lực sư phạm và kinh nghiệm thực tiễn hoàn thành
tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa khoa học. Đây cũng là
những yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với quá trình đào tạo giáo viên trong nhà
trường quân đội nói chung và đào tạo giáo viên KHXH&NV ở HVCTQS nói
riêng.
Đối với học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở
HVCTQS hiện nay, đây là đối tượng đào tạo mới, tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm
hoạt động sư phạm còn hạn chế trong khi mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra rất
cao; họ sẽ là những giáo viên KHXH&NV ở các NTQS, lực lượng nòng cốt
góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội có chất lượng cao. Tuy nhiên một số
đồng chí sau khi đã được tuyển chọn vẫn không thật sự thiết với mục tiêu,
nhiệm vụ học tập, rèn luyện để trở thành giáo viên. Quá trình đào tạo, do đặt
trọng tâm vào nâng cao trình độ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng cho nên một số
PCNNSP của người giáo viên chưa được giáo dục để phát triển một cách vững
chắc. Chưa kết hợp chặt chẽ giữa quá trình dạy học với giáo dục PCNNSP cho

học viên, không ít những hạn chế, bất cập khác chưa được giải quyết. Học viên
nặng về chạy theo kết quả học tập, trong khi đó còn coi nhẹ rèn luyện PCNNSP
của mình. Trước yêu cầu “Xây dựng đội ngũ nhà giáo quân đội có phẩm chất
chính trị và đạo đức cách mạng…chuẩn hóa về chất lượng là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu…”[7, tr.6] đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nâng
cao chất lượng giáo dục, trong đó đặc biệt chú trọng giáo dục PCNNSP cho học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Hiện nay việc nghiên cứu về nghề nghiệp, NNSP chủ yếu được
thực hiện dưới góc độ khoa học Tâm lý: Tác giả V.P.Gribanow, V.I .


5

Giucopxkaia, M.V Giunanov, V.N.Suykin nghiên cứu về “vấn đề hứng
thú nghề nghiệp”, tác giả Trương Thành Trung thì “Phân tích tâm lý xu
hướng nghề nghiệp quân sự của học viên trường cao đẳng quân sự”. Tác
giả Chu Thanh Phong đi tìm “Cơ sở nghiên cứu của việc củng cố phát
triển xu hướng nghề nghiệp quân sự cho phi công tiêm kích thuộc lực
lượng Không quân nhân dân Việt Nam hiện nay”. Ở khía cạnh khác và
dưới góc độ là một phẩm chất tâm lý của người giáo viên, tác giả Phạm
Văn Hồng nghiên cứu và đề xuất “Những biện pháp tâm lý sư phạm
nhằm góp phần hình thành xu hướng NNSP quân sự cho học viên hệ sư
phạm ở HVCTQS”. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, các
nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào năng lực, các kỹ năng, quy trình bồi
dưỡng giáo viên. Trong quân đội, tác giả Dương Quang Bích nghiên cứu
biện pháp “Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học xã hội nhân văn trong quân đội giai đoạn hiện nay”. Gần đây, đề tài khoa học
cấp ngành “Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên KHXH&NV
trong quân đội giai đoạn hiện nay” do PGS, TS. Đặng Đức Thắng làm
chủ nhiệm đã luận giải những vấn đề cơ bản, chung nhất về nâng cao

chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên KHXH&NV. Tuy nhiên cho đến
nay, nội dung cụ thể về giáo dục PCNNSP cho học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV cấp phân đội chưa được tác giả nào nghiên cứu. Chúng tôi
thấy rằng, đi tìm lời giải khoa học đầy đủ cho vấn đề này vẫn đang là đòi
hỏi vừa khách quan, vừa cấp thiết đặt ra. Chính vì vậy tác giả đã lựa
chọn đề tài “Hệ thống biện pháp giáo dục PCNNSP cho học viên đào
tạo giáo viên KHXH&NV ở HVCTQS” nhằm góp phần khắc phục những
bất cập trên đây và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên KHXH&NV
cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay.


6

3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất hệ thống biện pháp giáo dục PCNNSP cho học viên đào
tạo giáo viên KHXH&NV nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là quá trình đào tạo giáo viên KHXH&NV
cấp phân đội ở HVCTQS .
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống biện pháp giáo dục PCNNSP cho
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
PCNNSP là kết quả tất yếu của sự tác động tổng hợp các nhân tố
khách quan, chủ quan trong quá trình đào tạo. PCNNSP của học viên đào
tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội chỉ có thể hình thành, phát triển
thông qua quá trình tổ chức hoạt động sư phạm một cách đúng đắn và
khoa học. Nếu chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa quá trình dạy học nâng cao
trình độ kiến thức mọi mặt với bồi dưỡng tình cảm, xây dựng niềm tin,
tình yêu NNSP quân sự; tổ chức tốt các hoạt động sư phạm để rèn luyện

thói quen hành vi, phát triển PCNNSP cho học viên; thường xuyên nâng
cao chất lượng tự giáo dục PCNNSP của người học; phát huy vai trò,
trách nhiệm của các lực lượng trong giáo dục học viên cùng với quan
tâm chăm lo xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh thì PCNNSP của
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội có thể được hình
thành, phát triển một cách vững chắc.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của các biện giáo dục PCNNSP cho học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở HVCTQS.


