Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết dạy học môn thể dục ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.09 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG SƠ LƯỢC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC

1. Vai trò vị trí của môn Thể dục trong nhà trường THCS.
2. Tầm quan trọng của phương pháp dạy học môn Thể dục.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1. Nhận thức về vị trí của môn Thể dục hiện nay.
2. Kết quả học tập môn Thể dục ở trường.
III. THỰC TRẠNG

1. Thuận lợi.
2. Khó khăn.
a. Đối với giáo viên.
b. Đối với học sinh.
IV. CÁC GIẢI PHÁP

1. Nâng cao nhận thức về phương pháp dạy học.
2. Tăng cường sử dụng và làm mới trang thiết bị đồ dùng dạy học
để nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy học.
3. Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh trước khi tập luyện
hoặc sau khi phân nhóm tập luyện.
4. Sử dụng đội hình trong quá trình tập luyện.
5. Hướng dẫn tập luyện theo phương pháp trò chơi.


6. Hướng dẫn tập luyện theo phương pháp thi đấu, khen thưởng.
7. Phương pháp dạy học bộ môn xây dựng hứng thú lấy học sinh


làm trung tâm.
8. Phương pháp củng cố từng nội dung sau khi luyện tập kỹ thuật
động tác.
9. Đổi mới kiểm tra đánh giá hiệu quả học tập.
V. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Những kết quả bước đầu đạt được.
2. Bài học kinh nghiệm.
C. KẾT LUẬN



A. ĐẶT VẤN ĐỀ


Chúng ta biết rằng sự nghiệp giáo dục của nước nhà ngày càng phát triển, việc
bồi dưỡng và nâng cao năng lực trí tuệ là nhiệm vụ chính trị cơ bản trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó công tác giáo dục thể chất (GDTC) là một
mặt không thể thiếu được trong mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện. Để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục và sự nghiệp xây dựng bảo vệ
tổ quốc, vấn đề tăng cường sức khoẻ cho học sinh trở thành một nhiệm vụ cấp bách có
ý nghĩa chiến lược của toàn Đảng toàn dân.
Sức khoẻ đối với con người là vốn quý. Muốn không ngừng nâng cao sức khoẻ
phải đẩy mạnh công tác nâng cao giáo dục thể chất. Do đó, giáo dục thể chất là một
trong những mặt cơ bản của nền giáo dục có liên quan chặt chẽ với sự nghiệp đào tạo
cho đất nước những con người phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ. Đồng thời
nó chuẩn bị tiền đề cần thiết để con người bước vào cuộc sống lao động sản xuất và
bảo vệ tổ quốc. Phát triển Thể dục Thể thao (TDTT) còn làm phong phú đời sống văn
hoá tinh thần của nhân dân từ đó nâng cao năng suất lao động và hiệu quả chiến đấu.
Học thuyết Mác - Lê Nin khẳng định: “TDTT là một bộ phận không thể tách rời

sự nghiệp giáo dục, chủ nghĩa cộng sản, thể thao không chỉ giải quyết nhiệm vụ chủ
yếu hoàn thiện về mặt thể chất mà còn tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển các
môn khoa học khác”.
Trong Hiến pháp năm 1992 (điều 41) đã ghi rõ: “Nhà nước và xã hội phát triển
nền TDTT dân tộc khoa học vì nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lí sự nghiệp phát
triển TDTT. Quy định giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học”.


Việc bồi dưỡng và rèn luyện sức khoẻ cho học sinh tức là rèn luyện cho cơ thể
các em phát triển cân đối, phát triển bốn tố chất “Nhanh - Mạnh - Bền - Khéo léo” giúp
cho các em hoàn thiện dần các phẩm chất, nhân cách cơ bản của con người trong xã
hội mới với mong muốn được cống hiến sức mình cho sự phồn vinh của dân tộc.
Ngày nay trong hệ thống Giáo dục, giáo dục thể chất được xem là môn học chính
khoá, là một môn học không kém phần quan trọng trong chương trình giáo dục ở nhà
trường nói chung và bậc THCS nói riêng. Môn Thể dục được phố biến và ngày càng
rộng rãi, đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức. Như bao môn học khác,
giáo dục thể chất cũng tiến hành theo một chương trình sư phạm, hướng dẫn học sinh
vận động, rèn luyện cơ thể tạo sự phát triển toàn diện, góp phần cải tạo nòi giống,
thực hiện mục tiêu cách mạng văn hoá, tư tưởng. Xây dựng một lối sống vui tươi,
lành mạnh cho học sinh. Vậy để phát huy được những mặt mạnh đó của bộ môn giáo
dục thể chất, với vai trò là người hướng dẫn mỗi người giáo viên phải luôn luôn có sự
đổi mới phương pháp dạy học của mình để làm sao cho các em có được những tiết
học bổ ích, lý thú và những kết quả cao nhất trong rèn luyện sức khoẻ, thể chất của
mình.
Đối với dạy học, đây là một vấn đề hết sức quan trọng và là yêu cầu cấp thiết
nhằm phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, góp phần tạo ra những tố chất mới cho
nguồn lao động trẻ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”.



