Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành theo quyết định số
16/2006/QĐ- BGĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu:
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện
của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả
năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập
cho học sinh.
Như vậy, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở
trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy
học theo phương pháp dạy học tích cực tự giác nhằm giúp học sinh phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những
tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn. Làm cho Học là
quá trình kiến tạo; học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử
lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học.Nếu
rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự
học thì sẽ tạo cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong
mỗi con người, kết quả sẽ được nhân lên gấp bội. Tuy nhiên, để phát huy
tối đa hiệu quả của phương pháp tự học, đáp ứng yêu cầu của đổi mới
phương pháp dạy học lại là vấn đề trăn trở của nhiều nhà trường hiện
nay, nhất là với các trường mới thành lập khi cơ sở vật chất còn thiếu
thốn, chất lượng đầu vào của học sinh còn rất thấp, độ ngũ giáo viên còn
non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy thì lại càng là vấn đề băn
khoăn, bức xúc hơn bao giờ hết.Trong đó, môn ngữ văn lại là bài toán
nan giải với các nhà trường hơn cả. Bởi dưới tác động của nền kinh tế thị
trường, xu thế phát triển của xã hội, nhiều học sinh ngại học văn, nhiều
phụ huynh không muốn cho con em mình thi vào các ban khoa học xã
hội, vì cho rằng học ban này sẽ thi được ít vào các trường đại học, cao
đẳng và cơ hội tìm việc làm sau khi ra trường là rất khó.
Mặc dù cũng đứng trước những khó khăn, thách thức chung như
các nhà trường hiện nay, song vấn đề đổi mới phương pháp dạy học,phát
huy tính tích cực tự học trong môn ngữ văn ở trường THPT Trần Phú
Nga Sơn bước đầu đã vượt qua khó khăn, đạt được một số kết quả đáng
tự hào, chất lượng môn ngữ văn đã được nâng lên vượt bậc so với các
môn học khác trong nhà trường.Trở thành một trong những bộ môn dẫn
đầu kết quả các kì thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp, thi vào các trường đại
học, cao đẳng và tốt nghiệp.Tuy chất lượng giải chưa cao nhưng so với
một trường còn non trẻ thì kết quả đó là bằng chứng của quá trình học
hỏi ,đúc rút kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học và sự nổ lực cố
gắng của thầy và trò.
2. Phạm vi đề tài
Đối với phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm do yêu cầu riêng, bài
viết này không đề cập những vấn đề ở cấp lí luận, mà tôi chỉ trình bày
một số kinh nghiệm nhỏ về vấn đề n tính tự học môn ngữ văn ở trường
THPT Trần Phú.
3. Mục đích của đề tài
Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đề cập đến một số kinh nghiệm,
phương pháp phát huy tính tự học môn ngữ văn ở trường THPT Trần
Phú nhằm trao đổi với đồng nghiệp, giúp ích trong quá trình giảng dạy,
góp phần tháo gỡ những khó khăn trong việc dạy học văn hiện nay, đặt
biệt là để thực hiện có hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học theo
phương pháp dạy học tích cực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: phân tích các cứ liệu đã thu
thập để làm sáng tỏ từng luận điểm, khái quát thành các luận điểm.
- Phương pháp đối chiếu- so sánh.
Nội dung
1.Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1.1.Tự học và một số yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy
học
a.Tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho
học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn
là một mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh- với sự bùng nổ thông
tin, khoa học, kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão- thì không thể
nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều, mà
phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi, trọng tâm là phương pháp
tự học.Tự học là phương pháp học tích cực. Dưới sự thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ
động đạt các mục tiêu, kiến thức, kĩ năng, thái độ của chương trình, bài
học.Tự học giúp học sinh phát huy tính tính cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo, tìm tòi, phát hiện, khai thác, xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biêt,
năng lực và phẩm chất. Đặt biệt, nó còn tạo cho học sinh lòng ham học,
khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi người, kết quả học tập sẽ
được nâng lên.
Tự học không chỉ là việc tự học ở nhà trước và sau bài học trên lớp
mà tự học trong cả tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của người thầy.
b.Một số yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học
* Yêu cầu chung
- Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập
của học sinh.
- Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa
hình thức học cá nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp.
- Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh,
giữa học sinh và học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng
cường thực hành và gắn nội dung bài học vào thực tiễn cuộc sống.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng
lực tự học, tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hứng thú, nhu cầu hành động và
thái độ tự tin trong học tập của học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện,
thiết bị dạy học, đặc biệt chú ý đến những ứng dụng của công nghệ
thônh tin.
- Dạy học chú trọng đến việc đa dạng nội dung, các hình thức, cách
thức đáng giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
* Yêu cầu đối với học sinh
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động để tự khám
phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi
đúng đắn.
- Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành vận dụng
kiến thức đã học để phân tích, đáng giá, giải quyết các tình huống và các
vấn đề đặt ra từ thực tiễn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm các nhân, tích
cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn.
- Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm
hoạt động học tập của bản thân và bạn bè.
