Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 qua phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.59 KB, 23 trang )

Tên SKKN: “RÈN KĨ NĂNG NGHE NÓI CHO HỌC SINH LỚP 3 QUA
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN”

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết” Con người tồn tại trong thế giới này có thể thiếu nhiều thứ
nhưng không thể thiếu giao tiếp”, điều đó thể hiện giao tiếp đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Do đó việc rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh tiểu học, nhằm giúp
các em có năng lực dùng Tiếng Việt để học tập , để giao tiếp bằng lời nói trong môi
trường hoạt động lứa tuổi là một trong những mục tiêu của chương trình Tiếng việt
2009 - 1010. Để thực hiện tốt mục tiêu này mỗi phân môn của Tiếng việt có nhiệm
vụ hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng việt trên bình diện lời
nói. tuy nhiên nhiệm vụ này được tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn.
Phân môn tập làm văn tiếp nói một cách tự nhiên các bài học khác nhau của môn
Tiếng Việt từ tập đọc, chính tả, ngữ pháp.. Nhằm giúp học sinh có năng lực tạo lập
và sản sinh ngôn bản. Đồng thời nó rèn luyện kĩ năng nghe nói đọc, viết cho học sinh
đóng vai trò hết sức quan trọng.


Chương trình tập làm văn lớp 3 đã đẩy mạnh phát triển kĩ năng nghe nói thông
qua hệ thống bài tập, chủ yếu là dạng bài: nghe và kể lại câu chuyện; thảo luận
nhóm, tổ chức cuộc họp...
Vậy luyện nghe nói cho học sinh thế nào để hiệu quả? Làm thế nào để định
hướng, hướng dẫn học sinh tự mình khám phá ra chân lí. tự mình tìm ra kiến thức...?
Tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 qua phân
môn tập làm văn”, để hiểu rõ hơn về chướng trình Tập làm văn 3, đồng thời tìm ra
một số biện pháp rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh nhằm phục vụ cho quá trình
chỉ đạo giảng dạy phân môn này.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Nghiên cứu, khảo sát thực trạng dạy học nói chung và dạy học luyện nghe nói
riêng cũng như các ý kiến nhận xét chương trình sách giáo khoa hiện hành là một vấn


đê không hoàn toàn mới lạ. Một số bài viết ở Tạp chí giáo dục. giáo dục tiều học của
Bộ giáo dục và đào tạo đã đề cập đến một số vấn đề về sách giáo khoa Tiểu học
( Chương trình mới)
Trong bài “ Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho
giáo dục ở thời đại mới mới” bài báo viết “ Muốn đào tạo con người khi vào đời là
con người tự chủ năng động thì phương pháp dạy học phải hướng vào việc khơi dậy
rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo
ngay trong lao động và học tập ở nhà trường” hay “ Thầy giáo không còn là người


truyền đạt kiến thức có sãn mà làm người định hướng, hướng dẫn cho học sinh tự
mình khám phá ra chân lí kiên thức mới….
Nguyễn Trí trong cuốn “ Dạy và học Tiếng việt ở Tiểu học theo chương trình
mới” có bàn về vấn đề rèn luyện 4 kĩ năng: nghe, nói , đọc, viết cho học sinh. Tác
giả cho rằng việc rèn luyện 4 kĩ năng này là cần thiết, không nên xem nhẹ kĩ năng
nào.
Đào Ngọc trong cuốn “ Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng việt đã bàn vê việc rèn
luyện kĩ năng nghe, kĩ năng nói, kĩ năng viết và kĩ năng đọc, đã đưa ra một số điều
kiện và công tác chuẩn bị cho việc rèn luyện kĩ năng nghe, nó,i đọc, viết.
Báo giáo dục thời đại có bài viết “ rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 qua phân
môn Tập làm văn” đã đánh giá về những ưu thế về việc luyện kĩ năng nói cho học
sinh và đề xuất một số ý kiến phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên.
Tuy nhiên những bài viết trên đang dừng lại ở một mặt nào đó, chưa đi sâu vào
nghiên cứu việc rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 qua phân môn Tập
làm văn một cách toàn diện. Nhưng đó là nhứng tài liệu có tính chất gợi mở cho
chúng ta có thểm dữ liệu để nghiên cứu đê tài.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
-

Hệ thống bài tập trong sách giáo khoa phân môn Tập làm văn.


