Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận ô nhiễm không khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.8 KB, 26 trang )

1. Mở đầu

Theo báo cáo thường niên The Environmental Performance Index (EPI) của Mỹ thực
hiện, Việt Nam hiện đang đứng trong top 10 các nước ô nhiễm không khí ở Châu Á.
Đáng lưu ý, tổng lượng bụi Việt Nam đang liên tục tăng cao khiến chỉ số chất lượng
không khí (AQI) luôn ở mức báo động. Nồng độ bụi trung bình trong không khí ở Hà Nội
và TP.HCM vượt mức cho phép từ hai đến ba lần và có xu hướng duy trì ở ngưỡng cao.
Trong đó không thể không kể đến tác nhân gây ô nhiễm không khí hiện nay là Bụi siêu
mịn PM2.5. Theo định nghĩa của WHO, “PM là một chất gây ô nhiễm không khí, bao
gồm hỗn hợp các hạt rắn và hạt lỏng, chúng lơ lửng trong không khí.“ Chỉ số PM thường
được dùng để đề cập đến các hạt có đường kính nhỏ hơn 10 μm (PM10) và nhỏ hơn 2,5
μm (PM2.5). Những hạt này thường được gọi chung là bụi mịn, bụi siêu mịn.
Có 2 nguồn chính gây ra bụi mịn PM2.5 là nguồn sơ cấp và nguồn thứ cấp.
NGUỒN SƠ CẤP: phát sinh trực tiếp từ môi trường đến từ những tác nhân cơ bản xung
quanh chúng ta.: Bụi thiên nhiên: sa mạc, đất cát, phun trào núi lửa; Sản xuất công
nghiệp: khói thải từ nhà máy, xưởng sản xuất, khu công nghiệp; Giao thông vận tải: khói
thải từ các phương tiện cá nhân, cát bụi cuốn theo trong quá trình di chuyển, cát bụi sinh
ra do bào mòn bề mặt đường; Sinh hoạt: khói thải nấu nướng bằng bếp than, bếp củi, dầu;
Rác thải: rác sinh hoạt, rác công nghiệp; Nông nghiệp: vận chuyển, đốt rơm rạ; Xây
dựng: bụi từ quá trình xây dựng chung cư, cao ốc, cầu đường
NGUỒN THỨ CẤP: Khi nguồn sơ cấp lơ lửng trong không khí, một trong số chúng phản
ứng hoá học với tự nhiên, tạo ra một chất mới.
Trong bài tiểu luận này nhóm nghiên cứu sẽ tập trung đánh giá sự ô nhiễm không khí do
bụi mịn PM2.5 từ các hoạt động nông nghiệp để từ đó đề ra các giải pháp khắc phục hạn
chế thiết thực.


2. Tổng quan nghiên cứu

2.1. Nguyên nhân gây ô nhiễm không khí
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí


Có 2 nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm không khí hiện nay đó là: Ô nhiễm từ
tự nhiên và ô nhiễm không khí do con người gây nên trong đó Ô nhiễm không khí do con
người tạo ra là yếu tố chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề như hiện nay cũng là
nguyên nhân chính cho con số 3 triệu đáng thương tâm.
Ô nhiễm không khí tự nhiên
Ô nhiễm từ gió: Gió cũng là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí.
Bụi bẩn, các chất khí có thể được gió đẩy đi xa hàng trăm km khiến sự ô nhiễm lây lan ra
theo diện rộng một cách nhanh chóng;
Bão: Sinh ra NOx là nguyên nhân chính khiến bão trở thành một nguyên nhân trong quá
trình gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó bão cát mang theo bụi mịn (PM10, PM2.5)
khiến cho tỷ lệ ô nhiễm bụi mịn tăng lên.
Cháy rừng: Cháy rừng sẽ khiến cho lượng Nito Oxit trong không khí tăng lên khá nhiều
vì quy mô đám cháy lớn và thời gian dập tắt lâu.
Núi lửa: Khi có sự phun trào núi lửa thì một lượng khí
Metan, Clo, Lưu huỳnh… cũng khiến không khí trở nên ô nhiễm hơn.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác như chất phóng xạ trong tự nhiên, sóng biển… cũng góp
một phần nhỏ nguyên nhân vào hiện tượng ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm không khí do con người
Có thể nói nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề như hiện nay phần lớn
đều do các hoạt động từ sinh hoạt, công việc mà con người tạo ra. Từ những hoạt động
đơn giản như nấu nướng, giao thông cho đến những hoạt động sản xuất, nhà máy công
nghiệp đã và đang ngày càng gây ảnh hưởng nghiêm trọng và là vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội nhất là với các nước đang phát triển – nơi mà được ví như bãi rác của thế giới
khi mà tại các nước phát triển các vấn đề bảo vệ môi trường được đặt lên cao thì những
nước đang phát triển trở thành một điểm đến cho các tập đoàn sản xuất lớn tập trung về
đây khiến cho không khí bị ô nhiễm nhanh chóng và tồi tệ. Dưới đây là một số nguyên
nhân gây nên ô nhiễm không khí dưới sự tác động của con người:





Khói, bụi từ các nhà máy: Chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nguyên nhân gây ra
tình trạng ô nhiễm không những không khí mà còn cả nguồn nước, thức ăn.
Trong khói bụi từ các nhà máy có một lượng lớn các khí CO2, CO, SO2, NOx,
các chất hữu cơ chưa cháy hết: muội than, bụi) với nồng độ cực cao. Nếu trong
quá trình xử lý khí thải không tốt sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của người
dân sống trong khu vực đó. Thậm chí đây còn là nguyên nhân chính gây ra hiện
tượng mưa axit gây ra rất nhiều thiệt hại cho con người cũng như mùa màng



Giao thông: Lượng khói, bụi từ xe hơi, xe máy, các phương tiện nói chung sử
dụng nhiên liệu khí đốt để hoạt động… cũng rất lớn bởi số người tham gia giao
thông hàng ngày là cực cao. Đối với những đất nước chưa phát triển hoặc đang
phát triển thì các phương tiện giao thông có thể gây ô nhiễm không khí hơn khi
sử dụng các phương tiện lỗi thời cũng như cơ sở hạ tầng cho các dịch vụ di
chuyển công còn chưa phát triển.