7

Đánh giá thực trạng quá trình giáo dục PCNNSP cho học viên đào
tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở Học viện Chính trị hiện nay,
tìm ra những nguyên nhân cơ bản.
Đề xuất hệ thống biện pháp giáo dục PCNNSP cho học viên đào
tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay.
7. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu tìm ra hệ thống biện pháp giáo dục
PCNNSP cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở
HVCTQS hiện nay.
8. Cái mới khoa học của đề tài
Đề tài góp phần khái quát hoá những nội dung cơ bản về giáo dục
PCNNSP và xác định những nhân tố cấu thành PCNNSP của người giáo viên
KHXH&NV ở NTQS .
Đề xuất những biện pháp giáo dục có tính hệ thống nhằm hình thành,
phát triển PCNNSP cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội
ở HVCTQS hiện nay.
9. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp luận:
Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng chủ nghĩa Mác- Lênin, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục; dựa trên các
quan điểm, nguyên tắc, phương pháp nghiên cứu KHXH&NV làm cơ sở
phương pháp luận từ đó định hướng cho việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu,
luận giải các nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực
tiễn: phân tích, khai thác các tài liệu lý luận thuộc phạm vi nghiên cứu của đề


8

tài, quan sát; đàm thoại với giáo viên, học viên và cán bộ quản lý; điều tra
bằng phiếu ankét, xin ý kiến của các chuyên gia…Cụ thể là:
Quan sát hoạt động giáo dục PCNNSP cho học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV cấp phân đội của cán bộ quản lý, giảng viên ở HVCTQS.
Tọa đàm với cán bộ quản lý, giảng viên và học viên các lớp đào tạo
giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay.
Điều tra: trưng cầu ý kiến bằng phiếu ankét với các đối tượng: học viên
đang đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội, giảng viên ở HVCTQS, học
viên sẽ tuyển chọn để đào tạo giáo viên khoa tới, học viên đã qua đào tạo giáo
viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS để tìm hiểu và khẳng định tính khách
quan của một số nhận định cần thiết.
Khai thác, tổng hợp các tài liệu liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên: chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, của bộ trưởng Bộ quốc phòng về
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo, đề án kiện toàn và phát triển đội ngũ nhà
giáo quân đội…, rút ra những vấn đề liên quan đến giáo dục PCNNSP.
Nghiên cứu sản phẩm: nghiên cứu một số sản phẩm cần thiết như báo

cáo tổng kết của Hệ sư phạm, của HVCTQS, báo cáo phân tích chất lượng các
mặt học viên của lớp, giáo án của giáo viên, vở ghi của học viên, giáo án
giảng tập của học viên…Nắm chất lượng học viên đã qua đào tạo giáo viên
KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS hiện đang công tác tại một số NTQS.
Xin ý kiến chuyên gia của một số nhà khoa học, nhà sư phạm tham gia
vào quá trình đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp cấp phân đội ở HVCTQS.
Tổ chức thử nghiệm một số nội dung nhằm kiểm chứng biện pháp được
đề xuất, việc thử nghiệm được tiến hành tại lớp GV3, hệ Sư phạm - HVCTQS
Khi xử lý số liệu tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp và sử dụng thống
kê toán học để đảm bảo tính khách quan của kết quả nghiên cứu.
10. Kết cấu luận văn


9

Luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu, 2 chương, kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP SƯ PHẠM CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ thời cổ đại, trong sự phát triển rực rỡ của nền văn hoá, giáo
dục Trung hoa, Ai cập, Hy lạp…tư tưởng về người thầy giáo với những yêu
cầu cao về PCNC đã hình thành rất sớm trong lịch sử. Dưới chế độ Chiếm hữu

nô lệ, khi chủ nô dựng ra nhà trường, đánh dấu sự ra đời của trường học chuyên
biệt cũng là lúc “nghề thầy giáo” - lớp người chuyên làm nhiệm vụ chăm sóc và
giáo dục cho con cái chủ nô ra đời từ đây.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) là một nhà giáo dục vĩ đại người Trung Hoa,
Ông đã có những cống hiến lớn lao cho nền giáo dục nhân loại trong đó có tư
tưởng về người thầy giáo. Khổng Tử cho rằng người thầy giáo trước hết phải là
người mẫu mực về đạo đức để làm tấm gương cho học trò noi theo; phải tâm
huyết với nghề dạy học của mình, dồn hết tâm huyết cho nghề nghiệp, “Học
nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” - (Học không biết chán, dạy không biết mỏi).
Muốn vậy, thầy giáo phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện mình; phải dạy
không biết mỏi để trò học không biết chán và tình cảm thầy - trò phải gắn bó
như tình cảm cha con. Ngày nay, những ai phấn đấu cho sự nghiệp giáo dục thì
thấy tư tưởng về người thầy giáo của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị.
J. A. Kômenxki (1592 - 1670), nhà giáo dục thiên tài; người mà những
tư tưởng giáo dục do ông đề xuất đánh dấu sự ra đời của ngành khoa học giáo
dục. Trong những tư tưởng giáo dục tiêu biểu của Kômenxki có tư tưởng về
người thầy giáo; Ông quý trọng và đề cao những người làm nghề dạy học cũng
như chức vị giáo sư bằng tình cảm cao quý của mình: “Người thầy giáo là người
nặn tượng cao cả, ở dưới mặt trời này không có chức vụ nào ưu việt bằng”.