-

Phương pháp dạy học rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 3 qua phân

môn Tập làm văn.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:


- Nắm vững đặc điểm nghe nói của học sinh lớp 3 và những yêu cầu về kĩ năng
nghe nói đặt ra cho học sinh lớp 3.
- Nắm vững nội dung luyện nghe nói trong phân môn Tập làm văn.
- Đưa ra một số biện pháp dạy học thích hợp cho việc luyện nghe nói.
- Giúp bản thân nắm vững chương trình nội dung luyện nghe nói để vận dụng vào
việc chỉ đạo giảng dạy phân môn này .
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Tìm hiều sơ sở lí luận của đề tài.
2- Rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 quan phân môn Tập làm văn .
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
-Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nhằm tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài.
- Phương pháp quan sát, đánh giá.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm và nhiều phương pháp khác.
VII. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI: Gồm 2 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận
1. Hoạt động nghe nói của học sinh Tiểu học
2. Đặc điểm nghe nói của học sinh lớp 3.
3. Vị trí, vai trò của phân môn Tập làm văn.
Chương II: Cơ sở thực tiễn: Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 3 qua
phân môn Tập làm văn.
1. Tổng quan về chương trình Tập làm văn 3



2. Rèn kĩ năng luyện nghe nói cho học sinh lớp 3 qua phân môn Tập làm văn.
3.. Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh lớp 3

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.
I.Hoạt động nghe, nói của học sinh tiểu học:
1. Hoạt động nghe nói:
a. Hoạt động nói:
Nói là hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên người nói phải
xác định được nôi dung lời nói. lựa chọn ngôn ngữ để diễn tả nội dung đó. Sau đó
người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi lới nói đã được xác định.
Từ đặc điểm kiểu giao tiếp, người nói đến hai dạng nói : “ Đối thoại và độc
thoại”. Mỗi loại có những đặc điểm riêng.
Đối thoại: là dạng nói thường được sử dụng trong các hoạt động sinh hoạt hằng
ngày. Trong các dạng nói, đối thoại được sử dụng nhiều hơn cả. Đó là dạng nói trong
đó có sự chuyển đổi vai. lúc này là người nói, lúc sau lại là người nghe. Sự chuyển
đổi vai nói - nghe, nghe- nói như vậy tạo nên hoạt động đối thoại.
Trong đối thoại phát ngôn của người nói mở đầu đối thoại thường mang tính chất
tác động, kích thích. Những vấn đề được nêu ra ở phát ngôn này là cơ sở để tạo ra
hàng loạt những phát ngôn tiếp sau những lời đối thoại khác.
Sự nối tiếp ý giữa các lời đối thoại tạo nên sự mạch lạc, chặt chẻ cho nội dung.
Nếu giữa các lời đối thoại không có sự liên tục về ý, lời thoại sau không tiếp tục ý


trong lời thoại trước và lời thoại trước không phải là tiền đề là kích thích của lời
thoại sau thì cuộc đối thoại sẽ trở nên rời rạc, tẻ nhạt và dễ dàng rơi vào tình trạng “
dây cà, dây muống”.
Trong đối thoại người ta thường sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ như cử chỉ, điệu

bộ, ánh mắt, giọng cười..hổ trợ. Trong nhiều trường hợp các yếu tố phi ngôn ngữ
giúp người nghe hiểu chính xác, đúng đắn ý người nói và có tác dụng hấp dẫn người
nghe.
*Độc thoại: Thường diễn ra giữa hai hay nhiều người tham gia giao tiếp, nhưng
trong đó chỉ có một người nói, còn người khác giữ vai trò là người nghe, người tiếp
nhận thông tin. Người độc thoại thường giữ vai trò chủ động trong việc lựa chọn nội
dung, định hướng nói, trong việc xác định phương pháp nói. Song người nghe, bằng
cách phản ứng của mình, cũng có tác động ít nhiều đến người nói. Người nói khôn
ngoan cần đón nhận các phản ứng này để sữa đổi nội dung hoặc cách nói cho phù
hợp.Lời độc thoại thường diễn ra liên tục. Do đó người nói ít có thời gian ngừng nghỉ
để chuẩn bị. Điều này đòi hỏi người nói phải chuẩn kỹ nội dung cần nói. Nếu không
chuẩn bị chu đáo sẽ dẫn tới tình trạng nói lộn xộn hoặc luốn cuống không nói được.
Người đọc thoại cũng có thể dùng các yếu tố phù trợ như: ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ.
Điều cần nhớ là không nên lạm dụng để tự biến thành “ anh hề” vụng về trên sân
khấu. Dạng đọc thoại có chia thành hai loại: đọc thoại trực tiếp có sự hiện diện của
người nghe và độc thoại gián tiếp không có người nghe trước mắt.


Kể chuyện được coi là dạng đặc biệt của độc thoại.. Kể chuyện là lời độc thoại
mang tính nghệ thuật cao nhằm truyền đến cho người đọc một văn bản nghệ thuật
( có trong sách vở, trong cuộc sống hoặc do chính người kể xây dựng nên.)
Sự thành công của kể chuyện do nhiều yếu tố tạo nên: nôi dung câu chuyện, nghệ
thuật kể, khả năng người kể cảm nhận đối với câu chuyện…sử dụng ngữ điệu và các
yếu tố phi ngôn ngữ ( điệu bộ, cử chỉ ,nét mặt…) để hổ trợ.
b. Hoạt động nghe:
Nghe là một hoạt động nhận tin nhờ bộ máy thính giác. Đầu tiêu người nghe phải
nghe chính xác, đày đủ thông báo. Sau đó nhờ hoạt động tư duy mà chúng ta hiểu
được nội dung các thông báo.
Căn cứ vào kiểu giao tiếp chúng ta có hai hình thức nghe: nghe đối thoại và nghe
đọc thoại.