* Yêu cầu đối với giáo viên
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động
học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp
với đặc trưng bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện
cụ thể của lớp, trường và địa phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và tạo điều kiện cho học
sinh được tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình
khám phá và lĩnh hội kiến thức; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành
động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh; giúp các em phát triển
tối đa năng lực tiềm năng của bản thân,
- Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện đa dạng các câu hỏi và
bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng; tổ chức có hiệu quả các
giờ thực hành; hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách
hợp lí, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng môn học; nội dung,
tính chất của bài học…
1.2. Mục đích và những yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của việc tự học
văn
Phát huy tính tự học trong môn ngữ văn có một ý nghĩa cực kì
quan trọng, đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Để
khuyến khích và phát huy tính tự học văn của học sinh,người giáo viên
phải dựa trên những nguyên tắc chung của lí luận dạy học, đổi mới
phương pháp dạy học( như đã nêu ở phần 1) và đặc trưng bộ môn.
Trước hết, là phải dạy học theo đặc trưng bộ môn.Môn ngữ văn
trong nhà trừơng là một bộ môn khoa học nghệ thuật. Cho nên điều mà
người ta quan tâm trước hết là tính chất văn, tính nghệ thuật ngôn từ,bản
chất thẩm mĩ của nó, đây cũng là điểm khác với các bộ môn khác.Nhưng
điều không kém phần quan trọng cần nêu lên nữa là tính chất môn học,
tính chất sư phạm của môn văn.Mỗi một phân môn, giáo viên cần hướng
dẫn học sinh tự học theo đặc trưng của phân môn đó.Chẳng hạn, với các
tiết đọc văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm từ
trước,hay tìm đọc các tác phẩm có cùng chủ đề, đề tài… thiên về khả
năng tự cảm thụ, tự chiếm lĩnh các vấn đề đặt ra trong tác phẩm và trong
đời sống. Các tiết làm văn thiên về rèn luyện kĩ năng thực hành…
Thứ hai,phát huy chủ thể học sinh trong quá trình tự học.Không có
sự vận động của bản thân chủ thể học sinh thì mọi hoạt động từ phía giáo
viên đều trở thành áp đặt. năng lực chủ quan . Những năng lực chủ quan
của học sinh có được phát huy thực sự thì việc chiếm lĩnh tri thức, việc
thưởng thức tác phẩm, hứng thú học tập mới thực sự có được. và hiệu
quả giảng dạy mới bền vững. Yêu cầu phát huy chủ thể học sinh trong
quá trình tự học gắn liền với tài năng sáng tạo của giáo viên làm sao có
thể khơi động được hoạt động tâm lí học sinh nhất là tâm lí cảm thụ, khả
năng tự nắm bắt khiến thức để học sinh từng bước lớn lên về mặt hiểu
biết, tâm hồn, kĩ năng và nhân cách. Giáo viên là người nhạc trưởng điều
khiển mọi nhạc công sử dụng hài hoà nhạc cụ của mình. Nhạc trưởng
không biến thành nhạc công. Học sinh không phải là bình chứa mà là
những ngọn lửa. Giáo viên là người thắp sáng lên những ngọn lửa.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng có khả năng tự học
giống nhau.Vì thế, trong các tiết học , bài học, giáo viên phải phân loại
đối tượng học sinh, để từ đó mới có thể hướng dẫn học sinh tự học theo
khả năng của mình.Nếu không sẽ phản tác dụng của việc tự học.
Thứ ba, dạy văn gắn với đời sống. Vừa là khoa học vừa là nghệ
thuật, môn văn có những điều kiện thuận lợi để kết hợp việc học tập trên
lớp với hoạt động xã hội.là môn học, ngoài việc cung cấp tri thức cho
học sinh, giáo viên thường xuyên hướng dẫn, rèn luyện và kiểm tra
những kĩ năng cơ bản cho học sinh trên lớp. Sau quá trình lĩnh hội, học
sinh có thể vận dụng tri thức và kĩ năng đã học vào hoạt động ngoài đời.
Có thể xem hoạt động văn học ngoài xã hội của học sinh là khâu vận
dụng tri thức và kĩ năng tự do để phát huy năng khiếu và thiên hướng
văn học của học sinh. Vận dụng tri thức vào hoạt động học tập trên lớp
là bắt buộc với mọi học sinh, đồng thời giáo viên khuyến khích học sinh
tham gia công tác xã hội bằng hoạt động văn học, Công việc này vừa có
ý nghĩa gắn liền việc dạy- học văn gắn với đời sống vừa có ý nghĩa vận
dụng cụ thể tri thức học sinh đã lĩnh hội vào thực tiễn.
Thứ tư, phối hợp các phương pháp . Mỗi phương pháp có vị trí và
tính năng riêng của nó cần được vận dụng sáng tạo trong từng bài học và
từng trường hợp cụ thể.Để tránh tâm lí mệt mỏi thụ động và gây được
hứng thú, ấn tượng cho học sinh, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt
động tự học của học sinh. Cũng cần nói thêm là việc sử dụng phương
pháp nào cũng còn tuỳ thuộc vào sở thích, sở trường của mỗi giáo viên.
Nghề dạy văn là một nghề sáng tạo, cho phép cá nhân giáo viên được
tương đối tự do trong việc lựa chọn những phương pháp tối ưu.