Chiến tranh hay các cuộc tập trận quân sự: vũ khí hạt nhân, khí độc, chiến tranh
hóa học và tên lửa cũng là một trong những nguyên nhân gây ra sự ô nhiễm
không khí này.



Sinh hoạt: Chủ yếu đến từ các hoạt động nấu nướng sử dụng các nguyên liệu
như củi, than.

2.2. Bụi siêu mịn PM2.5


a. Bụi siêu mịn PM 2.5 là gì?
Vật chất hạt mịn có đường kính khí động học ≤ 2,5 μm (được gọi là PM2,5) từ lâu đã
được công nhận là chất gây ô nhiễm không khí chính liên quan đến sức khỏe con người
bất lợi, suy thoái môi trường, giảm tầm nhìn và biến đổi khí hậu. PM2.5 có thể được phát
ra trực tiếp từ các nguồn và được tạo ra bởi các tiền chất thông qua các quá trình biến đổi
hóa học vật lý trong khí quyển. Các nguồn nhân tạo chính của PM2,5 là khí thải xe cơ
giới, đốt sinh khối và đốt nhiên liệu hóa thạch. Với kích thước hạt nhỏ nhất của nó,
PM2.5 có thời gian cư trú dài kéo dài vài ngày đến vài tuần và nó dễ dàng di chuyển
trong bầu khí quyển. PM2.5 có thể được loại bỏ khỏi khí quyển chủ yếu bằng kết tủa rửa
trôi. Phân bố khu vực ô nhiễm PM2.5 đã được quan sát thấy ở nhiều địa điểm. Hơn nữa,
những ảnh hưởng của vận chuyển tầm xa đến chất lượng không khí đã được báo cáo.
Tóm lại, ô nhiễm PM2.5 là mối quan tâm của cả khu vực và toàn cầu và có ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe con người. Mặc dù nhiều quốc gia đã phát triển mạng lưới quan trắc


không khí, bao gồm quan sát PM2.5 bằng thiết bị và phương pháp đo lường tiêu chuẩn,
đo lường PM2.5 thường xuyên được thực hiện bởi Chính phủ Việt Nam. Dữ liệu đáng tin
cậy nhất về mức PM2.5 là từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội và Lãnh sự quán tại Thành
phố Hồ Chí Minh (TP HCM), nơi áp dụng các công cụ giám sát suy giảm beta (BAM),
trong đó nồng độ PM2.5 trung bình hàng năm tại Hà Nội và TP HCM năm 2016 lần lượt
là 50,5 và 42 μg m-3. Nồng độ PM2.5 ở Việt Nam cao hơn đáng kể so với nồng độ ở các
thành phố khác ở Châu Âu và Hoa Kỳ, dân số Việt Nam đang hít thở không khí một mức
độ cao của chất gây ô nhiễm không khí. Vào tháng 4 năm 2013, lần đầu tiên, Bộ Tài
nguyên và Môi trường Việt Nam đã bổ sung các giới hạn mới về nồng độ PM2.5 vào Quy
định kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh (NAAQ) (QCVN 05: 2013 /
BTNMT). Để đo lường hiệu quả của việc phát triển chính sách và ý nghĩa của nó trong
việc giảm phát thải PM2.5 trong tương lai, hiểu được tình trạng hiện tại của PM2.5 xung
quanh, đặc biệt là dữ liệu quan sát dài hạn tại các thành phố đông dân như Hà Nội và TP
HCM, là rất quan trọng. TP HCM, nằm ở phía Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất và

đông dân nhất Việt Nam. Dân số đăng ký của nó là 8.445 triệu vào năm 2017, chiếm 9%
tổng dân số Việt Nam; tuy nhiên, diện tích của thành phố, 2095,5 km², chỉ chiếm 0,6% cả
nước. Hàng năm, TP HCM đóng góp tới 30% tổng GDP quốc gia. Các nghiên cứu dịch tễ
học gần đây đã tiết lộ những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến sức khỏe con người
có thể gây ra các bệnh về hô hấp và tim mạch và giảm tuổi thọ. Tuy nhiên, những nghiên
cứu này đã điều tra tác động của chỉ PM10 và một số loại khí phổ biến chứ không phải
PM2.5, đây là chất gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Việc thiếu các nghiên cứu đầy đủ về PM2.5 là do thiếu dữ liệu PM2.5 đáng tin cậy. Mặc
dù ô nhiễm không khí ở thành phố Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, đã thu hút sự chú ý
nghiên cứu đáng kể gần đây, một vài nghiên cứu đã điều tra về ô nhiễm không khí ở TP
HCM, thành phố lớn nhất Việt Nam. Theo hiểu biết của chúng tôi, Amoniac (NH3) là
một chất gây ô nhiễm không khí và có thể có tác động xấu đến môi trường và sức khỏe
con người. Sau khi phát thải vào khí quyển, NH3 có thể bị phân tán và vận chuyển và
nhanh chóng được lắng đọng gần nguồn của nó hoặc chuyển thành các sol khí amoni đi
qua khoảng cách xa trước khi được lắng đọng. Bình xịt là một phần của phần hạt mịn
(đường kính <2,5 μm). Do đó, NH3 là tiền chất của vật chất hạt mịn thứ cấp (PM2,5).
Sau khi lắng đọng vào đất liền, NH3 có thể góp phần axit hóa và phú dưỡng cho hệ sinh
thái tự nhiên và làm mất đa dạng sinh học trên cạn. Nó có thể tạo thành oxit nitơ khí nhà
kính, ảnh hưởng đến khí hậu hoặc nitrat có thể ngấm vào nước ngầm và mặt nước, ảnh