11

Kômenxki cũng yêu cầu rất cao về người thầy giáo: đó phải là người mẫu mực
về mọi mặt, trong sáng về đạo đức và tác phong, có lòng nhân ái: “Không thể trở
thành người thầy nếu không phải là một người cha”[63, tr.88].
Pétxtalôdi (1746 - 1827), xuất phát từ tấm lòng từ thiện và để chống lại
cách thức giáo dục bằng roi vọt là chủ yếu lúc bấy giờ, Ông đã yêu cầu mọi
thầy giáo phải có lòng nhân ái sâu sắc trong giáo dục con trẻ; vì vậy: thầy giáo
không được đàn áp, đè nén sự phát triển tự nhiên của thanh, thiếu niên như

đang diễn ra trong trường học đương thời.
Usinxki (1824 - 1870) cũng luôn đề cao vai trò của người thầy giáo
trong sự nghiệp giáo dục, Ông cho rằng thầy giáo là khâu sống giữa quá khứ và
tương lai, sự nghiệp của người thầy giáo là sự nghiệp vĩ đại nhất trong lịch sử.
Đánh giá cao vai trò, tầm quan trọng của người thầy giáo trong giáo dục,
Usinxki là người đầu tiên trong lịch sử nền giáo dục thế giới đề xuất ý tưởng
thành lập trường sư phạm, trường chuyên làm nhiệm vụ đào tạo giáo viên.
Sự ra đời học thuyết giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh dấu sự
hoàn chỉnh hơn các quan điểm về người thầy giáo. Từ sự khẳng định nhà
trường là công cụ của chuyên chính vô sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đánh giá cao vai trò của người thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục
thế hệ trẻ. Lênin khẳng định, giáo viên “có nhiệm vụ truyền bá giáo dục to lớn,
trước hết phải trở thành đội quân chủ yếu của sự nghiệp giáo dục xã hội chủ
nghĩa,…Thầy giáo phải hòa mình vào cuộc đấu tranh của quần chúng, ngành
sư phạm phải có trách nhiệm tổ chức hoạt động của giáo giới theo yêu cầu của
xã hội xã hội chủ nghĩa”[63, tr.222].
Antôn Sêmiônnôvic Makarenkô (1888 - 1939) là nhà giáo dục Xô viết
lỗi lạc, ông đã để lại cho nhân loại kho di sản giáo dục khổng lồ; trong những
đóng góp to lớn của ông, người ta tìm thấy ở đó hệ thống quan điểm về người
thầy giáo, nhà giáo dục. Makarenkô yêu cầu nhà giáo phải có phẩm chất, năng
lực làm công tác giáo dục. Ông đòi hỏi người giáo viên phải yêu trẻ, yêu


12

nghề, phải mẫu mực trong lời nói, ăn mặc, cử chỉ, có lý tưởng, có hoài bão
ước mơ, sống lạc quan. Muốn vậy người giáo viên phải rèn luyện và học tập
không chỉ về phẩm chất tư cách mà cả về tri thức, năng lực, nghệ thuật giáo
dục, dạy học. Ông nói: “Tôi đi đến một niềm tin sâu sắc là không có nhà giáo
dục nào cả, còn tốt hơn là có những nhà giáo dục tự rèn luyện kém…”. Do

vậy “Chúng ta không những phải cố gắng tối đa mà phải có phẩm chất cao và
tài năng khác thường”, “Điều quan trọng là phải làm việc một cách có ý thức
và tích cực, coi trọng nghề nghiệp”[63, tr.272].
Đối với giáo viên ở Liên xô cũ và Liên bang Nga hiện nay, việc đào tạo
được coi trọng cả kiến thức lý luận, thực tiễn chuyên sâu và những hiểu biết rộng
về lý luận sư phạm, phương pháp giảng dạy. Người ta luôn tạo điều kiện cho
giáo viên tham gia nghiên cứu khoa học, khuyến khích giáo viên tự học, tự rèn
luyện về PCNC của người thầy giáo.
Trong lĩnh vực hoạt động sư phạm quân sự, người giáo viên ở nhà
trường quân đội được giáo dục để có những phẩm chất: niềm tin cộng sản chủ
nghĩa và tính nguyên tắc; tinh thần hoàn hảo; sự trong sạch về đạo đức; tính
yêu cầu cao; lòng tôn trọng và yêu mến con người; sự liên hệ mật thiết với
con người; những phẩm chất ý chí: sự ngoan cường, tính kiên trì, tự chủ,
quyết tâm, chủ động; tính sáng tạo của tư duy…
Ở Vương quốc Anh, chất lượng giáo viên luôn được coi là nhân tố
quyết định chất lượng đào tạo; để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về đào tạo
trong nước và đào tạo cho sinh viên nước ngoài đến học, giáo viên phải
thường xuyên được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng suốt đời mới có cơ hội cạnh
tranh vào những trường danh tiếng.
Trung Quốc quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục bắt đầu từ việc coi
trọng đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Họ đã xây dựng các học viện
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, các nhà trường chỉ nhận giáo viên có chất lượng
cao về năng lực và phẩm chất vào dạy học.


13

Nhờ có chính sách giáo dục đúng đắn mà Nhật Bản từ một nước nhỏ,
nghèo về kinh tế trở thành một trong những nước châu Á hiện đại sớm nhất và
nhanh nhất. Bí quyết đó là họ rất coi trọng đội ngũ giáo viên, phương thức

đào tạo, bồi dưỡng giáo viên luôn được đổi mới, đa dạng; vì vậy đội ngũ giáo
viên ở Nhật Bản có chất lượng rất cao cả về phẩm chất và năng lực công tác.
Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên được hình thành từ
rất sớm trong lịch sử và là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển
giáo dục của mọi quốc gia trên thế giới. Mục đích chính là tạo điều kiện để đội
ngũ giáo viên nâng cao trình độ kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm,
PCNC của người thầy giáo đáp ứng với những thay đổi về kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu về mô hình nhân cách người giáo viên, theo TS. Philip
Jackson: “Người giáo viên là người ra quyết định có hiểu biết, hiểu được
học sinh và có khả năng cấu trúc lại được nội dung giảng dạy để giúp học
sinh có thể tiếp thu được nội dung đó; đồng thời, trong khi dạy, biết khi nào
phải dạy cái gì”[33, tr.11]. Trong định nghĩa này, P. Jackson muốn nhấn
mạnh tới cả phẩm chất, năng lực và phương pháp giảng dạy, truyền thụ
kiến thức của người giáo viên.
Từ một góc nhìn khác, TS. Asa Hillirad khẳng định: “Dạy học là một
nỗ lực của con người, gồm những tiếp xúc thực tế giữa một giáo viên và một
học sinh”. Như vậy bản chất của mối quan hệ quyết định việc giáo viên có thể
dạy cho học sinh có sẵn sàng học hay không; việc giáo viên chia sẻ, trao đổi ý
kiến và tình cảm của mình một cách chân thành, cởi mở với học sinh sẽ làm
cho mối quan hệ này ngày một gắn bó hơn.
Mặc dù bề ngoài các quan điểm, các cách nhìn nhận về mô hình người
giáo viên có vẻ như mâu thuẫn với nhau song trên thực tế chúng lại bổ sung
cho nhau và tương hợp với nhau để đi đến kết luận rằng mô hình nhân cách
của người giáo viên bao gồm “Phẩm chất cá nhân, kiến thức, kỹ năng”.