2.Thực trạng của vấn đề
Nói một cách tổng quát thì nhiệm vụ của môn văn trong nhà trường
phổ thông là góp phần hình thành và phát triển nhân cách xã hội chủ
nghĩa cho học sinh bằng phương tiện đặc thù của môn văn. Khái niệm
phát triển trong giáo dục được hiểu một cách động và toàn diện trên
nhiều phương diện( hiểu biết, tâm hồn, kĩ năng, phẩm chất và hành
động).Nói đến tính chất của bộ môn văn trong nhà trường là nói đến yêu
cầu về nội dung nhận thức cho học sinh. Dạy văn có nhiệm vụ cung cấp
cho học sinh những hiểu biết về thế giới bên ngoài, xã hội và con
gười.Hiểu biết thế giói bên ngoài để hiểu chính bản thân mình. Nhận
thức để tự nhận thức.Tác phẩm văn chương chỉ thực sự phát huy được
sức mạnh của nó khi nào nó khơi dậy được từ bên trong người tiếp nhận
những hoạt động tâm lí sáng tạo. Cho nên cung cấp kiến thức cốt là để từ
đó học sinh tự ý thức về mình để sống có nhân cách hơn, cao thượng
hơn, trong sạch hơn,có bản lĩnh hơn. Mục đích cao nhất của dạy văn
không phải chỉ là thông báo một số kiến thức mà là cung cấp những khả
năng tự học sinh giải quyết các vấn đề bài toán cuộc đời của bản thân
họ.
Tuy nhiên, để thực hiện được vấn đề này lại là điều không đơn giản
khi mà trong thực tế hiện nay một bộ phận không nhỏ học sinh và chính
cảc bản thân phụ huynh ngại, thậm chí không muốn cho con em mình
học văn nói riêng và ban KHXH nói chung trước áp lực thi cử và chọn
ngành nghề.Bởi thế,công việc giảng dạy môn ngữ văn trong các nhà
trường phổ thông hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Các em học theo kiểu
đối phó để có đủ điểm điều kiện dự thi tốt nghiệp.Trong các giờ học
thường không tập trung, chú ý, không có ý thức phát biểu xây dựng bài
thậm chí còn mang môn khác ra làm( tình trạng này thường xảy ra ở học
sinh học các lớp chọn của ban KHTN, các em chỉ đầu tư vào môn thi đại
học mà không quan tâm đến môn trái ban); về nhà không soạn bài, chuẩn
bị bài trước khi đến lớp. Trong các giờ kiểm tra thường sao chép tài
liệu Làm thế nào để các em yêu thích môn học? Làm thế nào để bản
thân các em học sinh thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của bộ môn
văn? Đây quả là những câu hỏi làm đau đầu những người thầy, người
cô trực tiếp đứng lớp.
Ngoài ra, về phía giáo viên trước áp lực của cuộc sống và tâm lí
ngại học văn của học sinh thì một bộ phận đã không chuyên tâm vào
công việc giảng dạy, đầu tư chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học,
chỉ dạy cho bài, hết tiết cho nên nhiều giờ học trở nên buồn tẻ, không
cuốn hút được học sinh, hiệu quả không cao
Bên cạnh đó, ở một số trường phổ thông cơ sở vật chất còn nghèo
nàn chưa trang bị đủ các điều kiện về máy móc, băng đĩa, tranh ảnh,
phim tư liệu, các phương tiện hỗ trợ khác đáp ứng yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học. Chính vì vậy mà việc đổi mới phương pháp dạy
học- tự học môn văn nói chưa được chú ý, quan tâm thoả đáng của cả hai
phía người dạy và người học.
3. Giải pháp và`các biện pháp để tổ chức thực hiện
3.1.Tự học thông qua việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
Qua thực tế giảng dạy, chúng ta thấy khâu chuẩn bị bài ở nhà của
học sinh thường bị coi phụ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học
sinh.Mấy phút còn lại cuối cùng còn lại của giờ học, giáo viên chỉ dặn
học sinh soạn những câu hỏi trong sách giáo khoa và kết quả học sinh
chuẩn bị đến đâu giáo viên cũng không quan tâm. Việc chuẩn bị của học
sinh ở nhà thường không ăn khớp gì hoặc có liên quan gì mấy đến hoạt
động của thầy và trò trên lớp.Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại, sự
thành công của một giờ học trên lớp phụ thuộc rất lớn vào sự chuẩn bị
bài ở nhà của học sinh.Bởi thời gian học ở trên lớp là rất hạn chế mà
kiến thức bài học đòi hỏi phải lĩnh hội là vô cùng lớn. Do vậy việc tự
học ở nhà của các em là hết sức quan trọng.
Chuẩn bị bài ở nhà là bước tập dượt cho sự cảm thụ , tiếp nhận,
lĩnh hội, tri thức trên lớp được sâu sắc hơn. Bằng kinh nghiệm sống và
kinh nghiệm văn học của bản thân, học sinh trực tiếp đi sâu vào thế giới
tác phẩm, vào vấn đề trọng tâm của bài học một cách dễ dàng.