hưởng đến đa dạng sinh học dưới nước. Sự lắng đọng trong khí quyển của NH3 được coi
là mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học trên cạn. Nguồn phát NH3 lớn nhất vào khí
quyển là từ các nguồn nông nghiệp, và hơn nữa gần 70% lượng khí thải amoniac toàn cầu
là từ các nguồn nhân tạo như đốt sinh khối, phân bón và chất thải động vật. Kết quả
nghiên cứu sẽ cung cấp những hiểu biết hữu ích cho việc theo dõi địa điểm và có thể thực
hiện các hành động liên quan để kiểm soát ô nhiễm khí dung để đáp ứng Tiêu chuẩn Chất
lượng Không khí Xung quanh Quốc gia của Việt Nam nếu không phải là tiêu chuẩn của
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
Nguyên nhân hình thành bụi siêu mịn PM 2.5 có rất nhiều nhưng phần lớn chính là từ

hoạt động của các phương tiện giao thông (57%), sau đó là các hoạt động xây dựng và
cuối cùng chính là từ các hoạt động công nghiệp và nông nghiệp. Cũng chính vì nguyên
nhân chính là do sự hoạt động giao thông vì thế mà vào các thời điểm kẹt xe cũng chính
là lúc lượng bụi PM 2.5 lên cao nhất.
b. Tác hại

Với những loại bụi bình thường có kích thước lớn hơn (PM 10) thì cũng đã gây ra các tác
hại nhất định tới hệ thống hô hấp của chúng ta. Chính vì thế mà bụi siêu mịn PM2.5 lại
đặc biệt nguy hiểm hơn cả bởi vì kích thước siêu nhỏ giúp chúng có khả năng sẽ đi sâu
vào vào các túi phổi - thậm chí là cả các mao mạch để vào hệ thống tuần hoàn gây ra
nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiếp xúc.
Đối với những người từng có tiền sử bị bệnh tim, phổi hoặc đối tượng là trẻ em, người
cao tuổi chính là những đối tượng mà dễ bị tác động nhất bởi bụi siêu mịn PM 2.5. Tuy
nhiên, trên thực tế thì kể cả với những người khỏe mạnh thì việc tiếp xúc với bụi siêu mịn
PM 2.5 với mức độ quá cao và lâu dài cũng sẽ gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe.
Hiện nay thì đã có rất nghiều nghiên cứu chỉ ra rằng có sự liên quan rõ ràng của bụi siêu
mịn PM 2.5 với các bệnh/triệu chứng sau:


Kích ứng/dị ứng mắt, mũi và họng



Viêm xoang, sổ mũi và bệnh hen suyễn



Làm xuất hiện các triệu chứng như : ho, tức ngực và khó thở





Gây ra suy giảm chức năng phổi



Bụi siêu mịn gây ra ối loạn nhịp tim, đau tim, đột quỵ



Làm gia tăng tỉ lệ tử vong ở những người từng bị bệnh tim hoặc phổi
Ảnh hưởng của bụi siêu mịn gây ra cho sức khỏe là rất lớn, chính vì thế mà mọi người
cần nhận thức tầm ảnh hưởng nghiêm trọng của bụi PM 2.5 để có được những biện pháp
phòng tránh, bảo vệ cơ thể cẩn thận.


* Cụ thể các tác động:
Ô nhiễm không khí có những ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ con người, đặc biệt
đối với đường hô hấp. Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy, khi môi trường không
khí bị ô nhiễm, sức khoẻ con người bị suy giảm, quá trình lão hoá trong cơ thể bị thúc
đẩy, chức năng của phổi bị suy giảm; gây bệnh hen suyễn, viêm phế quản; gây bệnh ung
thư, bệnh tim mạch và làm giảm tuổi thọ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ô nhiễm không khí
đô thị làm khoảng 800.000 người chết và 4,6 triệu người giảm tuổi thọ trên thế giới mỗi
năm. 2/3 số người chết và giảm tuổi thọ do ô nhiễm không khí thuộc các nước đang phát
triển. Các nhóm cộng đồng nhạy cảm nhất với sự ô nhiễm không khí là những người cao
tuổi, phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 14 tuổi, người đang mang bệnh, người thường xuyên
phải làm việc ngoài trời… Mức độ ảnh hưởng của từng người tùy thuộc vào tình trạng
sức khoẻ, nồng độ, loại chất ô nhiễm và thời gian tiếp xúc với môi trường ô nhiễm.
Ô nhiễm không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người biểu hiện qua

việc chảy nước mắt, đỏ mắt, ho, thở khò khè… Ô nhiễm không khí tác động xấu dến sức
khỏe con người, khi con người tiếp xúc trực tiếp với môi trường không khí bị ô nhiễm sẽ
đẩy nhanh quá trình lão hóa, giảm chức năng của phổi, dễ mắc các bệnh hen suyễn, viêm
phế quản, thậm chí có thể bị ung thư. Ô nhiễm không khí cũng được xác định là nguyên
nhân làm gia tăng tỷ lệ người mắc các bệnh về đường hô hấp và tim mạch. Mức độ ảnh
hưởng tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của từng người, vào nồng độ của loại chất gây ô
nhiễm và thời gian tiếp xúc.
Ô nhiễm không khí ảnh hưởng lớn tới phụ nữ mang thai và trẻ em. Nếu các đối
tượng này tiếp xúc với không khí ô nhiễm trong khoảng thời gian dài sẽ có nguy cơ bị tổn
hại sức khỏe lâu dài, ở mức độ nghiêm trọng hơn. Những năm gần đây, các bệnh ở trẻ em
liên quan đến ô nhiễm không khí có xu hướng tăng cao, nổi bật là bệnh suyễn, nhiễm
khuẩn đường hô hấp, lao, viêm phổi, bại não, ung thư và các dị tật bẩm sinh.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã xếp ô nhiễm không khí ngoài trời là một trong
những nguyên nhân hàng đầu gây các căn bệnh ung thư ở người. Cơ quan Nghiên cứu
quốc tế về ung thư (IARC) cũng tuyên bố rằng ô nhiễm không khí là một nguyên nhân
dẫn đến gây ung thư, cùng với những tác nhân nguy hiểm khác được biết đến như amiăng
(một loại khoáng chất tự nhiên thường được sử dụng trong xây dựng), thuốc lá và bức xạ
tia cực tím. Nồng độ các khí độc như SO 2, NOx, tăng cao trong không khí sẽ tác động đến
chức năng hô hấp của những người được bị bệnh hen suyễn hay phế quản mãn tính, gây
giảm khả năng hô hấp của những người thuộc đối tượng này. Việc ô nhiễm bụi trong
không khí tác động lớn đến sức khỏe con người bởi các hạt bụi tồn tại trong không khí
quá lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hô hấp cũng như chức năng hô hấp của con
người. Tiếp xúc thường xuyên và lâu dài với môi trường không khí ô nhiễm bụi sẽ làm
hỏng các mô phổi, làm gia tăng tỷ lệ ung thư, chết trẻ.