Nghe đối thoại và nghe độc thoại bên cạnh những đặc điểm giống nhau như:
chúng phụ thuộc vào chất lượng âm thanh, tiếng ồn, độ chú ý hay phân tán của người
nghe.
Đối với nghe đối thoại thì người nghe đối thoại là người trong cuộc, là người góp
phần xác lập nội dung cuộc hội thoại luôn luôn có sự chuyển đổi, từ vai trò người
nghe sang người nói và ngược lại. Đề tài cuộc giao tiếp có thể xác định trước song
nội dung cụ thể luôn luôn đòi hỏi người nghe phải theo sát cuộc hội thoại từng giây,
từng phút, phải hiểu nhanh mọi thông báo để có những ứng xử kịp thời. Hai đặc điểm
đó tạo nên thuận lợi và khó khăn cho hình thức nghe đối thoại.


Còn đối với nghe độc thoại thì người nghe độc thoại chỉ đó vai trò người nhận tin
không có sự chuyển đổi vai như trong hội thoại. Nội dung của độc thoại do người nói
quy định. Người nghe không tham dự trực tiếp vào việc xác lập nội dung nên khó
nắm bắt nó dù đề tài đã được biết trước. tuy vậy bằng cách biểu thị thái độ (lời đề
nghị, thái độ tán thường hay phản đối)
người nghe sẽ ảnh hưởng đến người nói buộc họ phải điểu chỉnh nội dung bằng cách
nói.
2. Hoạt động nghe nói của học sinh tiểu học:
a. Hoạt động nói:
Ở bậc Tiều học, học sinh nói trong nhiều trường hợp. Các em nói khi chơi đùa,
trao đổi với bạn bè ngoài lớp. Các em nói trong giờ học như trả lời các câu hỏi, trình
bày các nội dung hoặc câu chuyện nghe được, đọc được, tranh luận trong các buổi
thảo luận… Cũng như kĩ năng nghe, nhà trường phải dạy cho cho học sinh kĩ năng
nói, từ cách trình bày, xưng hô đến cách trả lời câu hỏi…Chính việc dạy nói giúp
cho học sinh nói năng có văn hóa, thể hiện trình độ văn minh lịch sự của một người
có học.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng nói. Cũng như kĩ năng nghe, trước tiên
phải kể đến bộ máy phát âm. Nếu bộ máy phát âm bị khuyết tật sẽ ảnh hưởng lớn đến
kĩ năng nói ( nói ngọng, nói lắp..) Đồng thời thái độ ứng xử sư phạm đúng đắn của

người giáo viên là sự hướng dẫn tận tình, đặc biệt là động viên tinh thần, yêu thương
giúp đỡ bạn của các em khác trong lớp. Mặt khác, vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng


của người nói, khả năng ứng đối nhanh nhạy, thông minh, cách chọn đề tài nói sao
cho mới mẽ đúng sỡ trường của bản thân, đúng yêu cầu của người nghe..là những
yêu tố ảnh hưởng lớn đển sự thành công của bài nói hoặc câu trả lời.
Ngoài ra, các thủ thuật để lời nói gây được sự hấp dẫn ( cách sử dụng giọng nói,
lời kể, các yêu tố phụ trọ…) là những yếu tố cần tính tới khi rèn luyện kĩ năng nói.
Đối với học sinh tiểu học, khi hướng dẫn luyện nói giáo viên khong nên coi nhẹ việc
luyện tập ngay cả các thủ thuật này.
Việc rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh được tiến hành ở hầu hết các phân
môn nhằm phát huy tính tích cực chut động của học sinh.
b. Hoạt động nghe:
Trong nhà trường Tiều học, học sinh phait nghe trong nhiều trường hợp, phổ biến
nhất là nghe giáo viên giảng bài, nghe các bạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, nghe
trao đổi, thảo luận khi họp đội, họp tổ, họp nhóm, họp lớp trong buổi mít tinh…phần
nhiều các trương hợp là học sinh nghe theo kiểu truyền phát tin.Vậy nhà trường có
cần dạy cho học sinh nghe không ? Những người đơn giản trong suy nghĩ thường cho
rằng không cần dạy cho học sinh nghe với lập luận: Ai nghe tiếng mẹ đẽ mà không
hiểu. Song điều ấy là một sự ngộ nhận. Nhiều trường hợp nghe mà chỉ hiểu một phần
hoặc có hiểu thì không thấu đáo, đầy đủ, không hiểu hết sự tinh vi, tinh tế của người
nói…Qua đó ta thấy việc rèn luyện cho học sinh khả năng nghe là điều rất cần thiết.
Tuy nhiên ở tường Tiểu học không có phân môn nào trong môn Tiếng việt đặt
trọng tâm rèn kĩ năng nghe. Như tập đọc rèn kĩ năng đọc, tập viết kĩ năng viết…kĩ


năng nghe được rèn luyện một cách tự phát qua việc học các phân môn từ tập đọc,
chính tả, Tập làm văn đến kể chuyện…Riêng ở chương trình tiểu học mới ở lớp 1 có
nội dung luyện nghe nói cho học sinh nhưng với lượng thời gian rất ít.