14

Ở nước ta, nghiên cứu về mô hình nhân cách nghề nghiệp của người lao
động, PGS, TS. Trần Khánh Đức cho rằng có hai loại cấu trúc mô hình nhân cách

nghề nghiệp người lao động đáng chú ý. “Một là loại hình cấu trúc theo các bộ
phận cấu thành về phẩm chất và năng lực ( đức và tài) thích ứng với các loại hình
lao động trong mô hình hoạt động nghề nghiệp. Hai là loại hình cấu trúc bao gồm
bốn cấu trúc nhỏ: xu hướng, kinh nghiệm, đặc điểm tâm lý và những đặc trưng di
truyền sinh học. Bốn loại cấu trúc nhỏ nêu trên tạo thành một mô hình cấu trúc
nhân cách hoàn chỉnh và được phản ánh một cách khá đầy đủ trên nhiều nghiên
cứu về tâm lý và giáo dục học trong những năm gần đây”[24, tr.25-26].
Các nhà Tâm lý học cũng đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
này; đáng chú ý là quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai mặt thống nhất
với nhau là đức và tài (phẩm chất và năng lực). Trong đó, đức (phẩm chất) bao
gồm: phẩm chất xã hội: thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường, thái độ
chính trị, thái độ lao động…; phẩm chất cá nhân: các nết, các thói, các “thú”
(ham muốn)…; phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính
quả quyết, tính phê phán…; cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí…
Theo GS, VS. Phạm Minh Hạc “Điều quan trọng hơn là phải phát triển
mặt PCNN trong nhân cách như là một giá trị lớn trong “thời đại của những
giá trị nhân văn cao cả” và “bàn tay vàng”. Mục tiêu phát triển nghề nghiệp là
trang bị những tri thức và kỹ xảo nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu của sự tiến
bộ kỹ thuật và công nghệ, hình thành những phẩm chất tâm lý, đạo đức cần
thiết gắn với nghề nghiệp”[29, tr.289]. Theo quan điểm này, mục đích giáo
dục nghề nghiệp không chỉ là hình thành tay nghề cao cho người lao động mà
trước hết và quan trọng là phải giáo dục PCNN cần thiết cho họ.
Khi đưa ra những nhận thức mới về đào tạo đại học ở Việt Nam, tác giả
Nguyễn Trọng Hoàng và Vũ Công Thành cho rằng: đào tạo bậc đại học là đào
tạo nghề, mỗi nghề có những đặc điểm riêng; vì vậy trong đào tạo cần hết sức
coi trọng việc hình thành “nhân cách nghề nghiệp” cho người học. Nói đến


15


“nhân cách nghề nghiệp” là nói đến yêu cầu về “cái tâm” trong sáng, về năng
lực chuyên môn giỏi; về tính toàn diện của nội dung đào tạo để họ trở thành
những chuyên gia có những ước mơ lớn, giỏi lý thuyết, thành thạo thực hành.
Nhìn chung các nghiên cứu trên đều thống nhất nhận định, giáo dục,
phát triển PCNN cho người lao động là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết
cần phải được hết sức quan tâm.
Về mô hình nhân cách nhà giáo, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII xác định: “Giáo viên là nhân
tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải
có đủ đức, tài”[16, tr.38]. Quán triệt và cụ thể hóa tinh thần đó, GS. Trần Bá
Hoành chỉ rõ: phẩm chất (đức) và năng lực (tài) là hai bộ phận tạo nên cấu
trúc nhân cách của người giáo viên. Nói đến phẩm chất là nói đến hệ thống
những thuộc tính biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi người,
thường được thể hiện ra bằng thái độ, hành vi ứng xử. Nói đến năng lực là nói
đến những thuộc tính tâm lý, sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành
một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao. Phẩm chất và năng lực hòa
quyện vào nhau, chi phối lẫn nhau.
Vẫn theo GS. Trần Bá Hoành, phẩm chất của người giáo viên bao gồm:
thế giới quan là thành tố nền tảng, định hướng thái độ, hành vi ứng xử của giáo
viên, tạo nên niềm tin chính trị của giáo viên vào chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm cho giáo viên thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về GD - ĐT.
Lòng yêu người là phẩm chất đạo đức cao quý của con người và là phẩm
chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo. Bí quyết thành công của những
giáo viên xuất sắc bắt nguồn từ đây, vì vậy người giáo viên phải tôn trọng nhân
cách người học, biết tạo bầu không khí dân chủ trong lớp học, biết khai thác mọi
tiềm năng sáng tạo của người học để đạt được mục tiêu giáo dục với chất lượng và
hiệu quả cao nhất. Lòng yêu nghề, yêu người là động lực mạnh mẽ giúp giáo viên