Ngay từ bước chuẩn bị bài ở nhà, vẫn cần được định hướng vào
quỹ đạo cần thiết. Điều đó không hề mâu thuẫn gì với xu hướng tự bộc
lộ, tự học của học sinh nếu giáo viên biết khơi gợi, dẫn dắt sự cảm thụ
chủ quan trực tiếp của bản thân các em. Nội dung công việc chuẩn bị ở
nhà của học sinh có nhiều mặt, đa dạng,tuỳ thuộc vào từng bài học, tiết
học.Có thể là đọc tác phẩm, đọc trước bài học, trả lời các câu hỏi trong
sách giáo khoa hay câu hỏi, bài tập do giáo viên định hướng trước hoặc
tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về chi tiết nghệ thuật, một kiến
thức cụ thể, cần thiết có liên quan đến bài học v.v… Nhưng nội dung
chủ yếu vẫn là nhằm khơi dậy hứng thú, tâm thế của học sinh và định
hướng học sinh vào những vấn đề then chốt của nội dung bài học trên
lớp. Câu hỏi chuẩn bị tuyệt đối không được tuỳ tiện. Mỗi câu hỏi cho
học sinh vừa có tác dụng khơi gợi hứng thú, vừa hướng dẫn đi vào thế
giới trung tâm của tác phẩm, của bài học, vừa có tác dụng chuẩn bị cho
hoạt động khám phá của giáo viên và học sinh ở trên lớp.
Đến lớp giáo viên phải kiểm tra công việc chuẩn bị bài của học
sinh ở nhà.Đây không chỉ là một công việc thường nhật của thầy giáo
trước khi bắt tay vào dạy bài học mới. Đây còn là bước cần thiết để tạo
tâm thế,dẫn dắt học sinh đi vào bài học mới một cách đầy hứng khởi, say
mê.
Ngoài ra,giáo viên còn phải giới thiệu các tài liêu tham khảo,
hướng dẫn các em tự học, tự đọc một cách có hiệu quả.
Ví dụ: sau khi học xong tiết 77 bài Hầu trời của Tản Đà( Ngữ văn
11- tập 2) giáo viên dành 5 phút hướng dẫn học sinh chuẩn bị Tiết 78-79
bài Vội vàng của Xuân Diệu với những nội dung như sau:
1. Tóm tắt những nét cơ bản về cuộc đời, con người và sự nghiệp
văn học của nhà thơ Xuân Diệu.
2. Giải thích vì sao Xuân Diệu “ là nhà thơ mới nhất trong các nhà
thơ mới”( Hoài Thanh).
3.Bài thơ Vội vàng có thể chia làm mấy phần? nêu ý chính của
từng đoạn.
4. xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ
có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của
thời gian?
5. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống quen thuộc được tác giả cảm
nhận như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân
Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
6. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu
trong đoạn cuối bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà
anh/chị cho là mới mẻ, độc đáo nhất.
7. Tìm đọc những bài về Xuân Diệu và những bài nghiên cứu thơ
Xuân Diệu( Xuân Diệu- tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.H.năm
2000. Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh-Hoài Chân, Nxb Văn hoá thông
tin TP HCM )
8.Chuẩn bị giấy A4- mỗi học sinh một tờ, giấy Ao- mỗi tổ một tờ.
Chắc chắn với sự chuẩn bị như trên tiết học của buổi tiếp theo sẽ
rất thành công- khi cả giáo viên và học sinh đều có tâm thế tốt cho bài
học.
2.2.Tự học trên lớp của học sinh ( trong các giờ học chính
khoá)
Tự học không chỉ là việc tự học ở nhà trước và sau mỗi bài học
trên lớp mà tự học trong cả tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của người
thầy.Trước đây, nhiều người có quan niệm sai lầm cho rằng tự học chỉ là
việc học ở nhà của học sinh.Hiện nay trước yêu cầu của đổi mới giáo
dục, đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta đang nỗ lực chuyển biến từ
học tập thụ động sang học tập chủ động, dạy và học chú trọng rèn luyện
phương pháp và phát huy năng lực tự học của học sinh.Trong các tiết
học trên lớp, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học
tập.Trên lớp, học sinh hoạt động là chính. Giáo viên với vai trò là người
gợi mở, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh
luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ sư phạm lành nghề,
có trình độ chuyên môn sâu rộng và có sự chuẩn bị bài dạy thật chu đáo
mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi
diễn biến ngoài tầm của giáo viên.
Một giờ học chính khoá trên lớp của các em là vô cùng quan trọng
và hữu ích. Vì thế, giáo viên phải tổ chức, điều khiển tốt việc tự học của
học sinh.Trước hết, giáo viên cần phải tạo được tâm thế, hứng thú cho
học sinh vào bài học mới.Tuỳ thuộc vào nội dung,yêu cầu của bài học
mà sử dụng các hình thức, phương pháp cho phù hợp.Có thể sử dụng
phương pháp phát vấn, thảo luận nhóm, phiếu học tập…nhưng điều quan
trọng, giáo viên phải đưa ra được ra được những câu hỏi có vấn đề, câu
hỏi gợi mở,liên quan đên vấn đề trọng tâm của bài học để thu hút sự
tranh luận, tìm tòi của học sinh và tạo ra được khoảng lặng để học sinh
suy nghĩ và những phút ồn ào, sôi nổi của học sinh thảo luận: tránh sự áp
đạt, khiên cưỡng. Mặt khác, để việc tự học phát huy tối đa hiệu quả, còn
phải luôn chú ý đến đối tượng học sinh, làm thế nào mà tất cả học sinh
trong lớp từ giỏi- khá- trung bình- yếu đều có cơ hội được thể hiện hiểu
biết của mình.cơ hội được tiếp nhận kiến thức bài học.Cuối mỗi giờ học,
giáo viên phải luôn chú ý đến việc củng cố phát triển kiến thức bài học
và chuẩn bị cho việc học tập bài mới Đây không phải là công việc vội
vã lấy lệ khi trống hết giờ đã điểm.Đây là khâu quyết định phần lớn hiệu
quả của giờ học sắp tới.Học sinh có hứng thú chờ đợi giờ văn hay
không, những vấn đề trong bài học đã lay động suy nghĩ của học sinh
hay chưa… Đó là những tiền đề tâm lí cần thiết để học sinh bước vào
giờ học tới.