Kĩ năng nghe cũng đã xác định rõ mức độ yêu cầu cụ thể qua từng lớp. Trong hai
hình thức nghe, nhà trường tiểu học tới hình thức nghe độc thoại coi nhẹ hình thức
nghe hội thoại. Các thiếu sót trên của chương trình và sách giáo khoa đã gây cho
học sinh nhiệu thiệt thòi trong việc hoàn thiện kĩ năng sử dụng tiếng việt. Do đó giáo
viên cần giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nghe khi giảng bất cứ bài học nào trong các
phân môn của Tiếng Việt thì tập đọc, chính tả, kể chuyện , Tập làm văn có nhiều
điều kiện rèn luyện kĩ năng nghe( chủ yếu là nghe đọc thoại) cho học sinh. Chính tả
rèn cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác để viết lại đúng, chính xác bài chính tả.
Tập đọc rèn cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác và tinh tế để nhận ra sự diễn
cảm trong giọng đọc của Thầy cô, của bạn bè. Cso lẻ kể chuyện có ưu thế hơn cả
tỏng việc rèn kĩ năng nghe. Học sinh không những được rèn luyện nghe đúng, chính
xác mà còn được rèn luyện khả năng nghe hiểu nội dung câu chuyện để sau đó có
khả năng tái tạo lại câu chuyện đó.
II. Đặc điểm nghe nói của học sinh lớp 3:
1. Đặc điểm tâm lí:
Ở lớp Một và lớp Hai, học sinh đã được rèn luyện các kĩ năng nghe nói , đọc viết
cho học sinh . Tuy nhiên để hình thành và rèn luyện thuần thục đối với học sinh Tiểu
học , nhất là các lớp đầu cấp là một vấn đề được quan tâm , cần có thời gian ,phương


pháp thích hợp Bởi ở độ tuổi này hoạt động học tập của học sinh vẫn còn mang tính
chất “ Học mà chơi, chơi mà học” Vì vậy giáo viên cần nắm chắc đặc điểm này để
dạy cho tốt.
Mặc dù đã dược rèn luyện ở lớp Một, lớp Hai song cũng còn không ít em rụt rè ,
không mạnh dạn nói trước lớp hay bày tỏ ý kiến của mình trước thầy cô, bạn bè... Do
vậy GV cần khéo léo lôi cuốn các em vào không khí học sôi nổi của lớp . đồng thời
cần phải nắm bắt được sở trường của HS để đưa ra những đề tài mới mẻ phù hợp với
các em và sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ, hợp lý thì việc luyện nói có hiệu quả
hơn.
Về hoạt động tư duy, khả năng tư duy bằng tính hiệu của trẻ đã phát triển. Điều này

làm cho hoạt động nghe và nói cảu trẻ thành công hơn.
Về năng lực hoạt động, trẻ em ở giai đoạn này đã chủ động điều khiển các hoạt
động của cơ thể, ý thức không gian của các em được hình thành . Đây là điều kiện
cần thiết để các em tiếp xúc với công việc giao tiếp mới mà nghe nói là hai kỹ năng
cơ bản trong quá trình giao tiếp.
Tóm lại học sinh lớp Ba đã có đủ diều kiện về tâm lý và sinh lý để luyện nghe nói.
Tuy nhiên muốn quá trình học tập đạt kết quả tốt thì luyện nghe và nói phải trở thành
hoạt động có ý thức để cá em có thể tiếp thu được tri thức . Do vậy trong quá trình
luyện nghe và nói cho học sinh, giáo viên cần cho học sinh nghe nhiều, nói nhiều.
Đồng thời luôn thay đổi nội dung và hình thức nghe ,nói để không gây nhàm chán và
hạn ché hiệu quả của giờ học.