16


vượt qua mọi khó khăn để thực hiện tốt chức năng người “kỹ sư tâm hồn” với tinh
thần trách nhiệm cao, với niềm say mê, sáng tạo, với ý chí không ngừng học hỏi,
vươn lên hoàn thiện mình để cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp “trồng người”.
Ngoài các thành tố trên, GS. Trần Bá Hoành cho rằng trong phẩm chất
người giáo viên còn có các nét khác của phẩm chất đạo đức, tính cách người
thầy giáo…Vì vậy, giáo viên phải là một công dân gương mẫu, có ý thức
trách nhiệm xã hội, là tấm gương cho học sinh noi theo. Xã hội thường đòi
hỏi ở giáo viên phong cách mô phạm, sống cuộc đời trong sáng, khiêm tốn,
giản dị, chan hòa, gần gũi và sẵn lòng giúp đỡ mọi người.
PGS. Lê Văn Hồng và PGS, TS. Lê Ngọc Lan cho rằng: “Nói đến nhân
cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc (nét đặc
trưng) và giá trị tinh thần (giá trị làm người) của mỗi người”… “Cả phẩm chất
và năng lực làm thành một hệ thống, chúng quyện vào nhau, chi phối lẫn nhau
và tạo nên một cấu trúc gồm tổ hợp những yếu tố…và tạo nên một thể thống
nhất…toàn vẹn”[62, tr.167 - 168]. Từ quan điểm trên, các tác giả chỉ ra nhân
cách của người giáo viên bao gồm các phẩm chất: thế giới quan khoa học, lý
tưởng, lòng yêu người, yêu nghề, một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí
phù hợp với hoạt động của nghề thầy giáo. Các năng lực sư phạm: nhóm năng
lực dạy học, nhóm năng lực giáo dục, nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư
phạm.
Theo TS. Nguyễn Như Ất: trong cuộc chạy đua trí tuệ hiện nay, mục
tiêu, yêu cầu, nội dung giáo dục đã có nhiều thay đổi đòi hỏi phẩm chất đạo
đức, tư tưởng, nghề nghiệp, lối sống và năng lực nghiệp vụ của nhà giáo cao
hơn. Điều đó buộc giáo viên phải được đào tạo, phải tự học, thường xuyên tự
bồi dưỡng phẩm chất và năng lực để không tụt hậu so với yêu cầu mới.
Đi tìm biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, PGS, TS. Bùi
Văn Huệ khẳng định: Sự nghiệp giáo dục sư phạm là một sự nghiệp lớn, không



17

được xem thường hoặc coi nhẹ việc đào tạo giáo viên. Bác Hồ đã dạy: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trồng
người đã khó, đào tạo người đi trồng người còn khó gấp bội phần. Vì vậy,
“Trường sư phạm ngoài nhiệm vụ dạy học cho sinh viên - giáo sinh các môn
khoa học cơ bản và khoa học sư phạm còn phải chăm lo rèn luyện nhân cách cho
sinh viên - giáo sinh và định hướng nghề nghiệp cho họ”[41, tr.3].
Năm 1984, nhằm đảm bảo tốt hơn cho việc nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên khoa học xã hội cho các nhà trường quân đội; HVCTQS đã nghiên
cứu, biên soạn tài liệu “Mô hình người giáo viên khoa học xã hội các nhà
trường cao đẳng quân sự ”. Trong đó xác định cấu trúc PCNC người giáo viên
khoa học xã hội bao gồm: “phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm
chất tâm lý”[36, tr.14-15].
Trải qua quá trình phát triển, do yêu cầu của việc nâng cao chất lượng mọi
mặt đội ngũ giáo viên KHXH&NV ở các NTQS; mô hình đào tạo người giáo viên
KHXH&NV cần được xây dựng đầy đủ và cụ thể hơn. Hiện nay mô hình đó được
xác định: đó là người chiến sĩ kiên cường trên mặt trận tư tưởng, có tính Đảng
cao; có xu hướng NNSP rõ ràng; có đầy đủ tính cách của nhà sư phạm quân sự.
Trong đó, về phẩm chất: trước hết người giáo viên KHXH&NV phải có thế giới
quan khoa học, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, có tính Đảng, tính nguyên tắc và tính
chiến đấu cao, luôn phát huy ý thức trách nhiệm cao với công việc chuyên môn
của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc và tinh thần cảnh giác cách mạng cao. Có
lối sống trong sạch, lành mạnh và chí hướng phục vụ quân đội lâu dài, thể hiện xu
hướng NNSP rõ ràng, có ý thức kỷ luật sư phạm nghiêm, đoàn kết tập thể, trung
thực, khiêm tốn, giản dị, tế nhị trong giao tiếp sư phạm, có chí tiến thủ cùng với
tinh thần đấu tranh phê và tự phê bình cao. Say mê tìm hiểu nghiên cứu khoa học
chuyên ngành, khoa học giáo dục và có óc quan sát sư phạm tốt, óc phê phán, độc
lập suy nghĩ và tính tổ chức, kỷ luật cao, có nghị lực, kiên trì, bền bỉ trong hoạt