Ví dụ: thiết kế bài dạy tiết 37- Sóng của Xuân Quỳnh( ngữ văn 12-
tập 1).
Đây là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh trong thời lượng 45 phút
của một tiết học để đạt được mục tiêu cần đạt của bài học là điều không
dễ, nó đòi hỏi người thầy phải có một phương pháp thích hợp, phát huy
được tích tích cực, chủ động của học sinh, đặc biệt là khả năng tự học.
Hoạt động 1. Kiểm tra bài cũ( hình thức vấn đáp)
Tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện như thế nào trong
đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm?
Hoạt động 2. Dẫn vào bài mới
Gv cho học sinh nghe bài hát Thuyền và biển ( lời thơ Xuân
Quỳnh, nhạc Phan Huỳnh Điểu).
Hoạt động 3.
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm.
1. Cảm nhận của anh/chị về cuộc đời và phong cách thơ Xuân
Quỳnh qua phần tiểu dẫn.
2. Giới thiệu xuất xứ, vị trí của bài thơ Sóng
Hoạt động 4.Đọc hiểu văn bản.
* Đọc diễn cảm bài thơ
* Tìm hiểu bài thơ
Giáo viên chia lớp thành 4 tổ thảo luận nhóm với các 4 câu hỏi
sau:
1. Anh/chị có nhận xét gì về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ? Âm
điệu, nhịp điệu ấy được tạo nên bởi những yếu tố nào?
2. Hình tượng bao trùm, xuyên xuốt bài thơ là hình tượng Sóng.
Mạch liên kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân
tích hình tượng này.
3. Giữa sóng và em trong bài thơ có mối liên hệ như thế nào?
Anh/chị có nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ?
4. Bài thơ là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Theo
cảm nhận của anh/chị , tâm hồn của người phụ nữ đó có đặc điểm gì?
Học sinh thảo luận, sau đó cử đại diện trình bày. Giáo viên theo
dõi, đưa ra những gợi mở và định hướng. Và có thể chọn một khổ thơ
bình giảng cho các em nghe.
Hoạt động 5. Tổng kết
Khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Sóng?
Hoạt động 6. Luyện tập và củng cố ( Yêu cầu học sinh về nhà làm)
1. Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Sóng
2. Phân tích hình tượng Sóng để làm rõ tâm hồn người phụ nữ
trong tìmh yêu.
3. Cách thể hiện tình yêu và nỗi nhớ của Xuân Quỳnh trong đoạn
thơ sau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhứ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về em một phương
4. Cảm nhận về đoạn thơ:
Cuộc đời tuy dài thế
Mây vẫn bay về xa
2.3. Tự học thông qua hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ văn
học
Ngoài các giờ học chính khoá trên lớp, giáo viên cần tổ chức cho
học sinh tự học thông qua các hoạt động hữu ích ngoài giờ lên lớp.Bởi
thực tế, theo phân phối chương trình của bộ quy định có nhiều tiết, nhiều
bài không thể trong 45 phút của tiết học, giáo viên có thể hướng dẫn, tổ
chức cho học sinh có thể tự lĩnh hội hết được các yêu cầu cần đạt về kiến
thức, kĩ năng và thái độ trong bài học.