Hơn nữa, lứa tuổi học sinh THCS đóng vai trò rất quan trọng đặc biệt trong sự
củng cố và phát triển những kết quả của tiểu học, cần có một trình độ học vấn THCS
và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT,
THCN, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động mới. Để thực hiện được điều này
các em cần có một sức khoẻ và một thể lực tốt, một thói quen kỷ luật về nếp sống lành
mạnh, một phong cách thật nhanh nhẹn để học tập tốt hơn.
Trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường đã giúp tôi
gặt hái được nhiều kết quả tốt. Tôi cảm thấy với việc đổi mới phương pháp dạy học đã
làm cho tôi lớn hơn nhiều trong chuyên môn, trong kinh nghiệm và phương pháp dạy
học. Song đó chỉ là bước đầu có tính đích thực. Vấn đề này còn được bàn luận, hội
thảo và cần có sự giúp đỡ, tiếp sức của các cấp quản lý, bản thân tôi là người giáo
viên giảng dạy và của cả học sinh thì mới có thể đạt được mục tiêu của việc dạy học.
Xuất phát từ việc giảng dạy của bản thân, với lương tâm và trách nhiệm của
người giáo viên cùng với những kinh nghiệm đúc rút trong quá trình giảng dạy môn
Thể dục ở trường THCS tôi nhận thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả tiết dạy học đối với môn Thể dục trong trường THCS là hết sức
thiết thực và bổ ích. Với lý do đó tôi đã mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm về “Một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết dạy học môn Thể dục ở trường THCS”.



B. NỘI DUNG

I. CƠ SỞ KHOA HỌC

1. Vai trò vị trí của môn Thể dục trong nhà trường THCS.
Ngoài việc cung cấp tri thức về một bộ môn khoa khọc, môn Thể dục có một vị
trí đặc thù riêng biệt của nó, đó là giáo dục và rèn luyện thể chất, sức khoẻ, nâng cao

thể lực cho học sinh, góp phần cho các em học tập tốt các môn khác.
Bên cạnh đó bộ môn này còn có tác dụng hổ trợ đắc lực cho các hoạt động Đoàn
Đội, hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo nên một không khí học đường lành mạnh, cuốn
hút học sinh làm cho các em yêu trường, yêu lớp.
2. Tầm quan trọng của phương pháp dạy học môn Thể dục.
Mỗi người giáo viên thể dục khi trực tiếp giảng dạy phải nắm vững kiến thức,
khả năng linh động một cách nhất định để thực hiện tốt nhiệm vụ của môn học, tiết
học, lý thuyết, học mới và tập luyện. Hơn thế nữa, để không ngừng nâng cao chất
lượng dạy và học môn Thể dục trong nhà trường THCS đòi hỏi người giáo viên phải
luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập
của học sinh đó là lấy học sinh làm trung tâm, luôn đổi mới phương pháp, cách tổ
chức hoạt động dạy học và cả những cơ sở vật chất phục vụ dạy học, kiểm tra đánh
giá, trong đó đặc biệt nhất là phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh
học bộ môn của mình. Người học trở thành chủ thể của hoạt động dạy học, người giáo
viên giữ vai trò là người hướng dẫn, dạy cho học sinh cách học, tự học chính vì thế


mà phải có sự lựa chọn, tổ chức những phương pháp dạy học hợp lý nhất nhằm khơi
dậy lòng say mê, hứng thú và phát huy hết sức tích cực, chủ động, sáng tạo và khả
năng của học sinh trong việc giải quyết vấn đề. Các em được học trong không khí vui
vẻ, phấn khởi, học mà chơi chơi mà học được tự do tìm hiểu, suy nghĩ, khám phá và
sự tìm tòi ra kiến thức của bài học dưới sự dẫn dắt và gợi mở của giáo viên. Tất cả đó
là để đào tạo cho các em học sinh có một thể chất tốt, năng khiếu tốt và giúp các em
trở thành những tiềm năng lớn cho phong trào Thể dục Thể thao của nhà trường cũng
như địa phương và toàn xã hội.
Nhận thức được điều này, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Thể dục bậc
THCS, bản thân tôi luôn có ý thức trách nhiệm cao, tâm huyết, nhiệt tình với nghề
nghiệp, rèn luyện cho mình phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực quyết tâm, đồng thời
luôn luôn tự trau dồi kiến thức cho mình để có trình độ chuyên môn vững vàng, năng
động, sáng tạo trong quá trình giảng dạy.