2. Đặc điểm ngôn ngữ:
Trước tuổi đến trường các em đã biết Tiếng Việt ở một mức độ nhất định. Sự hiểu
biết này có được là do trẻ tiếp nhận giao tiếp với người lớn trong cuộc sống hàng
ngày. Vì vậy bước vào lớp Một trẻ đã giao tiếp bình thường bằng hoạt động nghevaf
nói Tiếng Việt, khả năng này là một nguồn vốn đáng kể phục vụ cho quá trình học
tập, cùng với sự tiếp thu ngôn ngữ theo chương trình đã quy định , học sinh vẫn tiếp
tục nhận ngôn ngữ tự nhiên qua các quan hệ giao tiếp ngoài nhà trường. Sự tiếp
nhận ngôn ngữ của học sinh là là khả năng bẩm sinh để từng bước tiếp nhận ,lĩnh hội
nhận diện tín hiệu ngôn ngữ qua giao tiếp hàng ngày. Do vậy ở lớp Một, lớp Hai cần
chú trọng hơn việc rèn kỹ năng nghe nói trong hội thoại.
Ở lớp 3 , tốc độ phát triển ngôn ngữ của các em rất lớn , các em đã nói đúng
những câu có cấu trức ngữ pháp chính xác . Các em tiếp xúc với cách nói của những
người xung quanh và dựa vào thực tiễn đã hiểu biết và đoán biết nghĩa , bắt chước sử
dụng vào những hoàn cảnh giao tiếp cần thiết và các em có thể nghe hiể được nhũng
câu hỏi đơn giản . Tuy nhiên ngôn ngữ của các em vẫn còn nhiều hạn chế. Về mặt số
lượng , những gì các em đạt được vẫn vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong cuộc
sống . Về mặt chất lượng , từ ngữ các em dùng thường được hiểu một cách hạn hẹp.

ngôn ngưc các em sử dụng mang tính chất khẩu ngữ , hồn nhiên , thiếu trau chuốt .
III. Vị trớ, vai trũ của phõn mụn tập làm văn:
1.Vị trớ, vai trũ của phõn mụn tập làm văn:


Tiếng Việt ở nhà trường tiểu học được dạy và học thông qua nhiều phân môn:
Học vần, tập đọc, tập viết, chính tả, luyện từ và câu, kể chuyện, tập làm văn. Phân
môn tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học mụn Tiếng Việt.
Phân môn Tập Làm Văn vận dụng các hiểu biết và kỹ năng về Tiếng Việt do các
phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để
thực hiện được một bài văn nói hoặc viết, học sinh phải hoàn thiện cả bôn kỹ năng:
nói, đọc, viết, nghe; phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt. Trong quá trỡnh vận
dụng này cỏc kiến thức và kỹ năng đó được hoàn thiện và nâng cao dần.
Mặt khỏc, phân môn Tập Làm Văn cũn luyện cho học sinh cỏc kỹ năng sản sinh
văn bản (nói hoặc viết) nhờ vậy Tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được
xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động
trong quá trỡnh giao tiếp, tư duy, học tập. Núi cỏch khỏc, phõn mụn Tập làm văn đó
gúp phần thực hiện hoỏ mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy học Tiếng Việt là
dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt và trong quá trỡnh lĩnh hội
cỏc tri thức khoa học.
Qua đó, ta thấy phân môn Tập Làm Văn mang tính chất tổng hợp và sáng tạo. Tập
làm văn sử dụng toàn bộ các kỹ năng, vận dụng tất cả các kiến thức và huy động vốn
sống của học sinh liên quan đến đề tài. Đồng thời tập trung sức sáng tạo của trẻ. Khi
làm bài văn ( nói hoặc viết ) học sinh đó thực hiện một hoạt động giao tiếp. Môi bài
làm văn là một sản phẩm không lặp lại của từng học sinh trước yêu cầu của đề tài.
Có thể nói trong việc học làm văn, học sinh chủ động, tự do thể hiện cái “Tôi” của


mỡnh một cỏch rừ rang, bộc bạch cỏi riờng của mỡnh một cỏch trọn vẹn. Dạy tập
làm Văn là dạy các em tập suy nghĩ, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người

mỡnh. Nú gúp phần cựng với cỏc mụn học khỏc rốn luyện tư duy, phat triển ngôn
ngữ và hỡnh thành nhõn cỏch cho học sinh.
2.Vị trớ, vai trũ của Tập làm văn nói trong phân mụn Tập làm văn.
Tập Làm Văn nói rèn luyện cho học sinh khả năng hỡnh thành một bài văn nói
theo đề tài đó cho như nghe và kể lại chuyện “cây khế”. Tập Làm Văn nói góp phần
phát triển ở học sinh năng lực nói một bài theo hỡnh thức độc thoại và mang phong
cách khẩu ngữ. Bài nói này có những đặc điểm riêng về nhiều mặt so với bàu viết, từ
cách triển khai ý tới cỏch lựa chọn từ ngữ, lựa chọn kiểu cõu, từ cỏch sử dụng cỏc
yờu tố phi ngụn ngữ để phù trợ đến các thủ thuật nhằm thu hút người nghe. Do đó
bài Tập Làm Văn nói không phải là bài Tập Làm Văn viết được nói lên. Tuy nhiên
cũng không nên tuyệt đối hoá ranh giới giữa bài nói và bài viết.
Tập Làm Văn nói rất có ích cho người học khi họ bước vào cuộc sống hoặc khi
học tiếp tục lên các cấp học trên. Khả năng độc thoại theo một đề tài là khả năng mỗi
người thường gặp trong cuộc sống ( Phát biểu về một đề tài trong cuộc hop, thảo
luận, tranh luận..) Nếu cú khả năng độc thoại tốt, người trỡnh bày sẽ tự tin và mạnh
dạn làm việc.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ THỰC TRẠNG VIỆC DẠY MÔN TIẾNG
VIỆT NÓI CHUNG VÀ PHÂN MÔN TẬP LÀM TẬP LÀM VĂN NÓI RIÊNG Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 KIẾN GIANG HIỆN NAY :


I. TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRèNH TẬP LÀM VĂN LỚP 3
1. Mục đích yêu cầu.
Phân môn Tập Làm Văn rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói, nghe, viết phục vụ
cho việc học tập và giao tiếp. Cụ thể là: Biết dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao
tiếp trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đỡnh, trong sinh hoạt tập thể và cỏc hoạt động
của lớp, của tổ.
Nghe hiểu được nội dung lời nói, ý kiến thảo luận trong cỏc buổi sinh hoạt. Nghe
hiểu được và kể lại được nội dung trong các mẫu chuyện ngắn, biết nhận xét về các
nhân vật trong câu chuyện.

Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức thư ngắn để báo tin tức, để hỏi
thăm người thân hoặc kể lại một viện gỡ đó làm, biết kể lại một bức tranh đó xem,
một văn bản đó đọc.
- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hoá, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi
dưỡng những tỡnh cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
2. Nội dung chương trỡnh.
Thời lượng dạy: Không kể các bài ôn tập, học sinh được học 31 tiết Tập làm văn,
trung bỡnh 1tiết/1tuần.
Nội dung:
- Tiếp tục phương hướng chung là hỡnh thành và phỏt triển cỏc kỹ năng giao tiếp cho
học sinh. Nhưng so với lớp 2, ở lớp 3 học sinh được dạy các kỹ năng giao tiếp ở bậc
cao hơn: không phải là các nghi thức lời nói thông thường như chào hỏi, cảm ơn, xin


lỗi… mà hoạt động giao tiếp có tính chất chính thức như: viết thư, viết đơn, khai giấp
tờ, hội họp ( tổ chức xây dựng chương trỡnh, điều khiển và phát biểu trong cuộc
họp…), giới thiệu, viết quảng cỏo, làm bỏo và nghe kể lại cõu chuyện.
- Tăng cường rèn luyện kỹ năng nói thông qua hỡnh thức nghe kể lại cõu chuyện
( trung bỡnh ba tuần một lần nghe và kể lại cõu chuyện – chủ yếu là chuyện vui) và
tăng cường các hỡnh thức sinh hoạt tập thể như họp nhóm, họp tổ, giới thiệu về các
tranh ảnh về cảnh đẹp của đất nước cho lớp hoặc tổ nghe.
- Tiếp tục rèn luyện kỹ năng kể chuyện và miêu tả như: Kể lại một sự việc đơn giản,
tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc cõu hỏi. Bài tập
luyện nghe nói chủ yếu được xây dựng theo chủ điểm. Trung bình mỗi chủ điểm có 1
tiết tập làm văn. Nội dung của phần luyện nói dược trình bày trên ba kiểu bài cơ bản
là: đó là: Nghe và kể lại mẫu chuyện ngắn hay nghe và kể lại một mẫu tin. Kiểu bài
tổ
chức, điều khiển cuộc họp. Kiểu bài kể, tả về người thân, gia đình, trường lớp.
II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3
a. Đặc điểm tỡnh hỡnh trường:

Trường TH số I Kiến Giang cú 10 lớp với 317 học sinh, cú 100% số lớp học hai
buổi/ngày trong đó số học sinh lớp Ba là 61 em . Trường nằm ở trung tâm huyện Lệ
Thuỷ, mặt bằng dân trí khá cao. Trường luôn được sự quan tâm giúp đỡ của lónh đạo
Nghành, địa phương. Cơ sở vật chất ngày một khang trang, từng bước hiện đại, đáp