Mặt khác, là môn học có tính nghệ thuật,văn học có quan hệ gần
gũi với các môn nghệ thật khác như sân khấu, kịch, điện ảnh, các
phương tiện nghe nhìn khác như đài truyền thanh, vô tuyến truyền hình
nên khả năng mở rộng hoạt đông văn học cho học sinh ngoài đời sống là
có cơ sở thực tế.Có nhiều hình thức để kết hợp việc tự học trên lớp và tự
học qua các hoạt động văn học ngoài xã hội học sinh sẽ được mở rộng
và khơi sâu khiến thức văn học đã được thu nhận ở trường. Hình thức
thứ nhất, có thể cho học sinh đi xem phim, xem kịch chuyển thể từ văn
bản để nhận thức rõ hơn, cảm thụ sâu hơn những phương tiện ngôn ngữ
nghệ thuật khác nhau. Qua đó cảm xúc thể loại của học sinh cũng được
thử thách nhiều hơn. Chẳng hạn, khi học đến thể loại chèo của văn học
dân gian, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh xem các trích đoạn từ các
vở chèo tiêu biểu như: Kim Nham, Quan âm thị Kính…Hay khi học đến
thể loại kịch, học sinh có thể xem các trích đoạn từ các vở kịch: Vũ Như
Tô-Nguyễn Huy Tưởng, Hồn Trương Ba, da hàng thịt- Lưu Quang Vũ…
Hình thức thứ hai là bằng các hoạt động văn học: ngâm thơ, đọc
thơ hoặc sắm vai trên khấu.Các em có thể thuyết trình tác phẩm, kể
chuyện, nói chuyện văn học, gặp gỡ bạn yêu văn v.v…Hình thức này có
thể tổ chức thông qua các buổi ngoại khoá theo các chuyên đề ( có thể
theo từng lớp, khối lớp). Chẳng hạn:
- Lớp 10: Chuyên đề ca dao Việt Nam, truyện cổ tích Việt Nam,
tác gia Nguyễn Trãi, tác gia Nguyễn Du, Thơ Đường v.v…
- Lớp 11: chuyên đề Thơ mới, văn học hiện thực Việt Nam 1930-
1945, văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tác gia Xuân Diệu, Nam Cao v.v…
- Lớp 12: chuyên đề hình ảnh người lính trong thơ ca Việt Nam
1945- 1975, Tình yêu quê hương đất nước trong thơ ca kháng chiến
v.v…
Hoặc thông qua hình thức các câu lạc bộ văn học như: câu lạc bộ văn
học dân gian, Vườn ươm văn học, hay các cuộc thi, các liên hoan, hội
diễn văn nghệ.Ở đây, các em vừa được kiểm tra kiến thức đã học, vừa
được thể hiện tài năng, năng khiếu văn chương và các khả năng khác của
bản thân mà sau này rất có ích trong cuộc sống như: tập làm người dẫn
chương trình, làm diễn viên, khả năng tổ chức, điều khiển các hoạt động
tập thể, khả năng thuyết trình trước đám đông v.v…
Hình thức thứ ba là bằng các hoạt động tham quan, píc níc, học tập
thực tế ngay trên quê hương.Ở quê hương Nga Sơn, giáo viên có thể tổ
chức cho các em đi đến các địc chỉ: động Từ thức, đền- núi Mai An
Tiêm… kết hợp học tập và tham quan.
Ví dụ: Tổ chức ngoại khoá chuyên đề tác giả Nam cao - ngữ văn
11- chương trình nâng cao. Có thể áp dụng trong một lớp hoặc một vài
lớp tiêu biếu trong khối 11,và tuỳ vào thời gian để lựa chọn câu hỏi và
nội dung chương trình cho phù hợp điều kiện cụ thể ở từng lớp, từng
trường.
* Câu hỏi và nội dung chuẩn bị:
1. Nêu những nét cơ bản về cuộc đời, con người Nam Cao.
2. Nêu vắn tắt sự nghiệp văn học của Nam Cao.
3. Trình bày quan điểm nghệ thuật của Nam Cao và kể tên những
tác phẩm được xem là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn trước và sau
cách mạng tháng tám năm 1945.
4. Tóm tắt tác phẩm Đời thừa và gải thích ý nghĩa nhan đề.
5. Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo và nêu chủ đề của tác phẩm.
6. Phân tích về những giấc mộng văn chương của nhà văn Hộ trong
Đời thừa
7. Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người cảu Chí Phèo
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
7. Phân tích bi kịch tinh thần của nhà văn Hộ.
8. Hãy giải thích tại sao Chí Phèo lại khao khát trở về cuộc sống
Lương thiện
9. Hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo.
10. Vì sao sau khi giết được Bá Kến Chí Phèo lại tự kết liễu đời
mình.
11. Sau lúc ở tù về Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến mấy lần. Kể lại
ngắn ngọn nội dung sự việc mỗi lần đến của Chí Phèo.
12. Cảm nhận của anh/chị về nước mắt và tiếng khóc của Chí
Phèo.
13. Quá trình tha hoá và thức tỉnh của Chí Phèo.
14. Hãy phân tích quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trong tác
phẩm Đời thừa: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay
sáng tạo những gì chaưa ai có”
15. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo kể từ
khi gặp Thị Nở cho đến kết thức cuộc đời.
* Chương trình buổi ngoại khoá
Phần 1. Kiểm tra kiến thức - Hình thức trắc nghiệm khách quan.
( 10 điểm)
Giáo viên dựa vào phần câu hỏi tổng hợp đã cho học học sinh
chuẩn bị ở trên, ra 10 câu hỏi ngắn cho học sinh trả lời nhanh tròng 30
giây, mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm.
Phần 2. Năng khiếu - Hình thức đóng kịch ( 20 điểm)
Giáo viên cho học sinh lựa chọn đóng 2 trích đoạn : Qúa trình thức
tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở và bi kịch tinh thần đau đớn của
nhân vật Hộ sau khi lấy tiền nhuận bút và đến lúc tỉnh rượu.
Phần 3. Tài năng - Hùng biện (20 điểm)
Giáo viên cho học sinh bốc thăm câu hỏi và thuyết trình trong
khoảng 5-7 phút ( câu hỏi ở phần chuẩn bị),mỗi đội chọn một học sinh
tiêu biểu nhất.
* Hình thức tổ chức:
Có thể chia làm 2,3 hoăc 4 đội tuỳ vào tình hình cụ thể ở từng lớp,
trường.