Luôn theo sát học sinh trong quá trình tập luyện, để tìm ra những phương pháp
dạy học phù hợp, từ đó rèn luyện cho các em ý thức học tập và tự rèn luyện tốt. Nâng
cao kĩ năng, kĩ xảo trong từng tiết học để gây hứng thú cho cả thầy và trò.
Trong thực tế hiện nay, việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình dạy học là
một yêu cầu cấp bách đã và đang diễn ra với quy mô lớn và dần dần đi vào chiều sâu
của từng vấn đề. Từ đó đòi hỏi cấp thiết là phải đổi mới phương pháp dạy học tất cả
các nội dung, làm thế nào đó để trong quá trình giảng dạy người học là trung tâm,
người thầy giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, chỉ đạo, động viên giúp người học tích cực,
chủ động sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức để hình thành kĩ năng, kĩ xảo của
mình, tiếp cận những tri thức mới, hiện đại tự rèn luyện và đào tạo bản thân tốt hơn.


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1. Nhận thức về vị trí của môn Thể dục hiện nay.
Hiện nay, phần lớn ở trong các nhà trường bộ môn Thể dục còn bị xem nhẹ, một
số giáo viên Thể dục giảng dạy còn sơ sài, nặng về giảng giải kỹ thuật mà chưa đầu tư
chú trọng cho việc tập luyện. Chính điều đó đã làm cho thể lực của các em không đảm
bảo, bệnh học đường ngày càng tăng lên, học sinh không có hứng thú và thói quen tập
luyện thể dục thể thao. Thên thực tế ở nhà trường, cơ sở vật chất còn hạn hẹp và thiếu
thốn, chưa đáp ứng hết được những yêu cầu cho việc dạy và học của bộ môn. Chính
vì vậy mà việc dạy và học trở nên kém hiệu quả, học sinh không phát huy hết năng
lực và khả năng vốn có của mình. Đối với học sinh, phần lớn các em cho rằng môn
Thể dục là môn phụ nên đã có thái độ coi thường và chưa tích cực học, các em chỉ
chú trọng vào các môn học như: Văn, Toán, Lí, Hóa. Mặt khác bộ môn Thể dục là một
môn khó, nó có tác dụng trực tiếp đến thể chất của các em. Luyện tập tốt là phải vận
động cơ bắp và điều đó thường dẫn đến mệt mỏi trong thời gian đầu mới tập luyện.
Hơn nữa, tập luyện thể dục còn ảnh hưởng đến trang phục của các em, nhất là các tiết
học thể dục lồng ghép với các tiết học lí thuyết khác. Từ đó dẫn đến sự lười biếng vận
động của các em nhất là các em nữ. Tất cả những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn đến

giờ học nội khóa ở trường, nó không những làm giảm tác dụng của giáo dục thể chất
trong nhà trường về lâu dài mà còn làm cho thế hệ trẻ của chúng ta có thể chất kém
cũng như không thể đạt được mục đích của Đảng là giáo dục để con người phát triển
toàn diện. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả giờ dạy Thể dục trong nhà trường là rất quan
trọng và cần thiết.
2. Kết quả học tập môn Thể dục ở trường.


Qua khảo sát học kì I năm học 2010 - 2011 kết quả đánh giá học sinh khối 8 và
khối 9 ở trường THCS Ngư Thủy Bắc đạt được chất lượng như sau:

Lớp

Tổng số

9A
9B
8A
8B
8C

43
45
36
34
33

Giỏi
SL
5

6
5
4
4

%
11,6
13,3
13,9
11,8
12,1

Khá
SL
15
16
12
11
12

%
34,9
35,6
33,3
32,3
36,3

Trung bình
SL
%

20
46,5
19
42,2
17
47,2
15
44,1
15
45,5

Yếu
SL
3
4
2
4
2

%
7,0
8,9
5,6
11,8
6,1

Từ tình hình trên, bản thân tôi đã trăn trở, suy nghĩ và có những biện pháp đổi
mới phương pháp dạy Thể dục trong trường THCS. Ngay từ những tiết học đầu tiên
của năm học, đa số các em đã có ý thức, động cơ đúng đắn, có ý chí tinh thần học như
các môn học khác.

Thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn theo hướng tích cực, sức
khỏe của học sinh được tăng lên, đồng thời cũng góp phần quan trọng trong việc hạn
chế các bệnh học đường trong lứa tuổi học sinh THCS, điều mà bấy lâu nay chúng ta
cần quan tâm và cái đích cuối cùng là phát triển thể chất cân đối theo lứa tuổi. Đây là
một số thành công đáng khích lệ, đã chuyển đổi từ một cách dạy thiếu năng động, học
sinh học ít chơi nhiều, giáo viên nặng nề giảng giải lý thuyết để tiến tới thực hiện
những giờ dạy theo sự đổi mới và có hiệu quả.
III. THỰC TRẠNG

1. Thuận lợi.
- Chương trình cơ bản của bộ môn Thể dục phù hợp với sự phát triển trí tuệ, thể
lực và tâm sinh lí của học sinh.