18

động sư phạm. Về năng lực: phải có hệ thống kiến thức khoa học quân sự,
KHXH&NV quân sự, kiến thức lao động sư phạm (kiến thức về dạy học - giáo
dục), kiến thức giao tiếp sư phạm, nghiên cứu khoa học, cùng với hệ thống kỹ
năng, đặc biệt là các kỹ năng thiết kế, tổ chức hoạt động sư phạm ở NTQS.
Đi sâu nghiên cứu vấn đề chất lượng đào tạo giáo viên KHXH&NV trong
quân đội giai đoạn hiện nay, PGS, TS. Đặng Đức Thắng và nhóm tác giả cho
rằng chất lượng đào tạo là: “phạm trù dùng để chỉ tổng hợp chất lượng các yếu
tố, các hoạt động cấu thành toàn bộ quá trình đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Được biểu hiện tập trung ở chất lượng sản phẩm của quá trình đào tạo, đó là sự
trưởng thành về nhân cách của học viên sư phạm cả về kiến thức, kỹ năng, thái
độ sau quá trình đào tạo, đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn người giáo
viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội”[76, tr.29 - 30]. Như vậy, theo các
tác giả thì nhân cách của người giáo viên nói chung, giáo viên KHXH&NV nói
riêng được cấu thành bởi hệ thống phẩm chất (đức) và năng lực (tài). Quan niệm
này phản ánh khá toàn diện về chất lượng đào tạo, nó vừa bảo đảm được tính
tổng thể của quá trình đào tạo, vừa chỉ ra được những mặt, những thuộc tính căn
bản và chủ yếu nhất cấu thành, tác động lên chất lượng của toàn bộ quá trình đào
tạo giáo viên KHXH&NV trong quân đội giai đoạn hiện nay. Đây là một trong
những cơ sở để chúng ta phân tích, nghiên cứu kỹ hơn về PCNNSP của người
giáo viên KHXH&NV ở NTQS hiện nay.
1. 2. Các khái niệm cơ bản
* Nghề nghiệp sư phạm quân sự
Theo từ điển tiếng Việt, Nghề là “Công việc chuyên làm theo sự phân
công lao động trong xã hội, nghề nghiệp là để sinh sống và để phục vụ xã hội:
Nghề dạy học. Nghề nông…”[14, tr.1192]. Với định nghĩa này chúng ta có thể
hiểu nghề là công việc chuyên môn, một hình thức lao động đặc thù mang tính
chất riêng của con người; thường gắn với từng con người thông qua những



19

công việc cụ thể, được hình thành, phát triển và nhằm phục vụ đời sống con
người.
Dạy học là một nghề, đó là nghề được đào tạo. Theo từ điển Giáo dục
học, “Nghề dạy học là nghề có nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường
hoặc các cơ sở giáo dục khác”[30, tr.282]. Nghề dạy học luôn đòi hỏi nhà giáo
cần phải có hệ thống phẩm chất (đức) và năng lực (tài) tương ứng đảm bảo
cho họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình.
Người giáo viên trong NTQS có vai trò rất quan trọng, ngoài vai trò là
người truyền thụ kiến thức khoa học, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
cho người học, còn là người quản lý hoạt động của học viên ở trên lớp học,
giáo dục PCNC cho người sĩ quan tương lai. Nói cách khác, người giáo viên ở
NTQS vừa là nhà sư phạm, vừa là nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị - xã
hội; họ phải thực hiện các chức năng cơ bản của quá trình sư phạm quân sự.
Ngoài việc thực hiện tốt các nhiệm vụ theo quy định của Luật Giáo dục còn
phải thực hiện tốt các nhiệm vụ mang tính đặc thù: thực hiện các quy định
trong Điều lệ công tác Nhà trường quân đội, chấp hành nghiêm Điều lệ kỷ
luật của quân đội; tham gia giáo dục, quản lý học viên…
Như vậy, hoạt động sư phạm của người giáo viên trong NTQS vừa
mang những đặc điểm của một nhà trường sư phạm vừa mang đặc điểm của
một tổ chức quân sự. Vì thế, nghề nghiệp sư phạm quân sự là nghề của
những người chuyên làm công tác dạy học và giáo dục trong các lĩnh vực
thuộc về hoạt động quân sự.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên ở NTQS cần phải
“có bản lĩnh chính trị, kiên định, vững vàng, trung thành tuyệt đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, gương mẫu về đạo đức, lối sống, có trí tuệ…,
gắn bó và tâm huyết với nghề nghiệp”[76, tr.84 - 85].

* Phẩm chất nghề nghiệp sư phạm quân sự


20

Theo định nghĩa chung nhất về “Phẩm chất”, đó là “Giá trị và tính chất
tốt đẹp của con người hay vật gì”[14, tr.1323]; chúng ta có thể hiểu phẩm chất
là tất cả những gì thuộc về sự vật, hiện tượng; phản ánh bản chất sự vật, hiện
tượng, phản ánh giá trị, tính chất, mức độ tốt xấu của sự vật, hiện tượng để
phân biệt nó với cái khác, người này với người khác.
Khi xem xét phẩm chất là một bộ phận trong cấu trúc nhân cách, PGS. Lê
Văn Hồng và PGS, TS. Lê Ngọc Lan cho rằng: “Nói đến phẩm chất là nói đến
thái độ của người đó đối với hiện thực…thường được thể hiện ra hành động, hành
vi và cách xử sự đối với con người, công việc, tổ chức…”[62, tr.167]. Ở đây các
tác giả đề cập đến phẩm chất nói chung của mọi người, ở mọi loại hoạt động nghề
nghiệp.
Từ khía cạnh Tâm lý học nhân cách, trả lời câu hỏi: “Nhân cách người
thầy giáo bao gồm những phẩm chất cần thiết nào?”, các nhà nghiên cứu đã
chia cấu trúc PCNC của người giáo viên làm bốn tiểu cấu trúc sau:
Thứ nhất, thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, bộ mặt đạo đức và trình độ
văn hóa nói chung. Đối với người thầy giáo thì đây là những PCNN cần thiết
bởi công việc giáo dục trước hết đòi hỏi họ cần phải có phẩm chất này.
Thứ hai, thái độ tích cực với hoạt động sư phạm, chí hướng và xu
hướng sư phạm, những mong muốn, trách nhiệm và nguyện vọng muốn cống
hiến cho hoạt động sư phạm.
Thứ ba, năng lực sư phạm là điều kiện để hiện thực hóa hoạt động sư
phạm.
Thứ tư, những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo NNSP (tay nghề).
Những nội dung trên liên hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất
phù hợp với yêu cầu hoạt động sư phạm và ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động

đó.
Theo TS. Trần Đình Tuấn, “Nhân cách của nhà giáo quân đội bao gồm
các PCNC của người chỉ huy và các PCNC của nhà sư phạm”. Khi phối hợp