Hiện nay, môi trường không khí trên địa bàn thành phố đã có dấu hiệu của việc ô
nhiễm. Các khu vực bị ô nhiễm không khí chủ yếu tập trung ở huyện Thủy Nguyên, khu
kinh tế Đình Vũ. Hàm lượng bụi đo được tại nhiều điểm trong thành phố đã vượt giới hạn
cho phép của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng môi trường không khí xung

quanh.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng: ô nhiễm môi trường do nhiều
nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do các hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của
con người gây ra; và ô nhiễm môi trường nặng nhất tập trung ở các đô thị đông dân cư và
các khu công nghiệp.
Hải Phòng là địa phương phát triển mạnh về công nghiệp, xây dựng, hình thành
nhiều KCN, CCN nên tỷ lệ người lao động mắc các bệnh do ô nhiễm môi trường công
nghiệp cũng khá cao. Người lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp thường bị
mắc các bệnh như bệnh hô hấp, tim mạch, tiêu hoá, mắt, ngoài da và một số hiện tượng
ngộ độc như ngộ độc CO, SO2, Pb,...
Ô nhiễm không khí từ các các khu vực sản xuất công nghiệp không chỉ ảnh hưởng
đến người lao động mà còn ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư sống ở các khu vực xung
quanh. Hải Phòng nói riêng và miền Bắc nói chung có thời tiết khắc nghiệt, nhiệt độ tăng
giảm thất thường nhất là vào mùa đông. Đó là lý do tỷ lệ người mắc bệnh hô hấp ở vùng
này cao hơn những vùng có khí hậu ôn hòa, ổn định. Ví dụ như về mùa đông, bệnh viêm
họng, viêm phổi thường có diễn biến bất thường, đặc biệt là ở trẻ em. Ngoài ra, các bệnh
về mắt, bệnh tim mạch, hội chứng dạ dày, thiếu máu, rối loạn thần kinh ở vùng ô nhiễm
cũng cao hơn. Đối với nhóm làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, các bệnh phổ biến
là bệnh ngoài da và viêm niêm mạc.
Ô nhiễm không khí từ các khu vực sản xuất công nghiệp, làng nghề không chỉ ảnh
hưởng đến người lao động mà còn ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư sống ở các khu vực
xung quanh. Một số nghiên cứu y tế đã cho thấy các bệnh hô hấp cả mãn tính và cấp tính
ở các vùng gần các khu vực sản xuất cao hơn rõ rệt so với các vùng nông thôn. Ngoài ra,
các bệnh về mắt, bệnh tim mạch, hội chứng dạ dày, thiếu máu, rối loạn thần kinh ở vùng
ô nhiễm cũng cao hơn.
Bên cạnh các ảnh hưởng do ô nhiễm không khí tại các khu vực sản xuất công
nghiệp thì ô nhiễm không khí xung quanh các tuyến đường giao thông cũng có những tác
động tiêu cực đến sức khoẻ cộng đồng. Trẻ em ở lứa tuổi học đường sống quanh các nút
giao thông có biểu hiện triệu chứng rõ rệt tới sức khoẻ như kích thích các hệ cơ quan mắt,
mũi, họng, da và thần kinh thực vật. Sở dĩ trẻ em chịu nhiều ảnh hưởng hơn người lớn là

do các bé thấp hơn, phải tiếp xúc với lượng khí thải xe cộ gần mặt đất nhiều hơn. Theo
kết quả nghiên cứu từ đề tài của Cục Y tế giao thông vận tải, tỷ lệ trẻ em bị mắc bệnh


đường hô hấp (viêm mũi, viêm họng, viêm phế quản…) là khá cao và có xu hướng tăng
qua các năm.
Trong những năm sắp tới, mức độ ô nhiễm không khí, đặc biệt là khu vực đô thị và
các KCN, CCN ở Hải Phòng còn tiếp tục tăng lên, nếu không có những biện pháp kiểm
soát hiệu quả, mức độ ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng cũng sẽ tăng lên.
Ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Ô nhiễm môi trường gây tác động tới sức khỏe cộng đồng, kéo theo đó là những
thiệt hại do ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống KT-XH. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới, mỗi năm ở Việt Nam thiệt hại không dưới 780 triệu
USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường. Hải Phòng cũng
không nằm ngoài quy luật này. Tổn thất kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra thường
đánh giá trên các mặt: con người, mùa màng và đánh bắt thủy sản sau mỗi vụ thảm họa
hoặc một sự cố do ô nhiễm môi trường...
Thiệt hại kinh tế do gia tăng gánh nặng bệnh tật
Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến sức khoẻ bao gồm các
khoản chi phí: chi phí khám và thuốc chữa bệnh, tổn thất mất ngày công lao động do nghỉ
ốm, tổn thất thời gian của người nhà chăm sóc người ốm,... Theo kết quả nghiên cứu từ
đề tài của Cục Y tế Giao thông vận tải năm 2010, ước tính tổng chi phí trực tiếp cho điều
trị, gián tiếp và chăm sóc người mắc bệnh đường hô hấp trung bình trong một ngày của
người dân là 1.538 đồng/người/ngày. Như vậy, với tổng dân số của Hải Phòng như hiện
nay (hơn 2 triệu dân toàn thành phố) thì ước tính, tổng thiệt hại kinh tế do người dân mắc
các bệnh đường hô hấp là không hề nhỏ.
Ô nhiễm môi trường đã gây ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe cho người lao động tại
các cơ sở sản xuất và người dân sống khu vực lân cận các khu vực sản xuất (làng nghề,
cơ sở sản xuất, KCN…), từ đó gây ra tổn thất kinh tế cho khám chữa bệnh và các thiệt
hại thu nhập do bị bệnh.

