Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn Triết học: Nhân tố con người trong sự phát triển LLSX và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao Huỳnh Phạm Phúc Nhung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.71 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HÓA

TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI:

NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN LLSX
VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO

Học viên
:
Lớp
:
Môn
:
Người hướng dẫn:

Huỳnh Phạm Phúc Nhung
Hóa Vô Cơ K21
Triết Học
TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Quy Nhơn, Tháng 12 năm 2018


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài ............................................................................................


II. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................
NỘI DUNG
I. Khái niệm LLSX và vai trò nhân tố con người trong LLSX............................
1. Khái niệm LLSX ............................................................................................
1.1. Định nghĩa và tính chất LLSX ....................................................................
1.2. Cấu trúc LLSX.............................................................................................
1.3. Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại..........................................................
2. Vai trò của con người trong LLSX..................................................................
2.1. Khái niệm con người ...................................................................................
2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định LLSX ..........................
II. Chiến lược phát triển GD – ĐT nguồn nhân lực theo hướng chất lượng cao
1. Tính tất yếu khách quan và nội dung CNH, HĐH của Việt Nam ...................
1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải CNH, HĐH ......................................
1.2. Nội dung CNH, HĐH nước ta .....................................................................
2. Chiến lược phát triển GD – ĐT nguồn nhân lực nước ta ................................
2.1. Khái niệm nguồn nhân lực ..........................................................................
2.2. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta ..............................................
2.3. Quan điểm của Đảng về phát triển GD – ĐT nguồn nhân lực .....................
2.4. Mục tiêu và phương hướng phát triển GDĐT nguồn nhân lực nước ta........
KẾT LUẬN .......................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................

1


LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất
đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi

khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH đất nước với những mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn
nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có
tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước
ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu
vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có
tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể
sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân
và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn
nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ
của GDĐT là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và
những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện sự nghiệp CNH,
HĐH trong thời kỳ quá độ của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói
chung trên thế giới.
II. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Triết học Mác – Lênin
kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp lôgic
và lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp đối chiếu – so sánh.

1


NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM LLSX VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG LLSX
1. Khái niệm LLSX
1.1. Định nghĩa và tính chất LLSX
LLSX là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật đựơc sử dụng trong các quá
trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người cải tạo, cải biến giới tự

nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ thuật
nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu
hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện
sản xuất xã hội con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của
mình sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực
lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên
của con người. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá
trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư liệu
sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được
năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất
mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là
yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình
độ tin học hoá được tự động hoá thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi
thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự
chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến đổi
sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển công cụ lao động là thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Có thể coi yếu tố quan trọng nhất
trong lực lượng sản xuất chính là con người. Trong thời đại ngày nay khoa học đã
phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong
sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành
sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đem lại
thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.
Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm LLSX, nó phản ánh một số tính
chất căn bản sau:
Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài, con người là sản
phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con ngưòi phải tìm

1


kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn,
thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học khẳng định nhánh người bắt đầu
hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu năm bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó vượn
người đã biết sử dụng gậy gộc, đá, xương động vật làm công cụ và bắt đàu biết chế
tạo công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của loài vượn vẫn
theo quy luật sinh vật : sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh sống hoàn toàn tuỳ theo
bản năng vốn có trong cơ thể và những thứ sẵn có trong tự nhiên, có thể nói là hoàn
toàn phụ thuộc vào tự nhiên.Theo thời gian vượn người tiến hoá thành người khéo,
người đứng thẳng, người khôn và con người hiện đại ngày nay. Nhưng sự tiến hoá
ấy không làm thay đổi mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên. Ngày
nay, con người vẫn đang chinh phục tự nhiên bằng nhiều hình thức và phương pháp
khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ sơ khai nhất, con người đã biết dựa vào những
thứ vốn có trong tự nhiên để cải biến nó theo nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu
sống của mình. Do đó ta thấy rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không
thể tồn tại nếu không có mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên.
Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người cụ
thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết sức
thô sơ, hầu hết là những công cụ thủ công vào quá trình lao động sản xuất. Do đó
năng suất lao động thấp kém, con người chưa tạo ra nhiều của cải dư thừa có khả
năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú của
mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn còn non thấp kém. Cho
đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, con người đã dần
sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ hơn song về bản chất nó vẫn mang tính thủ
công. Do vậy, mặc dù sản phẩm lao động làm ra ngày một phong phú hơn song
trong quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể lực là chính,
cần nhiều thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa

dạng của con người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, con người đã tạo ra hàng loạt
những máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản xuất, khai
thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành những vật dụng và sản phẩm có giá
trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Đặc
biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ XVII suốt cho đến ngày
nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Theo đánh giá
của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ sau hơn hai thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo
ra một khối kượng của cải vật chất nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như
thế trình độ chinh phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh
1


dấu một bước phát triển cao của tiến bộ loài người. Cũng chính trong giai đoạn này
con người đã dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, LLSX có tính khách quan trong quá trình sản xuất. Thật vậy
không có một quá trình sản xuất nào mà lại không cần đến sức lao động của con
người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói cách khác trong quá trình sản
xuất vật chất không thể không cần đến LLSX.
1.2. Cấu trúc LLSX
LLSX bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người
vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công
cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của LLSX biểu hiện ở hai mặt :
 Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao động trí óc đông
đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động.
 Những nhân tố mới thúc đẩy LLSX sẽ được phát triển rộng khắp.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con người

không thể SXVC mà không cần đến những yếu tố sẵn có trong tự nhiên như đất,
nước, khoáng sản, không khí, … Đó chính là những đối tượng lao động. Đặc trưng
nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu hiện chủ yếu ở sự gia tăng
hàm lượng khoa học và công nghệ, cuối cùng là hàm lượng tri thức được kết tinh
trong sản phẩm ngày càng nhiều.
Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con người
sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua
các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động và đây cũng chính là ranh
giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động vật nói riêng.
1.3. Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại
Trong sự phát triển của LLSX, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất
phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực
tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành LLSX trực
tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời những
ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới nguyên vật liệu
mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, cụ
1


thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu
được trong sản xuất đã làm cho LLSX có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn
là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như vậy, dù không phải
là yếu tố thứ ba của LLSX nhưng có thể nói khoa học và công nghệ hiện đại là đặc
trưng cho LLSX hiện đại.
2. Vai trò của con người trong LLSX
2.1. Khái niệm con người

Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời cổ
đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mac-Lênin về con người và bản
chất con người, xuất phát từ giác độ khái quát nhất, đứng trên lập trường duy vật
biên chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn đề khác của
con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của
thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên.Con người không thể tồn
tại mà thoát ly khỏi quá trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi. Trải qua
hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó được chứng
minh trong các công trình nghiên cứu của Đacuyn. Những thuộc tính, những đặc
điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản
chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con
người . Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt
xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư
duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản
chất xã hội của con người đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng
xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời
sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã
hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống

1



con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm,
nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt
trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên- xã hội hay một thực thể
song trùng.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề nổi
tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan hệ giữa
con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy đến cùng đều
mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người với con người là quan
hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác. Thực tế lịch sử đã chứng minh
không có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân cũng như
không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để SXVC mà phải liên kết lại với
nhau, phân công lao động và trao đổi sản phẩm cho nhau. Từ đó hình thành các
quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất của mình. Trong
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người
sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hoàn thiện bản thân mình.
Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch sử trong
những hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh và điều kiện sẵn
có do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới mối quan hệ hai chiều giữa hiện
tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con người. Thông qua môi trường
sống con người có sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện các quan hệ xã hội tạo nên
bản chất người, làm cho con người khác với con vật.
2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định LLSX
Trong các yếu tố của LLSX, “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân là người lao động”. Con người là nhân vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu,