- Lượng vận động trong một tiết học phù hợp với lứa tuổi nhằm phát huy hết khả
năng tập luyện của học sinh nên đa số các em đã tiếp thu được và ham mê tập luyện.
- Giáo viên nắm bắt kịp thời nội dung chương trình, áp dụng nhiều phương pháp
mới và chủ động trong chương trình giảng dạy.
- Giáo viên linh hoạt, biết khắc phục được những khó khăn trong quá trình dạy
học, đặc biệt là làm mới được đồ dùng dạy học, khắc phục sân bãi, vận động các em
làm các đồ dùng dạy học đơn giản, tạo mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh. Từ
đó làm cho các em thêm yêu thích và có lòng đam mê với môn học.
- Phong trào Thể dục Thể thao được ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể trong
nhà trường cũng như địa phương quan tâm nên hàng năm mua sắm và làm mới một số
dụng cụ phục vụ cho việc vui chơi - dạy học nên phần nào kích thích lòng say mê
nghề nghiệp của giáo viên và thu hút các em học sinh tham gia như bóng chuyền,
bóng đá, cầu lông…
2. Khó khăn.
a. Đối với giáo viên.
- Sự nhận thức thiếu đúng đắn về vai trò và tác dụng của môn học, một số giáo

viên còn xem nhẹ môn học, chưa thấy rõ được tác dụng của bộ môn trong việc hình
thành nhân cách của học sinh.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong quá trình lên lớp cũng như việc đổi mới
phương pháp dạy học dẫn đến các bước lên lớp còn cứng nhắc làm cho giờ học nhàm
chán, nặng nề, không gây được hứng thú cho học sinh.
- Với quỹ thời gian từng tiết học nếu giáo viên không biết cách bố trí, sắp xếp,
chỉ nặng về truyền thụ kiến thức thì học sinh sẽ ít được rèn luyện và nâng cao thể lực.


- Việc dạy lồng ghép, tích hợp nhiều nội dung vào một tiết học nếu giáo viên
không chịu khó, thiếu năng động để tổ chức đồng thời hoạt động cho các nhóm thì
khối lượng vận động, kỹ năng mà học sinh được rèn luyện quả là rất ít.
- Thiết bị, đồ dùng dạy học còn thiếu nhất là các tranh ảnh minh họa nên chưa
đáp ứng được nhu cầu của giáo viên và học sinh trong việc dạy và học.
- Việc vận dụng phương pháp của một số giáo viên vẫn còn một số tình trạng trì
trệ. Một số giáo viên lên lớp chưa tận dụng hết thiết bị, dụng cụ sẵn có và điều kiện tự
nhiên để tổ chức cho học sinh tập luyện.
b. Đối với học sinh.
- Các em chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của môn học Thể dục
làm góp phần hình thành nhân cách cho học sinh, chưa thấy được mối quan hệ mật
thiết giữa rèn luyện thể dục để có sức khỏe tốt góp phần học tốt các môn học khác và
thực hiện mục tiêu chung.
- Với những thực trạng trên, để gây hứng thú cho các em trong giờ học và đạt
được chất lượng cao về bộ môn mình đang trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi đã mạnh
dạn áp dụng một số giải pháp sau:
IV. CÁC GIẢI PHÁP

1. Nâng cao nhận thức về phương pháp dạy học.
Để không ngừng nâng cao hiệu quả, chất lượng của một bài dạy, giáo viên cần
đổi mới phương pháp giảng dạy và vận dụng phương pháp dạy học “lấy học sinh làm

trung tâm”. Khi dạy bộ môn Thể dục đây là vấn đề đổi mới phù hợp với nền giáo dục
nước ta, học sinh chủ động lĩnh hội được kiến thức, tập trung tư duy, giáo viên là
người hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học, tự tập luyện và biết tìm các biện