Đây sẽ là những sân chơi bổ ích giúp các em thay đổi không khí
học tập sau những giờ học tập căng thẳng trên lớp, nhưng quan trọng là
sẽ giúp các em tự học một cách có hiệu quả, mở rộng, khắc sâu kiến thức
ngoài các tiết học trên lớp, rèn luyện các kĩ năng giao tiếp ứng xử,áp
dụng kiến thức trong sách vở vào thực tiễn cuộc sống,tìm được niềm say
mê. yêu thích môn học. Tuy nhiên, muốn thực hiện và tổ chức thành
công hình thức tự học này, bản thân giáo viên phải đầu tư thơì gian, công
sức, trí tuệ. Phải hết sức linh hoạt, chủ động lên kế hoạch báo cáo tổ
chuyên môn, Ban giám hiệu,phối hợp với đồng nghiệp,tổ chuyên môn,
các tổ chức đoàn thể: thanh niên, công đoàn… mới có thể được hỗ trợ về
cả về vật chất lẫn tinh thần.
2.4. Tự học thông qua việc chấm trả bài làm văn
Theo chúng tôi khâu ra đề và chấm trả bài cho học sinh cũng hết
sức quan trọng trong việc giúp học sinh tự học. Về phía người thầy phải
đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ trong việc ra đề và chấm bài., không
được ra đề một cách tuỳ tiện cho học sinh làm bài rồi cho điểm, không
nhận xét khen chê. Khi ra đề phải bám sát nội dung chương trình học,
phù hợp với trình độ học sinh, đề ra có tính chất phân hoá đối tượng học
sinh theo các mức giỏi- khá -trung bình, khuyến khích sự sáng tạo của
học sinh tránh được việc học sinh chép bài trong các tài liệu.
Sau mỗi tiết kiểm tra, luyện tập,thu bài chấm, giáo viên phải biết
trân trọng thành quả lao động của các em. Chấm bài phải phê, nhận xét
những mặt ưu, nhược điểm, sửa các lỗi sai về chính tả, câu, từ… rồi mới
cho điểm. Có như vậy các em mới biết được mình đã làm được gì, chưa
làm được gì, thiếu sót gì để có hướng khắc phục cho các bài tiếp theo, và
đây cũng là một hình thức học rất có hiệu quả
2.5. Tự học thông qua việc luyện đề thi.
Ngoài các tiết kiểm tra theo phân phối chương trình học trên lớp,để
phát huy tính tự học, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng viết bài, giáo viên cần
cho học sinh làm quen với các dạng đề thi các cấp như: đề thi học sinh
giỏi, tốt nghiệp, đại học, cao đẳng. Qua việc luyện đề như vậy chắc chắn
các em rèn luyện được năng lực phân tích đề, diễn đạt,cách sắp xếp ý,
cách huy động kiến thức ở bề sâu cũng như bề rộng… Tất nhiên, hình
thức tự học này không phải bắt buộc cho tất cả các đối tượng học sinh
mà chỉ dành cho học sinh khá, giỏi.
Ví dụ sau khi học xong Tiết 22 và 25-26 ( tác giả Tố Hữu và bài
thơ Việt Bắc), giáo viên ra đề cho học sinh ôn luyện ở nhà nhằm cũng
cố, khắc sâu và mở rộng kiến thức cũng như khả năng vận dụng kiến
thức ở các mức độ thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao.
1. Tóm tắt các chặng đường thơ Tố Hữu và chứng minh rằng thơ
Tố Hữu gắn liền với những mốc lịch sử quan trọng của đất nước.
2. Những nét chính trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
3. Trình bày cách hiểu của anh (chị) vể nhận định của Xuân Diệu:
“ Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến trình độ rất đỗi trữ tình”
4. Phân tích những biểu hiện của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
5. Nêu hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa, vị trí của bài thơ VIệt Bắc.
6. Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
7. Cảm nhận của anh /chị về cảnh sắc thiên nhiên và con người
Việt Bắc qua đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
8. Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt bắc của Tố
Hữu.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
9. Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố
Hữu.
Những đường Việt Bắc của ta
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng
10.Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố
Hữu.
Mình đi có nhớ những ngày
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Lưu ý : Không bắt buộc học sinh làm tất cả các đề trên mà tuỳ vào
đối tượng học sinh, từng lớp mà yêu cầu các em làm theo khả năng của
mình.Chẳng hạn đối với học sinh trung bình chỉ cần các em làm các đề
1,2,5,8,9,10. Còn các đề 3,4,6,7 dành cho học sinh khá giỏi. Bài làm
dưới hình thức dàn bài chi tiết. Và điều quan trọng là giáo viên không
phải chỉ ra đề cho học sinh tự làm, rồi các em muốn làm hay không làm
cũng không quan tâm. Mà giáo viên phải thu, chấm bài cho học sinh và
phải tranh thủ trong các tiết học phụ đạo, học bồi dưỡng chữa một số đề
khó cho các em. Có như vậy thì hình thức tự học này mới mang lại hiệu
quả.( Hình thức tự học này bản thân tôi đã áp dụng rất có hiệu quả trong
việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn cấp trường, cấp tỉnh hàng năm
trong hoàn cảnh các em phải học nhiều môn học, lịch học ở trên trường
dày kín.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả từ quan sát thực tế
Quan sát việc học tập trong các giờ học, giờ ôn tập, ngoại khoá và
vở soạn, vở bài tập về nhà của học sinh kết quả như sau :
- Trong các giờ học không khí học tập sôi nổi, nghiêm túc và có
tinh thần tự giác cao.