vừa là động lực để phát triển xã hội. nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo
ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản
thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy.
Trên phương diện đó vai trò nhân tố con người lao động trong LLSX là yếu tố động
nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người chính là
sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Không có người lao động nào trong quá
1


trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể lực hay lao động cơ bắp.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ
lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với
quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người không
ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người ngày càng phát triển. Trong
quá trình đó không những con người sử dụng trí tuệ nội tại của mình mà còn được
kế thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động cho
nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một LLSX. Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở
thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, công
nghệ.
Vai trò con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn
của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia….Con người phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của
CNXH.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động . Chỉ có nhân
tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất làm cho sản xuất ngày
càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản xuất và các
quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay tốt, phụ thuộc

trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối tượng lao động nói
riêng, chỉ là những vật vô tri vô giác mà thôi. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở thành sản
phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy tất yếu người lao động phải tác
động vào tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế quá trình SXVC không thể
thoát ly khỏi lao động của con người. Trong thời đại mới, nhân tố con người có tri
thức ngày càng đóng vai trò quyết định hơn trong LLSX. Có thể khẳng định rằng
nhân tố con người đóng vai trò quyết định quá trình lao động sản xuất ra của cải vật
chất.
II. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GD - ĐT NGUỒN NHÂN LỰC THEO
HƯỚNG CHẤT LƯỢNG CAO
1. Tính tất yếu khách quan và nội dung CNH, HĐH của Việt Nam
1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải CNH, HĐH
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở VCKT tương
ứng với nó. Cơ sở VCKT của CNXH là một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước hết
là công nghiệp nặng có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho công nghiệp và
1


các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển nền sản
xuất lớn xá hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế, dịch
vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động là chính sang trạng thái sử dụng
sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo ra năng suất lao động ngày
càng cao.
CNH, HĐH là một tính quy luật để xây dựng cơ sở VCKT cho CNXH. Cơ sở
VCKT của một phương thức sản xuất là toàn bộ những tư liệu vật chất trong đó chủ
yếu là công cụ sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở VCKT của
phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công cụ lao động
thủ công. Trong chủ nghĩa tư bản nền đại công nghiệp cơ khí hoá đã tạo cái cốt cho
chủ nghĩa tư bản tồn tại. Nó tự khẳng định mình là một phương thức sản xuất thống

trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên CHXH bỏ qua giai đoạn tư bản thiếu một tiền
đề VCKT mà chủ nghĩa tư bản để lại. Mặt khác Việt Nam là một nước có nền kinh
tế kém phát triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng công nghiệp lớn. Do
đó để xây dựng CNXH tất yếu nước ta phải CNH, HĐH.
Gắn CNH với HĐH làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới trình độ tiên tiến của
thế giới. Thời đại ngày nay cách mạng khoa học công nghệ là một đặc trưng, khoa
học công nghệ trở thành LLSX trực tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động lực của quá
trình CNH. Đồng thời gắn CNH với HĐH sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa về kinh
tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát
triển.
Hơn nữa CNH là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là :
 Thúc đẩy LLSX phát triển cao dẫn đến năng suất lao động cũng cao.
 Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hoàn toàn trong công
cuộc xây dựng CNXH nước ta.
 Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân sự nghiệp
xây dựng cơ sở VCKT đòi hỏi quần chúng phải có trình độ giác nhộ cách mạng,
trình độ văn hoá, trình độ khoa học ngày càng cao.
 Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
 Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền công nghiệp hiện
đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an toàn lương thực.
 Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc và CNXH
được bảo vệ vững chắc.
1.2. Nội dung CNH, HĐH nước ta