Thêm vào đó, bệnh liên quan đến ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng đến người
thân, tạo nên chi phí gián tiếp do nghỉ học, nghỉ làm khi người thân bị ốm. Đa số người
dân được hỏi sau khi nghỉ ốm để điều trị bệnh hoặc có người thân bị ốm thì bị giảm
khoảng 20% thu nhập và suy giảm về sức khỏe khoảng 20% so với trước khi bị bệnh.
Kéo theo đó, là những ảnh hưởng tâm lý bất ổn khiến con người khó có thể tập trung cho
công việc và học hành khiến hiệu quả năng suất không cao, thậm chí ở nhiều nghề
nghiệp, sự mất tập trung sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, tính mạng.
Bên cạnh việc ước tính các chi phí cho chăm sóc sức khỏe, khái niệm “gánh nặng
bệnh tật” còn được sử dụng khi đánh giá tác động của ô nhiễm môi trường đối với sức
khỏe của con người (tác động sức khỏe). Gánh nặng bệnh tật được hiểu là tổng số năm


sống mất đi vì mang bệnh, tai nạn thương tích và số năm mất đi vì chết non so với tuổi
thọ kỳ vọng, tính trên 1000 người dân sống trong khu vực điều tra. Môi trường khu vực
bị ô nhiễm khiến “gánh nặng bệnh tật” của cộng đồng tại đó cũng sẽ gia tăng, điều này
gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của chính những người lao động và cả cộng
đồng dân cư sống ở các khu vực lân cận.
2.3. Nguồn phát thải bụi mịn từ hoạt động nông nghiệp
Nguyên nhân chính gây phát thải bụi mịn từ nông nghiệp đó là hoạt động đốt rơm rạ tạo nên lớp khói, bụi mù mịt, gây hại cho sức khỏe và nguy hiểm cho người đi đường.
Vài năm gần đây, sau khi thu hoạch lúa, người dân Việt Nam thường có thói quen xử lý
rơm rạ bằng cách đốt ngay tại ruộng. Việc làm này không chỉ làm ô nhiễm môi trường
không khí (phát thải khí CO2, CO và NOx…) mà còn gây hiện tượng mù khói, ảnh
hưởng tới cuộc sống sinh hoạt của người dân, hạn chế tầm nhìn của người dân khi tham
gia giao thông, đặc biệt trong những ngày thời tiết xấu và bất thường.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường, đã có những nghiên cứu trên phạm vi thế
giới về tác hại của việc đốt rơm rạ đến chất lượng không khí tại khu vực, đồng thời chỉ ra
những giải pháp thay thế cho việc đốt rơm rạ. Song, dường như người nông dân vẫn
không thể tiếp cận được những kết quả này và vẫn chưa ý thức được khói rơm rạ gây
nguy hại đến môi trường, sức khỏe như thế nào.
Các chuyên gia cũng cảnh báo, đốt rơm rạ gây nên ô nhiễm bụi mịn. Đây là loại ô nhiễm

rất đáng lo ngại. Nếu như với ô nhiễm bụi đường bình thường thì dùng khẩu trang có thể
ngăn chặn được, còn với ô nhiễm bụi mịn thì khẩu trang cũng vô ích, bụi chui sâu vào
phổi, gây các bệnh về hô hấp, thậm chí ung thư.
Không những vậy, việc đốt nhiều rơm rạ trong cùng một lúc sẽ làm nóng bầu khí quyển,
khiến nhiệt độ trở nên nóng hơn, đẩy nhiệt độ lên cao. Tình trạng nhà cao tầng quá nhiều
so với trước đây cũng gây ra hiện tượng này. Vì lý do đó, sự lưu thông khí kém hơn,
trong khi đó mức độ ô nhiễm không khí cao do khí thải độc hại từ động cơ và khu công
nghiệp không thoát lên cao mà tập trung dưới mặt đất nên dễ gây ra hiện tượng mù quang
hóa.



3. Thảo luận
Một số hình ảnh sử dụng phương pháp thống kê SPSS







4. Phương hướng và giải pháp bảo vệ môi trường không khí
Với những thách thức môi trường đã và đang đặt ra, cần phải tập trung vào một số
nhiệm vụ trọng tâm nhằm từng bước giải quyết triệt để các thách thức nêu trên. Cụ thể:
Tiếp tục thể chế hóa pháp luật về bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố: tập
trung triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2014; các nghị định, thông tư về lĩnh
vực bảo vệ môi trường và tài nguyên nước, biển và hải đảo; rà soát, đánh giá tính hiệu
lực, hiệu quả của các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, tài nguyên nước hiện nay
trên địa bàn thành phố, từ đó bổ sung, hoàn thiện, đảm bảo tính hoàn chỉnh, thống nhất và
đồng bộ. Tập trung thực hiện việc phân loại ô nhiễm và hoàn thành xây dựng bộ sách