pháp để sửa sai. Phương pháp này sẽ phát huy được vai trò tích cực chủ động của học
sinh trong việc rèn luyện những kỹ năng quan sát tưởng tượng, giáo dục cho các em
tính sáng tạo, chủ động, tự giác nhất là ý chí luôn rèn luyện thân thể khỏe mạnh,
không những rèn luyện ở trường học mà các em còn tự giác ngoại khóa thêm ngoài
giờ học.
Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải là người yêu nghề, mến trẻ, phải
có năng lực sáng tạo, luôn có sự thay đổi bố trí các phương pháp dạy học phù hợp với
từng đối tượng, luôn tạo một giờ học hưng phấn, có lượng vận động thích hợp, hiệu
quả.
Đối với nhà trường cần tạo mọi điều kiện để đảm bảo dụng cụ, sân bãi, môi
trường, bóng mát. Đây cũng là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình rèn
luyện thể chất cho học sinh trong nhà trường.
2. Tăng cường sử dụng trang thuết bị đồ dùng dạy học, làm mới mua sắm cơ sở vật
chất trang thiết bị để phục vụ cho việc giảng dạy.
- Cơ sở vật chất, dụng cụ, thiết bị dạy học cho môn Thể dục là điều kiện hết sức
quan trọng, Việc sử dụng tranh ảnh, kênh hình, các dụng cụ học tập như các loại bóng,
cầu, dây nhảy… mang tính hấp dẫn nhằm gây hứng thú và kích thích sự chú ý trong
các em.
- Người giáo viên phải xác định sẽ khó có thể đối mới phương pháp dạy học môn
Thể dục trong khi cơ sở vật chất, thiết bị dạy học chưa đạt đến mức tối thiểu.
- Tuy nhiên việc tăng cường cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy học môn
Thể dục trong các trường THCS gặp nhiều khó khăn. Song người giáo viên cần tuỳ
vào tình hình thực tế của từng trường, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp uỷ Đảng, chính



quyền địa phương, ban giám hiệu nhà trường và vận động học sinh tự làm những
dụng cụ đơn giản để làm tăng thêm tính chủ động, tích cực và tạo niềm đam mê hứng
thú của các em với bộ môn Thể dục.
- Đối với học sinh phải có trang phục riêng cho tập luyện. Với trang phục Thể
dục thể thao, giày vải sẽ giúp cho học sinh tập luyện tích cực hơn, mạnh dạn hơn.
3. Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh trước khi tập luyện hoặc sau khi
phân nhóm tập luyện.
Một giờ học Thể dục có chất lượng cao, có ý nghĩa là phải đảm bảo khối lượng
vận động trong một tiết học, phải đặc biệt coi trọng phương pháp tổ chức, phương
pháp dạy học động tác đặc biệt là khi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ, nhóm, giáo
viên chỉ rõ nội dung cần tập trong tiết học theo hình thức phân nhóm quay vòng, thật
cụ thể chi tiết.
Ví dụ: Tổ 1 học bài thể dục (từ nhịp 1 đến nhịp 17).
Tổ 2 học chạy nhanh (xuất phát thấp chạy lao).
Sau thời gian nhất định đổi nội dung cho nhau, việc chia tổ tập luyện sẽ giúp cho
học sinh học được 2 nội dung, khối lượng và cường độ vận động sẽ được tăng lên.
Mặt khác, khi chia tổ tập luyện sẽ làm cho học sinh sự luân phiên giữa từng em ít đi,
số lần thực hiện của các em được tăng lên. (Trước đây từ 3 - 4 lần nay được tăng lên 9
- 10 lần trong một giờ học). Thời gian sẽ tạo cho học sinh ít đùa nghịch hơn trong giờ
học. Ngoài việc đưa thêm nội dung phân nhóm quay vòng để kích thích sự hưng phấn
trong tập luyện của học sinh, thì cuối giờ học cần đưa thêm các loại hình trò chơi. Tuy
nhiên tổ chức trò chơi không được chiếm thời gian nhiều (không quá 5 - 7 phút trong
giờ học).


4. Sử dụng đội hình trong quá trình tập luyện.
Phương pháp dạy học Thể dục trong nhà trường luôn luôn biến đổi để phù hợp
với sự biến đổi của tư duy cũng như mục đích và nội dung giáo dục. Khi mục tiêu nội
dung chương trình có sự điều chỉnh thì phương pháp tổ chức tập luyện cũng thay đổi
theo.

Phương pháp tổ chức sử dụng đội hình tập luyện phải đảm bảo tính khoa học,
giáo dục, tính sư phạm, vừa sức với học sinh. Đồng thời, phù hợp với điều kiện cơ sở
vật chất thực tế của nhà trường cũng như nội dung của một bài học. Hơn thế nữa,
người giáo viên dạy môn Thể dục cần nắm được các hình thức tổ chức tập luyện, cách
bố trí đội hình như thế nào cho phù hợp với nội dung của bài học nhằm nâng cao hiệu
quả tối ưu nhất. Như đối với nội dung học thể dục phát triển chung, trong nội dung
học mới thì sử dụng đội hình hàng ngang một bên hoặc đội hình hàng ngang hai bên.
Sau đó phân nhóm tập luyện thì sử dụng các đội hình như: Đội hình các hàng ngang
theo thứ tự, đội hình hàng ngang quay lưng vào với nhau hoặc đội hình vòng tròn.