1


Thực chất CNH, HĐH là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ công sang lao
động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế
quốc dân. Không tiến hành cách mạng kỹ thuật thì không thể biến một nước nông

nghiệp lạc hậu thành một nước có nền sản xuất lớn. Nó sẽ làm thay đổi đến tận gốc
rễ LLSX của xã hội . Trước tiên phải làm biến đổi công cụ lao động - thước đo trình
độ chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại với nhau.
Muốn vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ
hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu nữa, đó là ta phải phát huy được
lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại của nước
bạn thông qua việc chuyển giao công nghệ. Việc đó được tiến hành từ các nước
khác chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao gồm cả phần
cứng tức máy móc thiết bị và phần mềm tức phương pháp và công nghệ. Nhờ đó
cho phép ta khai thác được các nguồn lực trong nước và khắc phục được nguy cơ tụt
hậu kinh tế cũng như thúc đẩy nền sản xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc
tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế là tổng
thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan trọng được cân
đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và xu hướng phân công
hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp với các quy luật khách quan
và xu thế phát triển của khoa học công nghệ đồng thời phát huy được lợi thế so sánh
trong nước. Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn
liền với phân công lại lao động xã hội theo một tính quy luật. Trong đó tỉ trọng lao
động trong ngành công nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm còn dịch vụ tăng lên.
Tuy nhiên phải luôn luôn đảm bảo tỉ trọng hợp lý giữa chúng một cách tương đối so
với nhau. Mặt khác tỉ trọng lao động giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động
phức tạp tăng lên.
2. Chiến lược phát triển GD - ĐT nguồn nhân lực nước ta
2.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực như: tài nguyên
thiên nhiên, vốn, khoa học – công nghệ, con người… Trong các nguồn lực đó thì
con người hay NNL là quan trọng nhất và có tính chất quyết định. Thực tế lịch sử
phát triển của mọi quốc gia trên thế giới từ trước đến nay đã chứng tỏ rằng, một
nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng

không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó,
thì khó có khả năng đạt được sự phát triển như mong muốn.

1


Vậy nguồn nhân lực là gì? Để trả lời câu hỏi đó, hiện nay có nhiều quan
điểm khác nhau. Theo Liên Hợp Quốc: nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước . Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn
bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.
Như vậy, theo quan niệm này, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn
bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbush thì NNL được hiểu là toàn
bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được, nó được đánh giá cao vì tiềm
năng đem lại thu nhập trong tương lai. Các tác giả này cho rằng kiến thức mà con
người tích lũy được trong quá trình LĐ SX là mấu chốt vì chính kiến thức đó giúp
họ tạo ra của cải, tài sản cho cuộc sống hiện tại và tương lai của chính họ.
Từ các quan niệm trên có thể thấy rằng, nguồn nhân lực được hiểu theo hai
nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức LĐ cho sản xuất xã
hội, cung cấp nguồn lực cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ
dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp: nguồn nhân lực là khả năng
LĐ của XH, là nguồn lực cho sự phát triển KT – XH, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi LĐ, có khả năng tham gia vào LĐ, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí
lực và kỹ năng nghề nghiệp của họ được huy động vào quá trình LĐ.
Như vậy, có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại
trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền
thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận
dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và
tương lai của đất nước. NNL không chỉ bao hàm những người trong độ tuổi lao

động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà còn chứa đựng các hàm ý
rộng hơn, gồm toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả
năng đem lại thu nhập trong tương lai. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con
người được coi là phương tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế
bền vững
Đối với một quốc gia, nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh
tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật
chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và
khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là
số lượng và chất lượng con người cơ sở đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã
hội. NNL là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay không
thành công trong phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia.
1