xanh, sách đen.
Tập trung xử lý dứt điểm các khu vực trọng điểm ô nhiễm có khiếu kiện về môi
trường; giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu, cụm công nghiệp, khu
vực cảng, khu vực làng nghề, khu dân cư nội thành, thị trấn, các khu xử lý rác thải tập
trung.
Cải thiện môi trường nông thôn; hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi
trường ở nông thôn, khắc phục những mặt tồn tại, yếu kém, ngăn chặn tình trạng mất vệ
sinh trong thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn ở nông thôn, kiểm soát việc sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật; lồng ghép việc xây dựng, cải tạo các công trình tiêu thoát, xử lý
nước thải tại khu vực nông thôn vào chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới.
Kiểm soát và giảm thiểu các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí: tăng
cường nguồn lực thực hiện kiểm tra, kiểm soát chất lượng phương tiện tham gia giao
thông; giám sát chặt chẽ việc che chắn, hạn chế bụi từ các công trường xây dựng, xe chở
nguyên vật liệu; giám sát việc đầu tư, vận hành hệ thống xử lý khí thải của các cơ sở sản
xuất công nghiệp, đặc biệt là những ngành có nguồn thải lớn như nhiệt điện, xi măng...;
kiểm soát các lò đốt chất thải y tế...; khuyến khích sử dụng công nghệ thân thiện với môi
trường, nhiệt liệu sạch trong các ngành công nghiệp, giao thông vận tải...
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu qua các cảng khu vực Hải Phòng
nhằm chủ động ngăn ngừa có hiệu quả việc vận chuyển chất thải qua cảng; tập trung xử
lý các loại hàng hóa có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đang tồn đọng tại cảng.


Bên cạnh đó, cần phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố lân cận (Quảng Ninh,
Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội) trong các vấn đề kiểm soát và quản lý các nguồn gây ô
nhiễm ở phạm vi rộng, đặc biệt tại các khu vực giáp ranh hay các vấn đề môi trường có
tính chất liên tỉnh, liên vùng nhằm phát huy hiệu quả của các biện pháp quản lý.
Điều chỉnh nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của Sở TN&MT (Chi cục BVMT)
và các Sở ban ngành khác trong công tác quản lý nhà nước về môi trường và tài nguyên,
thống nhất đầu mối quản lý môi trường của địa phương, không thừa, không thiếu và đồng

bộ, tránh phân tán, chồng chéo và trùng lắp;
Trên cơ sở xác định rõ và đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn Sở TN&MT và
các sở ban ngành khác, cần điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy cho hợp lý; có cơ chế phối
hợp tốt và cơ chế quản lý phù hợp để hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn;
Tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý các
đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;
Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về môi trường cần được thiết kế thống nhất về
tổ chức, biên chế, cơ chế hoạt động, cơ chế phối hợp và các điều kiện, phương tiện, vật
chất – kỹ thuật để bảo đảm thực hiện qui phạm và pháp luật về BVMT một cách đồng bộ;
Nâng cao chất lượng nhân lực: đổi mới, đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ; Phấn đấu đào
tạo và thu hút nhiều chuyên gia giỏi, đầu ngành của các lĩnh vực môi trường bao gồm ở
khối cơ quan quản lý nhà nước về môi trường các cấp và tại các KKT, KCN, CCN và tất
cả các cơ sở sản xuất có phát thải ô nhiễm.
Tăng cường hoạt động quan trắc và thông tin môi trường:
Hoạt động quan trắc môi trường
-

Tiếp tục triển khai các chương trình quan trắc chất lượng môi trường phục vụ cho công
tác quản lý nhà nước; xây dựng và triển khai các chương trình điều tra cơ bản về môi
trường.

-

Tiếp tục triển khai Đề án quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường thành phố đến năm
2025, từng bước xây dựng, hoàn thiện và hiện đại hóa các mạng lưới quan trắc môi
trường địa phương. Hiện đại hóa mạng lưới quan trắc môi trường theo hướng chú trọng


phát triển các trạm quan trắc môi trường tự động, liên tục; ứng dụng công nghệ thông tin

và truyền thông trong truyền dữ liệu trực tuyến.
- Đảm bảo kinh phí quan trắc môi trường hàng năm.
Hoạt động thông tin, báo cáo môi trường
Thực hiện nghiêm túc các điều quy định của Thông tư 08/2010/TT-BTNMT ngày
18/3/2010 của Bộ TN&MT về công tác xây dựng Báo cáo hiện trạng môi trường.
Xây dựng và triển khai đồng bộ hệ thống cơ sở dữ liệu về thông tin, số liệu môi
trường để đáp ứng yêu cầu thực tế về quản lý và BVMT; Tăng cường xây dựng và củng
cố hệ thống Bộ chỉ thị môi trường, Bộ chỉ tiêu thống kê môi trường và ngành tài nguyên
môi trường ở cấp địa phương.
Xem xét tăng mức chi sự nghiệp môi trường, đảm bảo mức chi 1% tổng chi ngân
sách hàng năm của tỉnh nhằm giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách, phù hợp với
chủ trương của Bộ Chính trị đã nêu trong Nghị quyết 41-NQ TW “đạt mức chi không
dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng dần tỷ lệ này theo tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế”;
Thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách nhà nước đúng mục tiêu, có hiệu quả trên
cơ sở sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý.
Xây dựng các cơ chế, chính sách huy động các nguồn vốn cho hoạt động BVMT,
bao gồm các nguồn vốn: ngân sách nhà nước, xã hội, ODA và các nguồn khác như kinh
phí từ cấp phép và phí sử dụng tài nguyên.
Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực TN&MT; thực hiện chính
sách khuyến khích xã hội hóa nhiệm vụ BVMT.
Huy động nhiều nguồn vốn khác đầu tư cho các nhiệm vụ BVMT như: xây dựng
cơ bản, đầu tư phát triển, các hoạt động sự nghiệp khác.
Nâng cao nhận thức cộng đồng và vấn đề xã hội hóa công tác BVMT:
Tăng cường nâng cao nhận thức cho các nhà quản lý từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở về
tác động, ảnh hưởng và thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, tầm quan trọng của công
tác BVMT trong quá trình phát triển, phương pháp lồng ghép BVMT trong phát triển KTXH. Huy động sự tham gia của cả hệ thống cơ quan quản lý môi trường các cấp trong các
hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các quy định, cơ chế chính sách về bảo vệ môi