21

hoạt động quân sự và hoạt động sư phạm “sẽ tạo ra một loại hình hoạt động
mới là hoạt động sư phạm quân sự, làm nảy sinh những nét tính cách mới,
những phẩm chất mới chứa đựng cả bản lĩnh của người chỉ huy, lãnh đạo, cả
đạo đức, phong cách của nhà sư phạm”[84, tr.52].
Như vậy, các quan điểm trên tiếp cận phẩm chất ở cấp độ rộng, bao
gồm cả phẩm chất (đức) và năng lực (tài) tạo thành một cấu trúc nhân cách
hoàn chỉnh của người giáo viên. Dưới góc độ nghiên cứu của khoa học giáo
dục, ở cấp độ hẹp hơn trong phạm vi của lý luận giáo dục nhân cách và là một
nhân tố cấu thành PCNC người giáo viên, phẩm chất nghề nghiệp sư phạm
quân sự là một bộ phận trong hệ thống phẩm chất nhân cách của người giáo
viên, bao gồm tổ hợp những nhân tố góp phần tạo nên giá trị nhân cách và
quy định tính tích cực, tự giác của người giáo viên đối với hoạt động dạy học,
giáo dục trong lĩnh vực quân sự.
PCNNSP của người giáo viên KHXH&NV trong NTQS biểu hiện cụ
thể ở thế giới quan khoa học, niềm tin cộng sản chủ nghĩa; đó là những người
có phẩm chất trí tuệ cao gắn với tình yêu và niềm tin sư phạm sâu sắc; có
hứng thú, khuynh hướng sư phạm và khát vọng vươn lên trong sự nghiệp
trồng người; có ý chí, tính kỷ luật và tính tổ chức sư phạm, luôn mang phong
cách của một nhà sư phạm quân sự... Các phẩm chất nêu trên là một chỉnh thể
thống nhất, có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau tạo lên cấu trúc
hoàn chỉnh PCNNSPQS của người giáo viên KHXH&NV ở NTQS.
* Giáo dục PCNNSPQS cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV
cấp phân đội ở HVCTQS

Nếu hiểu, giáo dục là “Tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra”[14, tr.734] thì giáo dục PCNNSP cho học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV cấp phân đội là một bộ phận của quá trình giáo dục chung ấy.
Với vai trò là một bộ phận cơ bản trong nhân cách của người quân nhân hoạt


22

động trong lĩnh vực sư phạm, PCNNSPQS của người giáo viên KHXH&NV
không phải tự nhiên mà có; sự hình thành, phát triển và hoàn thiện PCNNSP
chịu sự tác động của nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan trong đó quá trình
đào tạo ở nhà trường giữ một vai trò hết sức quan trọng. Theo chúng tôi, giáo
dục phẩm chất nghề nghiệp sư phạm quân sự cho học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn cấp phân đội là quá trình tác động có mục đích,
có tổ chức và có hệ thống của nhà giáo dục đối với đối tượng giáo dục nhằm
hình thành cho học viên những phẩm chất nghề nghiệp sư phạm cần thiết của
người giáo viên, góp phần thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo; bảo đảm
cho họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trên cương vị là người
giáo viên ở nhà trường quân sự sau này. Nói đến giáo dục PCNNSPQS cho
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội là nói đến quá trình hình
thành, phát triển những nhân tố cấu thành nó.
Là một bộ phận của quá trình sư phạm quân sự, giáo dục PCNNSP cho học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS diễn ra trong quá
trình tổng thể của các hoạt động dạy học, giáo dục, phát triển và chuẩn bị tâm lý
cho học viên với những tác động sư phạm cụ thể của các lực lượng giáo dục.
* Hệ thống biện pháp giáo dục PCNNSP cho học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS
Sự hình thành, phát triển PCNNSP của học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV cấp phân đội ở HVCTQS là quá trình diễn ra lâu dài với nhiều

tác động sư phạm khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt, biện pháp là “Cách làm,
cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”[14, tr.161], và hệ thống là:
“Thể thống nhất được tạo lập bởi các yếu tố cùng loại, cùng chức năng, có
quan hệ chặt chẽ với nhau”[14, tr.797]. Như vậy chúng ta có thể hiểu, hệ
thống là tập hợp những yếu tố mang tính trình tự, có quan hệ lôgíc chặt chẽ
giữa các yếu tố đó.


23

Khi bàn về tính hệ thống và mối quan hệ giữa các phương pháp giáo dục,
Makarenkô viết: “…không được coi phương pháp nào có thể tách rời một hệ
thống, bất cứ một phương pháp nào cũng không được coi là tốt hoặc xấu, nếu tách
rời các phương pháp khác, tách rời toàn bộ những ảnh hưởng phức tạp”[50, tr.41].
Từ cách tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề liên quan như trên, chúng ta có
thể hiểu: Hệ thống biện pháp giáo dục phẩm chất nghề nghiệp sư phạm cho
học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn cấp phân đội là sự kết
hợp chặt chẽ, hợp lý, khoa học của nhiều cách thức, biện pháp giáo dục mang
tính chỉnh thể thống nhất nhằm hình thành, phát triển và củng cố vững chắc
các phẩm chất cần thiết của người giáo viên ở nhà trường quân sự cho học
viên.
1.3. Cấu trúc nội dung phẩm chất nghề nghiệp sư phạm của người
giáo viên khoa học xã hội và nhân văn trong nhà trường quân sự
Với vai trò là nhà sư phạm, nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục, nhà hoạt
động chính trị - xã hội, Dưới góc độ nghiên cứu của khoa học giáo dục,
PCNNSP của người giáo viên KHXH&NV ở NTQS được coi là cấu thành
phức hợp các phẩm chất sau:
PHẨM CHẤT NGHỀ
NGHIỆP SƯ PHẠM