(GV)
(GV)



Đội hình hàng ngang một bên

Đội hình hàng ngang hai bên


(CS)







(CS)



(CS)

(CS)

Đội hình các hàng ngang theo thứ tự

Đội hình hàng ngang quay lưng vào nhau
 










(GV)








Đội hình vòng tròn

5. Hướng dẫn tập luyện theo phương pháp trò chơi.
Phương pháp trò chơi là phương pháp tổng hợp hoạt động vận động, nó cho phép
hoàn thiện ở mức độ lớn các phẩm chất thể lực, trí tuệ như nhanh trí, khéo léo, định
hướng nhanh. Đồng thời nó còn là một điều kiện tốt để giáo dục phẩm chất đạo đức
và nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trong một tiết học.


Từ lâu con người đã biết sử dụng trò chơi như là một trong những phương tiện,
phương pháp giáo dục thể chất. Trong giáo dục thể chất, phương pháp trò chơi là sử
dụng các trò chơi vận động hoặc những bài tập được soạn dưới dạng trò chơi để dạy
cho học sinh. Luật lệ chơi với nhiều tình tiết của trò chơi được các em rất ưu thích.
Ví dụ: Trong một giờ học chạy ngắn ở lớp 6, khi lượng vận động trong giờ học
đã đủ, tôi cho các em chơi trò chơi “Cướp cờ”, trò chơi này tôi được tham khảo qua
các tài liệu giảng dạy và huấn luyện ở trường phổ thông. Tôi lần lượt hướng dẫn cho
học sinh cách chơi, sau đó tổ chức cho các nhóm cùng chơi, tiếp theo tôi và đội ngũ
cán sự lớp sẽ tổ chức cho cả lớp cùng chơi, dùng hiệu lệnh cho các thành viên trong
nhóm xuất phát, hai nhóm có nhiệm vụ xuất phát và chạy nhanh lên trung tâm cướp
cờ về, nếu đội nào lên sau tiếp tục đuổi và chạm nhẹ vào đối phương khi đối phương
chưa vượt qua khu vực quy định sẽ thắng cuộc. Trò chơi này vừa giúp các em có trạng
thái vui vẻ, hồ hởi phấn khởi, được tham dự cuộc chơi, tạo không khí vui tươi của giờ
học. Tôi thấy khi áp dụng trò chơi này trong bài dạy kỹ thuật xuất phát cao học sinh
vừa tích cực chơi lại có phản xạ xuất phát tốt, rất thích hợp với bài học này. Hoặc trò
chơi “Mèo đuổi chuột” thực chất là một bài tập về chạy dưới dạng hai con vật chạy
đuổi nhau.
6. Hướng dẫn tập luyện theo phương pháp thi đấu, khen thưởng.

Phương pháp thi đấu được sử dụng để kích thích sự hứng thú và tích cực hoạt
động của các em, trong các buổi tập riêng cũng như trong buổi thi hoặc kiểm tra.
Phương pháp này nhằm so sánh sức lực, đua tài để dành ngôi thứ, vị trí hoặc thành
tích cao nhất.


Ví dụ: Trong một tiết học ở phần nhảy xa, sau khi luyện tập xong tôi cho thi đấu
giữa các đại diện của tổ với nhau, về kỹ thuật và thành tích do đại diện các tổ đưa lên.
Thi đấu như thế không chỉ tạo nên sự hưng phấn cho các em thi đấu mà còn kích thích
sự sáng tạo và tích cực của mỗi em, đồng thời có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển
các phẩm chất thể lực, giáo dục các phẩm chất đạo đức, ý chí dưới sự hướng dẫn và
sự kiểm soát chặt chẽ của giáo viên. Cũng như phương pháp trò chơi, phương pháp thi
đấu khai thác được tính tích cực, sự sáng tạo, mức độ tự giác tham gia vào công việc
của mỗi thành viên rất cao, do đó dạy và học rất có hiệu quả.
Song song với trò chơi thi đấu tôi tiến hành tổ chức khích lệ, khen thưởng cho
những em tích cực tập luyện cũng như những em có thành tích cao và lấy đó làm một
căn cứ để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
7. Phương pháp dạy học bộ môn xây dựng hứng thú lấy học sinh làm trung tâm.
Mục tiêu cơ bản của bộ môn Thể dục chính là tăng cường sức khoẻ cho học sinh,
thúc đẩy để phát triển cơ thể học sinh toàn diện. Do vậy giờ học Thể dục phải đảm
bảo một lượng vận động cần thiết, nội dung học phải phong phú, tiết học phải sinh
động và có sự cuốn hút học sinh tham gia tập luyện tích cực. Để xây dựng được hứng
thú cho học sinh cần phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của các em.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá người học, không chỉ là
thách thức với học sinh mà cả với giáo viên: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, là
hoạt động dạy học hướng vào người học. Học sinh là chủ thể của hoạt động học, giáo
viên là chủ thể của hoạt động dạy, hai chủ thể phải hợp tác với nhau trong quá trình
dạy học. Đó là một tư tưởng, một quan điểm giáo dục chi phối tất cả các thành tố của