Đối với một tổ chức, nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực, là yếu
tố cơ bản cấu thành nên tổ chức, là điều kiện cho tổ chức tồn tại và phát triển. Vì
vậy một tổ chức được đánh giá mạnh hay yếu, phát triển hay tụt hậu phụ thuộc phần
lớn vào chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức đó. Đối với một doanh nghiệp, NNL
là toàn bộ khả năng lao động mà doanh nghiệp cần và huy động được cho việc thực
hiện, hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Khi xem xét đánh giá NNL
của một tổ chức, thì ngoài việc căn cứ vào quy mô hay số lượng, cơ cấu, thì một
tiêu chí không thể bỏ qua đó là chất lượng nguồn nhân lực.
2.2. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
khoa học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định
nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực
con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại
nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Về số lượng nguồn lao động: Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi

dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, nước ta có trên 49,2
triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 85,79 triệu người (chiếm 57,3%),
đứng thứ 3 ở Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin) và đứng thứ 13 trên
thế giới về quy mô dân số. Số người trong độ tuổi từ 20 đến 39 khoảng 30 triệu
người, chiếm 35% tổng dân số và chiếm 61% lực lượng lao động, đây là lực lượng
có thể tham gia xuất khẩu lao động. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội, là tiềm năng nguồn
nhân lực Việt Nam, là yếu tố rất thuận cho việc tuyển chọn lao đông đi làm việc ở
nước ngoài.
Về chất lượng nguồn lao động: Trong tổng số 49,2 triệu người trong độ tuổi
lao động, chỉ có 7,3 triệu người đã được đào tạo, chiếm 14,9% lực lượng lao động.
Trong số những người đang theo học ở các trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì
tỷ lệ người đang theo học trình độ sơ cấp là 1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5%
và Đại học trở lên là 53,3%. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo ở nước ta rất thấp, cụ
thể là 86,7% dân số trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật,
đáng chú ý hơn là khu vực nông thôn, nơi phần lớn người lao động có nguyện vọng
đi làm việc ở nước ngoài thì tỷ lệ lao động chưa được đào tạo chiếm 92%. Như vậy,
đội ngũ lao động của ta trẻ và dồi dào nhưng chưa được trang bị chuyên môn, kỹ
thuật. Hiện cả nước có hơn 41,8 triệu lao động, chiếm 85,1% lực lượng lao động
chưa được đào tạo để đạt một trình trình độ chuyên môn, kỹ thuật nào đó.
Về đặc trưng vùng, miền của người lao động tham gia xuất khẩu lao động:
Theo số liệu thống kê cho thấy số lượng lao động tham gia đi xuất khẩu lao động
1


của các tỉnh, thành phố khu vực niềm Bắc và miền Trung chiếm 95%, số lao động
này chủ yếu sống ở nông thôn, trung du và miền núi. Đây là lực lượng lao động “4
không” - không nghề, không ngoại ngữ, không tác phong công nghiệp và không có
kinh tế.
Các lĩnh vực khoc học khác nhau có thể hiểu nguồn lực theo những cách
khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân

tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau tạo nên sự phát triển
của một sự vật, hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là
những yếu tố có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy nền kinh tế đất nước và sự phát
triển xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là nói tới con người với tư
cách là chủ thể của quá trình sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Tỷ trọng (%) các khối kinh tế trong GDP
Ngành
Năm

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

1998
25,75
33,35
41
2010
17
40
43
Nguồn : Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, trang 7
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng nguồn nhân
lực. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực trạng đó ở nước ta như sau:


Cơ cấu ngành còn bất hợp lý.




Cơ cấu vùng miền chưa hợp lý. Bình quân chung nước ta là 118 sinh
viên/ 1 vạn dân, nhưng Tây Bắc là17 sinh viên/ 1 vạn dân.