ứng việc dạy và học theo yêu cầu của trường đạt tiêu chuẩn Quốc gia giai đoạn II,
phấn đấu để đạt trường trọng điểm chất lượng cao của bậc học.
Đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt. Yêu nghề mến trẻ, nhịêt tỡnh trong
giảng dạy và cụng tỏc khỏc. Cú ý thức phấn đấu học tập để nâng cao tay nghề. 100%
giáo viên trực tiếp giảng dạy đều đạt và vượt chuẩn về trỡnh độ đào tạo.
Học sinh cú ý thức học tập tốt, ngoan ngoón, lễ phộp, biết thực hiện tốt trỏch
nhiệm của mỡnh đối với lớp, với trường.
Phụ huynh quan tâm, chăm lo đến việc học hành của con cái họ. Luôn luôn kết
hợp với nhà trường để động viên, giúp đỡ học sinh trong quá trỡnh học tập. Chớnh
vỡ vậy, chất lượng học tập của các em ngày càng tiến bộ vượt bậc.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản trên, việc dạy và học của trường gặp phải một
số khó khăn nhất định. Cơ sở vật chất của nhà trường có tăng trưởng theo hướng hiện
đại song một số phũng học và phũng chức năng cũn là phũng cấp 4. Nhiều phụ
huynh kinh tế khú khăn, hoặc do công việc làm ăn nên ít quan tâm đến việc học tập
của con em họ, phó mặc cho nhà trường.
b. Thực trạng về dạy phõn môn tập đọc Tiếng Việt lớp Ba
Qua dự giờ thăm lớp, đàm thoại, kiểm tra kế hoạch dạy học của giỏo viờn khối
Ba, tụi nhận thấy:
- Khi dạy cỏc tiết tập làm văn, giỏo viờn luụn chỳ ý rốn kỹ năng đọc kỹ đề,
nhận định và tìm hiểu yêu cầu đề ra, kỹ năng dùng từ đặt câu , kỹ năng diễn đạt.. cho
học sinh song việc giải nghĩa từ và mở rộng vốn từ cho học sinh cũn lỳng tỳng


- Giáo viên đó bỏm sỏt mục tiờu, cỏch tiến hành cỏc hoạt động dạy học một

cách linh hoạt song chưa có sự sáng tạo trong quá trỡnh mở rộng vốn từ, cách dùng
từ cho học sinh trong phõn mụn tập làm văn.
- Vốn từ của cỏc em cũn nghốo, học sinh cũn rụt rố, chưa mạnh dạn trỡnh bày
suy nghĩ của mỡnh trước lớp
- Qua kiểm tra học kỡ I chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh lớp Ba được
thống kê như sau:
Lớp

TSHS

HSTG

TB

SL
3
31
31
31
2
3
30
30
30
Toàn khối
61
61
61
Nhỡn vào bảng thống kờ này, chỳng ta cú thể
1


KG
%
SL
%
100
25
80,6
100
30
100
100
55
90.2
nhận thấy chất lượng trung bỡnh

trở lờn và chất lượng khá giỏi cao. Song trong thực tế vốn từ của các em cũn rất hạn
chế.
*Nguyờn nhõn
- Về phớa giỏo viờn: chuẩn bị cho việc khai thỏc từ ở cỏc tiết tập làm văn chưa thật
được chú ý, giỏo viờn chưa thật chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh.
- Về phớa học sinh, vốn từ của cỏc em cũn quỏ ớt, ỷ lại đó cú giỏo viờn hướng dẫn,
làm mẫu.Một số học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn bọc lộ suy nghĩ của mình trước
cô giáo, bạn bè.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG NGHE NÓI CHO HỌC SINH LỚP 3


Từ những vấn đề đã tìm hiểu ở trên, tôi có thể mạnh dạn đưa ra một số biện pháp
trong việc rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 3 với mục dích giúp các em viết văn hay
hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp:

Biện pháp thứ nhất: Giáo viên cần hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng
sử dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết). Thông qua việc dạy Tiếng Việt để rèn luyện
các thao tác tư duy lô gic. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội,
tự nhiên và con người,về văn hóa... Thông qua phân môn tập làm văn giúp học sinh
biết dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia đình, trong tập
thể. biết nghe hiểu nội dung lời nói..Muốn đạt được yêu cầu trên,khi chuẩn bị bài dạy
, giáo viên cần xác định rõ mục đích yêu cầu của bài để hướng bài dạy đi đúng trọng
tâm. Lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng
học sinh trong lớp.
Biện pháp thứ hai:Trong quá trình lên lớp, giáo viên cần phải xác định trước nội
dung cần trình bày . Bỡi lẽ , muốn học sinh nói tốt , giáo viên phải thật linh hoạt ,
phải đặt ra hệ thông câu hỏi hay tình huống có vấn đề để học sinh tham gia vào các
hoạt và dự kiến cho học sinh nghe gì , nói gì? Điều gì nói trước, điều gì nói sau..Tất
cả phải được trình bày thông qua sự dẫn dắt của giáo viên. Giáo viên cần hình dung
trước các tình huống có thể xảy ra để có cách giải quyết thích hợp.
Biện pháp thứ ba: Giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài , dự kiến trước các phương
pháp hình thức lên lớp cho thích hợp. Cần phải kết hợp nhiều phương pháp và hình
thức hoạt động để không gây nhàm chán, mệt mỏi, nâng cao sự chú ý của HS...Tùy