- Học sinh chủ động ,tự tin và sáng tạo trong các giờ học. Đặc biệt
nhiều tiết ngoại khoá đã để lại trong lòng các em những ấn tượng sâu
đậm, những kỉ niệm khó quên( tâm sự của học sinh sau các buổi học ).
- Bài tập, câu hỏi giao về nhà, đa phần các em đều hoàn thành ; các
phương tiện, dụng cụ chuẩn bị cho bài học các em đều có ý thức chuẩn
bị chu đáo.
4.2. Nghiên cứu qua sản phẩm
Trong quá tình giảng dạy môn ngữ văn, chúng tôi đã áp dụng triệt
để phương pháp trên. Kết quả, kể từ khi thành lập trường, tháng 8 năm
2000 đến nay, đặc biệt từ năm 2006, khi chúng ta tiến hành thay SGK,
đổi mới phương pháp dạy học trải qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh, thi
vào các trường đại học, cao đẳng và thi tốt nghiệp, môn văn của chúng
tôi luôn có những thành tích đáng khen ngợi.
Bảng 1: Kết quả các kì thi
Năm học Kết quả thi
HS giỏi tỉnh Đại học Tốt nghiệp
2006-
2007
2 giải 27 học sinh 100 %
2008-
2009
3 giải 31 học sinh 100 %
2010-
2011
2 giải 31 học sinh 100 %
2009-2010 3 giải 34 học sinh 100 %
2012-2013 4 giải
Bảng 2: Kết quả giảng dạy ( trung bình chung cho các lớp dạy qua các
năm học)
Năm học Điểm
8.0- 10 6.5- 7.9 5.0- 6.4 4.9- 3.0 Dưới
3.0
2008-
2009
8 % 45 % 40 % 7 % 0 %
2009- 10 % 46 % 39 % 5 % 0 %
2010
2010-
2011
9 % 46 % 41 % 4 % 0 %
2011-
2012
11 % 47 % 39% 3% 0 %
2012-
2013
12 % 50 % 37% 1 % 0 %
Hàng năm, số lượng học sinh đăng kí vào các lớp ban KHXH rất
đông, trung bình mỗi khối các năm trước là 3 lớp; hai năm trở lại đây là
2 lớp, trong khi đó nhiều trường số lượng các em đăng kí học ban này là
rất ít, nhiều khi không đủ đủ để xếp một lớp. Con số đó đã nói lên kết
quả giảng dạy đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tinh tự học môn
ngữ văn ở trường chúng tôi đã tạo được niềm tin, sự say mê, yêu thích
môn học của học sinh.
Kết luận
Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tự học môn ngữ văn
là công việc không giản đơn, có con đường chung nhưng cũng có nghệ
thuật riêng ở từng người, từng trường, áp dụng cho từng lứa học sinh qua
mỗi năm.Do vậy, ở đây chúng tôi chỉ xin nêu ra một số kinh nghiệm
trong việc phát huy tính tự học môn ngữ văn ở một trường THPT còn
non trẻ nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn ngữ ngữ văn, khơi dậy
niềm đam mê, yêu thích môn học của học sinh hướng tới mục tiêu giáo
dục của bộ môn là góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
cho học sinh.Muốn làm được điều này, nó đòi hỏi người giáo viên phải
có sự kiên trì, phấn đấu không mệt mỏi và một niềm lạc quan, tin tưởng,
yêu nghề, yêu người.
Kiến nghị, đề xuất
* Đối với trường:
-Tăng cường chăm lo, xây dựng cơ sở vật chất, đồ dùng, thiết bị,
tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập.
- Hỗ trợ kinh phí học tập ( cho các buổi ngoại khoá, hoạt động
ngoài giờ lên lớp…)
* Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hoá
- Tổ chức các chuyên đề, hội nghị trao đổi phổ biến kinh nghiệm,
phương pháp đổi mới dạy học văn.
- Biên soạn và cung cấp các tài liệu tham khảo về cho các nhà
trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm, phương pháp đổi mới phương
pháp dạy học, phát huy tính tự học môn ngữ văn mà chúng tôi đã thực
hiện trong quá trình giảng dạy nhằm khơi dậy niềm đam mê, yêu thích
môn học, giúp các em học sinh nắm vững kiến thức tham dự các kì thi
học sinh giỏi, tốt nghiệp, đại học … Tuy rằng đã đạt một số kết quả ban
đầu, nhưng đây chỉ là một sáng kiến kinh nghiệm của bản thân và tổ
chuyên môn được áp dụng ở trường THPT Trần Phú, chắc chắn sẽ
không tránh khỏi thiếu sót hạn chế. Vì vậy, chúng tôi rất mong được bạn
bè đồng nghiệp tham khảo và cho ý kiến để chúng tôi có thể giảng dạy
đạt kết quả cao hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Nga Sơn, ngày 25 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết,
không sao chép nội dung của người
khác.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người thực hiện
Trần Thị Mai