 Hình thức đào tạo: - Chính quy : 509637
- Chuyên tu, tại chức: 235975
 Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến giáo viên phải làm việc “chạy xô”.
 Trong dạy nghề có 157 trường dạy nghề, hơn 190 trường đại học nhưng đầu
tư kinh tế còn nhỏ.
Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học - trang 159
Như thế nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố của tri
thức.
2.3. Quan điểm của Đảng về phát triển GDĐT nguồn nhân lực
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định : “Con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH cần
tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về GDĐT….Đào tạo lớp người lao động có kiến

1


thức cơ bản làm chủ kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm
với cái mới có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công
nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà
quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực phát
huy, mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước. ”
Đại hội XII của Đảng xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo;
phát triển nguồn nhân lực là một trong mười ba định hướng phát triển lớn để hiện

thực hoá mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nội dung quan điểm của Đại hội là bước phát triển mới trong
tư duy lý luận của Đảng ta về giáo dục và đào tạo.
Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát
triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã
hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”. Đây là quan điểm định hướng cho
phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta trong những năm tới. Quan điểm chỉ đạo
này là kết quả của thành tựu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới
lĩnh vực giáo dục vào đào tạo trong công cuộc đổi mới đất nước. Nội dung quan
điểm thể hiện sự nhận thức đúng đắn và nhất quán của Đảng ta trong quá trình đổi
mới về vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo. Điểm mới trong nội
dung quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho phát triển giáo dục và đào tạo
là lấy phát triển, hoàn thiện con người làm mục tiêu, động lực; xây dựng một nền
giáo dục hiện đại, thực học, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước.
Đại hội XII đề ra mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo là: “ Phấn đấu trong
những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và nhu
cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu tổ
quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Đây là mục tiêu tổng quát
của sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nước nhà trong những năm tới. Mục
tiêu này hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn đáp ứng nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế.
1



Đại hội XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố
cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực
của người học”. Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Nghị quyết Trung
ương 8, khoá XI. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những
vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương
trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo
dục. Đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, ở cả Trung ương và địa
phương, ở cả mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đổi mới để tạo ra
chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhu cầu học tập của toàn dân.
Đổi mới phải đảm bảo tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng
bộ, khả thi, có cơ sở khoa học; vừa củng cố, phát huy các thành tựu và điển hình đổi
mới, vừa kiên quyết xử lý những lệch lạc, những việc làm trái quy luật; khắc phục
cơ bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc; phát triển, nhân rộng các nhân tố
tích cực và những mô hình, điển hình mới. Đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ
trình phù hợp với thực tiễn đất nước, địa phương.
Trong nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cần nắm vững
vấn đề trọng điểm là phải đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh
giảm, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đổi mới chương
trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hoà đức, trí, thể, mỹ;
dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giảm,
hiện đại, thiết thực phù hợp với lứa tuổi trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri
thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá,
truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân
văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể
chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dậy ngoại ngữ và tin học
theo hướng chuẩn hoá, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học.
Đổi mới phương pháp theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,

sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục nối truyền thụ áp
đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích
tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng,
chú trọng các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy và học.

1


Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ”.
Đây là một cách tiếp cận mới về nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo. Trong Văn kiện
Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục, đào tạo phải gắn với phát triển nguồn nhân lực. Bởi lẽ phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là đột phá chiến lược , là yếu tố quyết
định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm bảo cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Nội dung quan điểm này được thể hiện xuyên suốt
trong các Văn kiện Đại hội XII và được xác định là một nội dung trong 6 nhiệm vụ
trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội. Đó là việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột
phá chiến lược là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010 ) là : “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta
trên trường quốc tế được nâng cao”.
Để thực hiện mục tiêu đó trong 10 năm tới cần :
Phát triển giáo dục mần non. Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước phần lớn
thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn đang được học hết
trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp và được đào tạo nghề. Điều chỉnh cơ
cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng, cơ cấu dân tộc…trong hệ thống
GDĐT phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội và các
mục tiêu của chiến lược. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường
phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo
nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học sau đại học tập
trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia ngang tầm khu
vực tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường cuyên và giáo dục từ xa.