trường tới các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, từng bước thay đổi từ nhận thức đến hành
động tự giác trong công tác bảo vệ môi trường;
Mở rộng và tăng cường các hình thức tuyên truyền, cung cấp, công khai các thông
tin, số liệu về tình hình ô nhiễm môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban tuyên giáo Thành uỷ trong công tác tuyên truyền, đưa
các nội dung bảo vệ môi trường vào tài liệu sinh hoạt chi bộ. Triển khai các chương trình
phối hợp bảo vệ môi trường với các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể của tỉnh để tuyên
truyền sâu rộng tới các cấp Hội cơ sở. Tiếp tục triển khai các hoạt động, sự kiện như:
Chương trình hạn chế sử dụng túi nylon, các hoạt động hưởng ứng Giờ Trái đất, ngày
môi trường thế giới, ngày đa dạng sinh học, ngày làm cho Thế giới sạch hơn…;
Xây dựng chính sách huy động cộng đồng tham gia công tác quản lý môi trường;
giám sát thực thi pháp luật về BVMT; Xây dựng các quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ của cộng đồng; Xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính sự nghiệp và
thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các cơ sở nhà nước và tư nhân khi
tham gia BVMT;
Tăng cường vai trò của cộng đồng trong việc giám sát thực hiện các chủ trương,
chính sách và pháp luật về BVMT ở địa phương, ở các cơ sở sản xuất. Cộng đồng trực
tiếp tham gia giải quyết xung đột môi trường; Xây dựng các mô hình tự chủ, tự quản về
BVMT; Khuyến khích, mở rộng các phong trào tình nguyện tham gia trong công tác
BVMT. Công bố công khai những tổ chức, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng và hình thức xử lý tạo sức ép của dư luận đối với các hành vi vi phạm về môi
trường;
Đề cao vai trò của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội trong tỉnh trong công tác
BVMT. Đồng thời, phát huy mạnh vai trò của các cơ quan thông tấn báo chí, kết hợp hợp
lý truyền thông trực tiếp và truyền thông đại chúng theo hướng sáng tạo về cách tiếp cận
đối tượng, sáng tạo về cách triển khai và huy động được sự cùng tham gia của các bên
liên quan.
Theo bài báo nghiên cứu tại Châu Âu (Ammonia emission in Europe part II) đã được tìm
thấy rằng giảm 50% lượng khí thải amoniac dẫn đến giảm 24% tổng nồng độ PM2,5 ở
tây bắc châu Âu. Hơn nữa, giảm phát thải trong mùa đông có tác động lớn hơn so với

phần còn lại của năm. Điều này dẫn đến kết luận rằng việc giảm lượng khí thải amoniac


từ ngành nông nghiệp liên quan đến chăn nuôi có thể hiệu quả hơn so với việc giảm từ
các ngành khác do tỷ lệ phát thải amoniac mùa đông lớn hơn.
Chúng ta có thể học hỏi Trung Quốc trong việc giảm thiểu lượng bụi mịn khi họ có
những giải pháp làm giảm lượng bụi mịn đáng kể như:
Từ năm 2017, chính phủ Trung Quốc cho biết khoảng 4 triệu hộ gia đình ở vùng phía bắc
đã chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên. Chính sách này buộc các hộ gia đình thay thế
các nguồn nhiên liệu rắn ô nhiễm như than, gỗ hoặc lõi ngô bằng các nguồn năng lượng
sạch hơn như điện hay khí đốt tự nhiên. Đây được coi là một trong những chiến lược lâu
dài chống ô nhiễm của chính phủ Trung Quốc.
Nỗ lực thay thế than đá của chính phủ Trung Quốc ban đầu vấp phải sự phản đối, nhưng
người dân vùng nông thôn dần nhận ra lợi ích của nó, đặc biệt là chất lượng không khí
được cải thiện đáng kể.
Lauri Myllyvirta, phụ trách Nhóm Chống ô nhiễm Không khí Toàn cầu của tổ chức Hòa
Bình Xanh, nhận định cách tiếp cận này đã mang lại hiệu quả đáng kể, góp phần lớn vào
việc giảm ô nhiễm không khí tại Bắc Kinh trong mùa đông 2017. "Chỉ số chất lượng
không khí của Bắc Kinh thời kỳ này đã cải thiện vượt mức mong đợi", Myllyvirta nhận
xét.
Nỗ lực này đạt thành tựu đáng kể khi Bắc Kinh sắp thoát khỏi danh sách 200 thành phố ô
nhiễm nhất thế giới, theo đánh giá hôm 13/9 của Tổ chức giám sát chất lượng không khí
AirVisual có trụ sở tại Thụy Điển.
AirVisual đánh giá Bắc Kinh "đang đi đúng hướng" trong việc giảm bụi mịn PM 2.5, loại
hạt nhỏ gây ô nhiễm không khí và nguy hại với sức khỏe con người, có thể gây các bệnh
đường hô hấp, ung thư phổi và tim mạch.
So với một thập kỷ trước, sự khác biệt thậm chí còn rõ rệt hơn. Nồng độ PM 2.5 trong 8
tháng đầu năm 2019 chưa bằng một nửa so với cùng kỳ năm 2009, báo cáo của AirVisual
cho hay. Tuy nhiên, nồng độ hiện tại vẫn cao gấp 4 lần so với mức được Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) khuyến nghị. Bắc Kinh đứng thứ 122 trong số các thành phố ô nhiễm nhất

thế giới năm 2018.