quá trình dạy học từ mục tiêu nội dung, phương pháp, đến các phương tiện tổ chức
đánh giá đều tập trung vào người học.
Thực ra quá trình dạy học gồm hai mặt gắn bó khăng khích với nhau khi nhấn
mạnh mặt này thì không có nghĩa là gạt bỏ mặt kia, do đó trong quá trình dạy học
không thể thiếu một trong hai mặt trên. Giáo dục của nhà trường là quá trình có mục
đích, có kế hoạch, được tiến hành dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu giáo viên biết
phát huy nội lực từ phía người học thì sẽ càng nâng cao được chất lượng hiệu quả của
quá trình dạy học.
8. Phương pháp củng cố từng nội dung sau khi luyện tập kỹ thuật động tác.
Đây là phương pháp rất quan trọng để giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng
đã được tiếp nhận trong quá trình học tập.
Phương pháp này đặt ra cho giáo viên yêu cầu, từ những sai sót của học sinh,
giáo viên tiếp tục phân tích, làm mẫu lại (hoặc cho học sinh thực hiện lại), trên cơ sở
đó củng cố cho học sinh.
Hoạt động này phải được thực hiện triệt để ngay trong từng tiết học, không nên
để cho nó tồn tại kéo dài, trở thành “có tật” của học sinh trong học và rèn luyện môn
Thể dục.
Ví dụ: Sau khi luyện tập kỹ thuật nhảy xa kiểu ngồi, giáo viên gọi 3 đối tượng
học sinh (giỏi, trung bình, yếu) lên thực hiện lại kỹ thuật và gọi học sinh nhận xét, sau
đó giáo viên nhận xét, sửa sai.
9. Đổi mới kiểm tra đánh giá hiệu quả học tập.
Kiểm tra, đánh giá hiệu quả học tập của học sinh là một khâu quan trọng của quá
trình dạy học. Đặt điểm nổi bật của môn Thể dục là thực hành, luyện tập là chủ yếu.


Tập luyện để rèn luyện kĩ năng, củng cố kiến thức và rèn luyện thể lực. Vì vậy, kiểm
tra đánh giá quá trình học tập của học sinh chủ yếu bằng thực hành, kiểm tra thực
hành trong mỗi tiết học (kiểm tra thường xuyên), kiểm tra thực hành định kỳ theo các
nội dung có trong phân phối chương trình. Qua kiểm tra thực hành, giáo viên có thể
đánh giá được năng lực về kiến thức tiếp thu của học sinh, về năng lực thực hiện các

kĩ năng của động tác đánh giá được sự tăng tiến về thể lực.
Việc kiểm tra, đánh giá học tập dựa vào tiêu chuẩn rèn luyện thân thể để tạo
được niềm tin vì mục tiêu học tập phấn đấu cho học sinh. Tuy nhiên một số học sinh
bị bệnh tật thì cần được nghĩ ngơi hợp lý theo chỉ dẫn của cơ quan y tế.
Ngoài ra, giáo viên có thể kiểm tra miệng trong các tiết học vào thời gian đầu,
giữa, cuối tiết học nhằm đánh giá năng lực tiếp thu kiến thức của học sinh ở mỗi động
tác, bài tập cụ thể để giáo viên rút kinh nghiệm tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học,
làm cho học sinh hiểu và nắm được kiến thức, kĩ năng nhanh hơn. Muốn kiểm tra,
đánh giá kết quả của học sinh giáo viên cần biết và hiểu những vấn đề sau:
* Xác định rõ mục đích yêu cầu kiểm tra.
- Đánh giá sự phát triển được diễn ra vào thời điểm nhất định như học kỳ, cuối
năm (kiểm tra định kỳ).
- Xác định mục tiêu kiểm tra.
- Cần xác định rõ đối tượng kiểm tra là học sinh nam, nữ, loại khoẻ, trung bình,
yếu.
- Phạm vi lĩnh vực kiểm tra như kiểm tra kiến thức hay kĩ năng hoặc cả kiến thức
và kĩ năng, hoặc vừa kiến thức, kĩ năng và thành tích.
- Thiết kế câu hỏi (viết hay vấn đáp) nội dung kiểm tra thực hành.