1


Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương
trình và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu mới của sự nghiệp páht triển
giáo dục trong thế kỷ XXI.
2.4. Mục tiêu và phương hướng phát triển GDĐT nguồn nhân lực nước ta
Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây
 Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ mệnh
CNH, HĐH. Con người cần có tác phong công nghiệp.
 Con người có sức khoẻ cường tráng.
 Có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại,
sống nhân ái, tình nghĩa.
 Có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại và kĩ năng lao động lành nghề.
 Có tinh thần công dân sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện đúng quyền

lợi và nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra ta cần chú ý đến sự công bằng trong giáo dục, chú ý đến vai trò của
người thầy.
Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá - trang 260
Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp hoàn cảnh riêng của nước ta,
vừa thống nhất chung với văn hoá và văn minh nhân loại. UNESCO đưa ra “ Bốn
trụ cột của giáo dục” thế kỉ XXI :
 Học để biết.
 Học để làm. Chú ý tới học đi đôi với hành.
 Học cùng chung sống, học cách sống với người khác.
 Học để tự khẳng định mình.
Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài – trang 193
Toàn bộ hệ thống GDĐT, từ tiểu học đến đại học, phải tập trung phục vụ mục
tiêu này, làm cho tinh thần hướng nghiệp cùng với hướng học đi vào từ giờ học ,
từng học sinh như cha ông ta đã từng dậy “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, chấm
dứt động cơ đi học vì mảnh bằng “Hư văn” (Phạm Văn Đồng). Các môn học, cả
khoa học xã hội - nhân văn lẫn khoa học tự nhiên, đều phải dạy theo tinh thần kỹ
thuật tổng hợp, gắn bó các nội dung khoa học. Thời đại ngày nay là thời đại lao
động ngày càng căng thẳng đòi hỏi trí tuệ cao và có ý thức trong công việc. Do đó,
phát triển giáo dục con người trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

1


Nhân tài nói chung và nhân tài trong quản lý nói riêng không phải tự nhiên
mà có mà nhân tài chính là sản phẩm của một quá trình đào tạo rèn luyện và tự rèn
luyện rất lâu dài và công phu. Cần nhận dạng nhân tài bằng hình thức thi cử và đặt
ra nhiều tiêu chí.
Để nhân tài có thể phát triển được thì phải có điều kiện: Thứ nhất nhân tài

trước hết phải được đào tạo rất cẩn thận, tu dưỡng, rèn luyện, tự tích luỹ kinh
nghiệm và kiến thức trong một môi trường thuận lợi thúc đẩy con người luôn sáng
tạo và hành động. Thứ hai, phải có các nguồn lực và dành cho mỗi người một khả
năng lựa chọn và huy động tổ chức các nguồn lực thực hiện có hiệu quả mục đích
đã đề ra. Tóm lại, điều kiện nảy sinh và phát triển nhân tài là phải có một nền giáo
dục tiên tiến có sự kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố nhà trường - gia đình - xã hội
cùng quan tâm đến thế hệ trẻ và giáo dục.
Ngoài việc bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đưa
đi làm việc ở nước ngoài theo quy định thì đào tạo nghề, ngoại ngữ, huấn luyện tác
phong lao động công nghiệp cho người lao động có tầm quan trọng ngày càng tăng
đối với việc duy trì, phát triển và tạo khả năng cạnh tranh cho lao động Việt Nam
trên thị trường lao động quốc tế. Trong khi nguồn nhân lực của nước ta chủ yếu là
lao động giản đơn, thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho xuất khẩu
lao động dẫn đến kìm hãm sự ổn kịnh và phát triển thị trường của lao động ngoài.
Các doanh nghiệp XKLĐ đã và đang gặp phải những khó khăn trong việc tuyển
dụng lao động có nghề có sẵn trên thị trường lao động trong nước để đáp ứng nhu
cầu ngày cào lớn của đối tác nước ngoài. Vấn đề này cần phải được giải quyết
nhanh chóng. Trong bối cảnh nguồn lực của nhà nước đầu tư cho phát triển, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực còn hạn hẹp, chưa hiệu quả, nội dung, chương trình
đào tạo còn nặng về lý thuyết, xem nhẹ thực hành kỹ năng nghề cho người lao động
thì ngành XKLĐ đã và đang chủ động áp dụng một số giải pháp sau:
Một là, Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo nghề và ngoại ngữ phù hợp
với yêu cầu về kỹ năng nghề, ngoại ngữ của của đối tác nước ngoài. Nội dung đào
tạo tập trung huấn luyện kỹ năng nghề cho người lao động và an toàn vệ sinh lao
động nhằm ngăn ngừa tai nạn xảy ra trong quá trình tác nghiệp. Hướng dẫn cơ sở
đào tạo căn cứ đặc điểm thị trường tiếp nhận lao động để rèn luyện tác phong lao
động công nghiệp cho người lao động. Ví dụ: đối với lao động đi tu nghiệp tại Nhật
Bản thì cơ sở đào tạo phải rèn cho người lao động bỏ thói quen ngủ trưa, đi làm việc
đúng giờ, tác nghiệp phải chính xác, tu nghiệp sinh chỉ được thực hiện công việc
khi đã hiểu rõ yêu cầu của người quản lý…