Nhóm
phẩm
chất
TGQKH

NTCSC
*
N

Nhóm
phẩm
chất
trí
tuệ

Nhóm phẩm chất

Nhóm
Nhóm
phẩm
phẩm
chất
chất
ý
cảm
chí
xúc,
tình
thếcảm,
giới quan khoa học

niềm tin



Nhóm
phẩm
chất
kỷ luật

tính
niềm
tin cộng
tổ chức

Nhóm
phẩm
chất
thẩm
mỹ và

sảnphạm
chủ

nghĩa của người giáo viên KHXH&NV ở NTQS

Phẩm chất quan trọng nhất của người giáo viên KHXH&NV là thế giới
quan khoa học, niềm tin cộng sản và sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa gắn liền với


24


lý tưởng nghề nghiệp trong sáng. V.I. Lênin khẳng định: “Nền giáo dục mới có
trách nhiệm phải gắn hoạt động của giáo viên với nhiệm vụ xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa”[47, tr.420] và cần phải “Bồi dưỡng một đội ngũ những người làm
công tác giáo dục và giảng dạy gắn bó chặt chẽ với Đảng, với lý tưởng của Đảng
và thấm nhuần tinh thần của Đảng”[48, tr.403]. Thế giới quan của người giáo
viên KHXH&NV không chỉ quyết định niềm tin chính trị, mà còn quyết định
toàn bộ hành vi của người giáo viên, nhất là những giáo viên trẻ; nó chi phối đến
hoạt động và thái độ của người giáo viên đối với việc lựa chọn nội dung, phương
pháp giảng dạy, giáo dục học viên; việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ
chính trị - xã hội, gắn nội dung dạy học với thực tiễn đất nước, quân đội…
Thế giới quan của người giáo viên KHXH&NV ở NTQS là thế giới quan
duy vật biện chứng, sự hình thành thế giới quan khoa học chịu ảnh hưởng trình
độ học vấn, quá trình giáo dục, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội... Biểu hiện
của phẩm chất này ở người giáo viên KHXH&NV ở NTQS là lòng trung thành
với Đảng, quân đội, có niềm tin vững chắc vào lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và khả năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đó vào giải quyết những
vấn đề thực tiễn hoạt động sư phạm. Niềm tin đó đòi hỏi người giáo viên phải có
nhãn quan chính trị rộng, có nhiệt tình của Đảng trong việc giáo dục học viên.
Niềm tin cộng sản chủ nghĩa của là phẩm chất then chốt quyết định mục
tiêu chính trị và nội dung hoạt động sư phạm, đem lại phương hướng tư tưởng cho
tất cả các biện pháp tiến hành, nó bảo đảm sự tác động của Đảng đến với học viên.
Niềm tin cộng sản chủ nghĩa của người giáo viên KHXH&NV ở NTQS là điều
kiện cơ bản để giáo dục ý thức giác ngộ chính trị, lòng trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng; để xây dựng những phẩm chất chính trị, tinh thần, giáo dục
ý thức trách nhiệm cho học viên trong việc thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc.
Khác với các hoạt động khác, hoạt động sư phạm của người giáo viên
KHXH&NV ở NTQS là hoạt động nhằm làm thay đổi người học viên, vì vậy
họ cần phải có phẩm chất đạo đức. Phẩm chất đạo đức đó không chỉ dừng lại ở



25

thứ đạo đức chung của mọi công dân. Điều đó về mặt nguyên tắc, đã phải được
xây dựng từ sớm và là đòi hỏi tất yếu; đạo đức ở đây là đạo đức nghề nghiệp “nghề trồng người”, là “cái tâm” của những người trí thức, những phẩm chất
cần thiết cho nghề nghiệp để góp phần vào sự nghiệp GD - ĐT của dân tộc và
quân đội. Vì vậy, với người giáo viên KHXH&NV ở NTQS không thể thiếu
những phẩm chất: tinh thần nghĩa vụ, tinh thần nhân đạo, lòng tôn trọng, thái
độ công bằng, chính trực, tính tình ngay thẳng, giản dị và khiêm tốn, tính kiên
nhẫn, tính kiềm chế…Đó là những phẩm chất đạo đức sư phạm, nhân tố ra sự
cân bằng cần thiết theo quan điểm sư phạm trong mối quan hệ thầy trò.
* Nhóm phẩm chất trí tuệ của người giáo viên KHXH&NV ở nhà
trường quân sự
Để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của người thầy giáo ở NTQS,
người giáo viên KHXH&NV cần phải có hiểu biết sâu sắc nghiệp vụ quân sự
và nghiệp vụ sư phạm. Kết quả hoạt động của người giáo viên phụ thuộc
nhiều vào phương hướng sư phạm, chí hướng của họ trong việc nắm vững
nghệ thuật giáo dục học viên. Phương hướng sư phạm quyết định sự hình
thành ở người giáo viên những phẩm chất như hứng thú, khuynh hướng, lòng
yêu quý nghề nghiệp của mình, lòng tự hào đối với việc thực hiện nghĩa vụ
của Đảng và tinh thần yêu lao động.
Nghề nghiệp của người giáo viên KHXH&NV ở NTQS là một trong
những nghề phức tạp, không thể thiếu chí hướng, sự tự giác thực hiện nghĩa vụ
đào tạo những con người trung thành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Nghề nghiệp đó đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức, nghị lực và phải thật sự nhiệt
tình với sự nghiệp “trồng người” trong quân đội. Người ta chỉ trở thành người
giáo viên tốt khi mang theo chí hướng đó suốt cuộc đời của mình như là một
nghĩa vụ, tìm thấy trong đó ý nghĩa xã hội lớn lao và tìm thấy trong lao động sư
phạm của mình một niềm vui thỏa mãn.



×