từng bài giáo viên có thể dùng nhiều phương pháp như hỏi đáp trực quan, thuyết
trình ... và nhiều hình thức hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân, toàn lớp, hình thức
sắm vai
Đối với các kiểu bài mới và khó như: tổ chức cuộc họp, giáo viên cần phải hướng
dẫn tỉ mĩ và có thể tổ chức một cuộc họp lơp làm mẫu trong một thời giani giúp cho
học sinh biết trước được hình thức và các bước trình bày một cuộc họp nhóm (hay
trong tổ) giúp các em tự tin hơn trong hoạt động của mình.
Biện pháp thứ 4: Giáo viên phải không ngừng rèn luyện và nâng cao nghiệp vụ sư
phạm cảu mình. Bỡi lẽ, người giáo viên, đặc biệt là giáo viên Tiểu học luôn là tấm
gương là “ thần tượng” của học sinh.Vì vậy một lời nói thiếu lưu loát, một sơ suất

nhỏ trong lời nói của GV sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức các em . Để mang
đến cho các em những gì tốt đệp nhất. GV không ngừng rèn luyện, nâng cao kiến
thức và kĩ năng lên lớp, lời nói rõ ràng , mạch lạc , truyền cảm, có sức lôi cuốn, với
điệu bộ phù hợp và hấp dẫn thu hút được sự chú ý của các em là biện pháp thích hợp
nhất để tác động giúp các em không ngừng học tập rèn luyện và noi theo.Ngoài ra,
giáo viên cần tạo lập và duy trì không khí lớp học sôi nổi hào hứng, gần gũi, thân
thiện với học sinh khuyến khích được nhiều học sinh tham gia vào hoạt động học
tập.

PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết quả đạt được:


Sau một thời gian ỏp dụng những biện phỏp nờu trờn, tụi nhận thấy rằng vốn từ
của học sinh ở cỏc tiết tập làm văn phong phú hơn. Học sinh đó biết nói lưu loát,
diễn đạt một cỏch rành mạch, nhiều em biết dùng từ, đặt câu đúng, câu văn mạch lạc,
mạnh dạn hơn trong việc bày tỏ ý kiến của mình.
Chất lượng phân môn tập đọc qua khảo sỏt cuối kỡ II năm học 2009-2010
Lớp
1

3
32
Toàn khối

TSHS

HSTG

31

30
61

31
30
61

TB
SL
31
30
61

KG
%
100
100
100

SL
28
30
58

%
90,3
100
95,1

2. Bài học kinh nghiệm:

- Cần thay đổi nhận thức cho đội ngũ giáo viên trong việc rèn kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng trình bày một vấ đề nào đó trước đông người, cung cấp vốn từ cho học sinh
qua cỏc tiết Tập làm văn
- Tập trung chỉ đạo các khâu của quá trỡnh dạy học nhất là đổi mới hỡnh thức
dạy học sao cho linh hoạt, phự hợp đối tượng học sinh
- Thường xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm giúp giáo viên phát huy những mặt đó
đạt được, khắc phục những tồn tại đó vấp phải
3. Kết luận:
“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” (Lênin).
Muốn có ngôn ngữ để giao tiếp vỡ trước hết con người phải có vốn từ. Vốn từ là một
trong những bộ phận cấu thành nên ngôn ngữ. Cho nờn muốn dạy học nói lưu loát,
trình bày mạch lạc, ngôn gữ tự nhiên trong sáng không thể không coi trọng việc dạy


vốn từ cho các em. Đặc biệt là đối với học sinh lớp Ba, khi cỏc em còn bỡ ngỡ trong
giao tiếp, vốn từ của cỏc em cũn hạn hẹp và ớt ỏi. Vỡ vậy ta phải bồi đắp thêm cho
các em để các em vận dụng trong học tập và giao tiếp trong cuộc sống. Vốn từ của
các em càng giàu bao nhiêu thỡ khả năng lựa chọn từ càng lớn bấy nhiêu.
Tuy nhiên do đặc điểm tâm lý của học sinh lớp Ba, cỏc em nhận thức cũn trừu
tượng, chưa cụ thể vỡ vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để làm giàu vốn từ cho học
sinh một cách hiệu quả nhất. Muốn như vậy ta khụng chỉ dựa vào phõn mụn tập làm
văn mà cần phải làm giàu vốn từ cho các em trong mọi phân môn, mọi nơi mọi
lúc.Tăng cường hoạt động giao tiếp trong nhóm, lớp. Tạo cơ hội cho các em được
trình bày ý kiến của mình trước đông người.
Ở đây, tôi chỉ đưa ra một số hỡnh thức rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp Ba
trong phõn mụn tập làm văn như cung cấp vốn từ, đùng từ đặt câu, diễn đạt lưu
loát… và đưa ra một số biện pháp để thực hiện. Hy vọng đây là những gợi ý thiết
thực để giáo viên có định hướng, có phương pháp dạy học thích hợp với dụng ý của
bài học, gúp phần nõng cao hiệu quả giờ dạy tập làm văn.


Người viết

Nguyễn Thị Thoả




×