- Xây dựng đáp án biểu điểm.
* Việc đánh giá học sinh đã được thực sự đổi mới cụ thể là: Qua học và hành ngoài
việc chú trọng đến kiểm tra động tác, cần phải lấy tiêu chuẩn RLTT làm chổ dựa để
kiểm tra, đánh giá.
- Việc đổi mới còn mở rộng dân chủ trong đánh giá bằng cách cho học sinh tham
gia nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện động tác hay trả lời câu hỏi của bạn bè trước
khi giáo giên đưa ra kết luận.
- Việc xác định các đề kiểm tra cần căn cứ vào mục tiêu của từng chương, từng
bài, từng giai đoạn của quá trình dạy học. Trên đây là dấu hiệu cơ bản trong việc đổi
mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh mà bản thân đã áp dụng rất hiệu

quả trong quá trình giảng dạy ở trường.
V. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Sau khi áp dụng những giải pháp trên tôi nhận thấy học sinh đã có những chuyển
biến rõ rệt. Các em ngày càng có hứng thú học, say mê và yêu thích bộ môn Thể dục.
Thành tích của các em ngày càng được nâng cao.
1. Những kết quả bước đầu đạt được.
Kết quả qua khảo sát học kì I năm học 2011 - 2012 như sau:

Lớp

Tổng số

9A
9B
9C
8A
8B

36
34
33
31
31

Giỏi
SL
9
7
8

6
7

%
25,0
20,6
24,2
19,4
22,6

Khá
SL
14
12
12
15
9

%
38,9
35,3
36,4
48,4
29,0

Trung bình
SL
%
13
36,1

14
41,2
13
39,4
10
32,2
15
48,4

Yếu
SL
0
1
0
0
0

%
0
2,9
0
0
0


So sánh kết quả trên với năm học trước tôi nhận thấy rằng: Khi vận dụng đổi mới
phương pháp dạy học này, chất lượng dạy học môn Thể dục ở trường THCS Ngư
Thuỷ Bắc được nâng cao, học sinh đam mê, có hứng thú học bộ môn hơn và thực sự
là môn học phát triển thể chất toàn diện cho học sinh. Thể chất của học sinh ngày
càng tăng lên rõ rệt, các tố chất nhanh, mạnh, bền, khéo léo được phát triển mạnh.

Các bệnh học đường được giảm đi rất nhiều, chất lượng học sinh và thành tích các
môn ngày càng được tăng lên, thể hiện rõ qua các thời kỳ cụ thể:
- Môn chạy nhanh 60m khối 9.
Năm học 2009 - 2010 thành tích đạt trung bình 9’70’’ nam và 10’80’’ nữ.
Năm học 2010 - 2011 thành tích được tăng lên 9’50’’ nam và 10’70’’ nữ.
Năm học 2011 - 2012 thành tích được tăng lên 9’20’’ nam và 10’30’’ nữ.
- Môn nhảy xa khối 9.
Năm học 2010 - 2011 thành tích trung bình đạt 3,8m đến 3,9m (học sinh
nam) và 3,1m đến 3,2m (học sinh nữ).
Năm học 2011 - 2012 qua khảo sát bước đầu, thành tích được tăng lên đạt từ
4,0m đến 4,1m (học sinh nam) và 3,4m đến 3,5m (học sinh nữ).
Đội tuyển điền kinh của trường thi HKPĐ Huyện đạt được những giải sau:
Nhiều em đạt được nhiều giải cá nhân như:
Năm học 2009 - 2010:
- Nguyễn Quốc Huy giải ba môn chạy 800m.
- Nguyễn Văn Quốc giải nhì môn nhảy cao nam.
Năm học 2010 - 2011:
- Nguyễn Quốc Huy giải nhì môn chạy 200m.


- Nguyễn Quang Quảng giải ba môn nhảy cao nam.
Năm học 2011 - 2012:
- Ngô Thị Quỳnh Như giải nhì môn chạy 100m.
- Ngô Thị Quỳnh Như giải nhất môn chạy 200m.
- Ngô Thị Quỳnh Như đạt HCV môn chạy tiếp sức nữ cấp tỉnh.
- Diêu Quang Phnú đạt HCV môn bóng chuyền nam cấp tỉnh.
Kết quả trên chưa hẳn đã cao nhưng bản thân tôi đã nhận thấy rằng với sự nổ lực
và mạnh dạn học hỏi, tìm hiểu đã góp phần bé nhỏ của mình vào việc nâng cao chất
lượng môn học Thể dục ở trường THCS Ngư Thuỷ Bắc.
2. Bài học kinh nghiệm.

Qua một quá trình giảng dạy bộ môn cùng với việc đi sâu nghiên cứu các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết dạy học môn Thể dục ở trường THCS tôi xin nêu
lên những kinh nghiệm sau:
- Muốn nâng cao được hiệu quả về chất lượng giảng dạy của bộ môn Thể dục
người giáo viên khi trực tiếp giảng dạy phải không ngừng đầu tư trí tuệ, công sức vào
việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo cho học sinh thêm hứng thú. Lấy học
sinh làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của học sinh một cách tối đa.
- Giáo viên không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, thường xuyên học tập, tự
bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi
mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học của bộ môn. Phải dự giờ,
trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài mẫu để rút kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ
sư phạm cho mình.


×