Để làm được điều này, Trung Quốc đã công bố kế hoạch hành động quốc gia về chất
lượng không khí, yêu cầu mọi khu vực đô thị phải giảm nồng độ ô nhiễm bụi mịn ít nhất
10%, một số thành phố bị yêu cầu cao hơn. Để đạt chỉ tiêu giảm ô nhiễm 25%, Bắc Kinh
đã chi 120 tỷ USD cho nỗ lực này.
Trung Quốc đã đóng cửa gần 2.500 nhà máy, từ chối gần 20.000 đơn xin thành lập nhà
máy mới. Chính quyền cũng tuyên bố sẽ đóng cửa khoảng 1.000 nhà máy nữa tại Bắc
Kinh tới năm 2020 trong kế hoạch giảm ô nhiễm không khí. Khu vực Bắc Kinh - Thiên
Tân - Hà Bắc, vốn là nơi ô nhiễm nghiêm trọng, được xác định là trọng điểm trong cuộc
chiến chống ô nhiễm.
Chính quyền sẽ cải thiện mạng lưới giao thông ở Hà Bắc, tăng cường các tiêu chuẩn phúc
lợi và giáo dục ở khu vực này để thu hút nhà đầu tư chuyển tới đây. Các công ty chuyển
từ Bắc Kinh sang Hà Bắc được khuyến khích đầu tư vào công nghệ chất lượng cao hơn,
thân thiện với môi trường hơn.
Trung Quốc cũng cấm xây dựng các nhà máy nhiệt điện mới tại các khu vực ô nhiễm
nặng nhất, bao gồm Bắc Kinh, trong khi những nhà máy đang hoạt động bị yêu cầu giảm
lượng khí thải. Những thành phố lớn, bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu, bị
hạn chế số lượng ôtô lưu thông trên đường. Trung Quốc cũng giảm công suất thép và
đóng cửa nhiều mỏ than.
Bắc Kinh từ tháng 11/2008 bắt đầu chính sách cấm xe theo biển số vào khu vực Vành đai
5 mỗi ngày. Chẳng hạn như xe có biển số kết thúc bằng 1 và 6 bị hạn chế vào thứ hai, 2
và 7 vào thứ ba... Người vi phạm phải nộp phạt 200 nhân dân tệ (28 USD) và bị bấm ba
lỗ trên bằng lái. Nếu bị bấm quá 12 lỗ trong một năm, lái xe sẽ bị thu hồi giấy phép, phải
đi học lại và xin giấy phép mới.
Tongfei, một người dân Bắc Kinh, cho hay thời gian đầu cấm xe theo biển số, người dân
cảm thấy rất khó thích nghi. "Nhiều người sử dụng ôtô hiếm khi dùng phương tiện công
cộng và sau đó, họ nhận ra mỗi tuần mình phải dùng một lần. Tôi không được phép lái xe
ra đường vào thứ hai nên giờ tôi đã học cách dùng xe buýt và tàu điện ngầm, cũng không

quá khó", Tongfei nói.


Lệnh cấm cũng áp dụng với phương tiện đăng ký ngoài Bắc Kinh. Xe biển ngoại tỉnh
không được lưu thông ở Bắc Kinh quá 7 ngày liên tục. Sau 7 ngày, xe phải rời khỏi thủ
đô và xin giấy phép khác với mức phí 50 nhân dân tệ (7 USD).
Bắc Kinh cũng đang đẩy nhanh tiến độ thay thế 70.000 taxi thông thường sang taxi chạy
điện. Đến cuối năm 2020, thành phố dự kiến có 20.000 taxi điện, với khả năng chạy liên
tục 300 km và chỉ mất ba phút mỗi lần sạc. Bắc Kinh đến nay đã thiết lập 100 trạm sạc và
sẽ mở thêm 190 trạm nữa tới cuối năm 2020.
Những nỗ lực này tỏ ra có hiệu quả. Nồng độ bụi mịn của Bắc Kinh giảm 35%, Thạch
Gia Trang, thủ phủ tỉnh Hà Bắc, giảm 39%, Bảo Định, thành phố ô nhiễm nhất Trung
Quốc năm 2015, giảm 38%, giúp tuổi thọ của người dân trong khu vực tăng trung bình 35 năm.


Kết luận
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới trong thời gian qua
đã có những tác động lớn đến môi trường, đã làm cho môi trường sống của con người
bị thay đổi và ngày càng tồi tệ hơn. Những năm gần đây nhân loại đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề xuất phát từ ô nhiễm môi trường không khí: sự nóng lên toàn cầu,
suy giảm tầng ozon, mưa axit…
Ở Việt Nam ô nhiễm môi trường không khí đang ở mức báo động, đặc biệt tại đô thị
lớn như Hà Nôi, Thành phố Hồ Chí Minh… đang là mối quan tâm của các cơ quan
nhà nước cũng như trong cộng đồng. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp chưa có hệ
thống xử lý ô nhiễm không khí hoặc có nhưng hoạt động không hiệu quả mang tính
đối phó. Bên cạnh hoạt động công nghiệp mang tính nhỏ lẻ, lạc hậu thì ngành nông
nghiệp cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát sinh ra bụi mịn từ hoạt
động đốt rơm rạ,…
Như vậy, ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường không khí nói riêng
đang là vấn đề cấp thiết không chỉ la của một hay hai quốc gia mà cần có sự chung tay

giúp sức của toàn nhân loại. Hiện nay có rất nhiều dự án đã và đang thực hiện để bảo
vệ môi trường nhưng vẫn chưa đủ để cứu “Mẹ” Trái đất, vì vậy chúng ta cần có những
hành động kế hoạch lớn hơn và mạnh hơn nữa để bảo vệ môi trường sống.


×