1


Hai là, Thí điểm đặt hàng đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo cơ chế đặt hàng giai đoạn 2008-2010, nội dung chủ yếu của đề án
là nhà nước hỗ trợ 70% chi phí học nghề cho người lao động, doanh nghiệp hoặc
người lao động chịu chi phí 30% còn lại, nếu người lao động đạt trình độ nghề theo
quy định và được đối tác nước ngoài tiếp nhận. Mục tiêu của đề án là khuyến khích
người lao động học nghề trước khi đi làm việc ở nước ngoài nhằm tăng tỷ lệ lao
động có nghề đi làm việc ở nước ngoài, tạo khả năng cạnh tranh và từng bước xây
dựng thương hiệu lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế đối với các
nghề: nghề Hàn trình độ 3G và 6G, các nghề trong ngành xây dựng, điều dưỡng
viên, nhân viên phục vụ khách sạn, nhà hàng. Sau thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá, rút
kinh nghiệm và nhân rộng mô hình.
Ba là, Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
thực hành để chủ động đào tạo nguồn lao động đáp ứng kịp thời yêu cầu về số
lượng và chất lượng lao động của chủ sử dụng lao động ngoài nước.
Bốn là, Nhà nước đầu tư xây dựng số Trung tâm đào tạo lao động xuất khẩu
đặt tại các vùng, miền ...
Năm là, Nhà nước kêu gọi các nước có nhu câu tiếp nhận lao động có nghề
của Việt Nam đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành, giáo trình, tài liệu
giảng dạy và học tập, đào tạo chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy.
Sáu là, Về lâu dài, Nhà nước quy định tiêu chuẩn nghề theo từng thị trường
và kiểm định chất lượng lao động có nghề trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Xây
dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo nghề, ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu
giữa các cơ sở đào, doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thực hiện được sáu biện pháp trên sẽ
thực hiện được giải pháp về đào tạo nhằm tăng tỷ lệ lao động có nghề đi làm việc ở
nước ngoài cũng như tạo tiếng vang trong việc cung ứng nhân sự.


1


KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi
đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển.
Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi liền với
nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta phải coi nhân tố con
người là nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt
nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn
thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ
một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của
chính con người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với
chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và phẩm
chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song không
tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá của
cô để em rút kinh nghiệm trong những bài sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc, nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, 2001.

2. Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb Chính
trị quốc gia, 2002.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb Chính trị
quốc gia, 2001.
4. Ngô Đình Giao (chủ biên), Suy nghĩ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta,
Nxb Chính trị quốc gia, 1996.
5. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, Khoa giáo Trung ương,
Hà Nội, 2000.
6. Dự thảo tầm nhìn Việt Nam 2020, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, 2001.
7. Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, NXB Chính trị quốc gia, 2000.

1



×