Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tìm hiểu khái niệm hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.68 KB, 7 trang )

TÌM NGHĨA KHÁI NIỆM HIỆN ĐẠI
Vương Trí Nhàn
Những cách hiểu khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau

Hàng ngày chúng ta vẫn thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại. Trên báo chí thời sự,
trong các văn kiện chính trị cụm từ “quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá” hoặc “sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung xác định.
Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên thế giới, và hiện đại hoá
là đưa sự phát triển của xã hội ta lên một bước làm cho chúng ta không thua kém những
nước đó.
Đây chính là nghĩa thông thường nhất của hai chữ hiện đại.
Một nghĩa khác của từ là nghĩa được dùng trong khoa sử học. Ở các trường cấp ba (nay
gọi là phổ thông trung học) học sinh được giảng như sau: Không kể thời cổ đại thì từ Cách
mạng tư sản Anh trở về trước là lịch sử trung đại; từ Cách mạng Anh tới Công xã Paris
(1871) là lịch sử cận đại; sau Công xã Paris, lịch sử bước sang một trang mới là lịch sử hiện
đại. (Gần đây, nhiều sách giáo khoa có sự điều chỉnh, coi lịch sử hiện đại bắt đầu từ sau
Cách mạng tháng Mười Nga.) Đây là phác đồ chung của lịch sử thế giới. Còn trong từng
nước, lại có sự xác định cụ thể. ở Trung Hoa lịch sử từ chiến tranh Nha phiến 1840 đến
1919 - phong trào Ngũ Tứ là lịch sử cận đại; 1919 đến 1949 là hiện đại, sau 1949 là đương
đại. Riêng ở Việt Nam, lịch sử cận đại bắt đầu từ khi người Pháp đánh chiếm nước ta (1858)
cho tới 1930, năm thành lập Đảng Cộng sản Đông dương. Từ sau 1930 là lịch sử hiện đại.
Những cái mốc để phân biệt lịch sử vừa nói cũng là mốc thường dùng để phân chia văn
học, và trong nhiều trường hợp trở thành quy phạm có tính chất Nhà nước. Viện Văn học
chia ra các Ban cổ-cận, Ban hiện đại theo tiêu chuẩn này. Khi làm mục lục các bài viết in ra
hàng năm trên Tạp chí Văn học và Tổng mục lục 40 năm những người biên soạn cũng theo
tiêu chuẩn này để sắp xếp bài vở.
Thế nhưng cũng có những cách hiểu khác, tồn tại từ rất sớm.
Khi Vũ Ngọc Phan viết Nhà văn hiện đại (1941) ông kể gộp vào sách những nhà văn
mà sự nghiệp nổi lên từ đầu thế kỷ XX.
1
Sau đó mấy năm, trong bài viết nhan đề Sự tiến triển của văn học Việt Nam hiện đại


2
,
ông vẫn giữ nguyên cách hiểu như vậy.
Một tác giả khác, Đào Duy Anh, trong Việt Nam văn hoá sử cương cũng coi văn học
hiện đại là phần văn học dùng chữ quốc ngữ mà đến thế kỷ XX mới trở nên phổ biến và phát
triển mạnh. Hoặc khi làm Biểu liệt kê tác giả tác phẩm cho cuốn Việt Nam văn học sử yếu,
Dương Quảng Hàm đã chia văn học Việt Nam theo các thế kỷ và kết thúc bằng mục Hiện
đại (Thế kỷ XX).
3
Ở đây, cũng nên lưu ý có những người không dùng tới mấy khái niệm như hiện đại, thế
kỷ XX, song trong các bài viết của mình, vẫn làm toát ra một quan niệm như vậy. Đó là
trường hợp của Lê Thanh hoặc Mộc Khuê, trong các tác phẩm đã in hoặc các bài đăng báo.
Một thời gian dài, ở ta quan niệm “văn học hiện đại, tức là văn học thế kỷ XX” này bị
coi là sơ lược, không có triển vọng. Mãi tới gần đây, nhiều người mới quay lại với cách
phân chia ấy chẳng hạn đó là trường hợp bộ Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-
1930 của Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng (bản in lần đầu 1988), hoặc công trình nghiên
cứu Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900-1945 của nhóm Mã Giang Lân (in ra năm
2000). Cách phân chia này, cũng đã được áp dụng với bộ sách giáo khoa văn học dùng cho
các trường Phổ thông trung học in ra năm 2000 (mới được chỉnh lý).
Theo ý chúng tôi trong nghiên cứu văn học đây là cách hiểu nên được thống nhất sử
dụng. Nó hợp lý bởi lẽ nó không đặt văn học trong sự phụ thuộc một cách máy móc vào các
sự kiện lịch sử mà có chú ý tới tính độc lập tương đối của văn học. Nói cách khác nó xem
xét văn học dưới góc độ văn hoá, tức là những yếu tố có tính chất lặp đi lặp lại trong sáng tác
và phổ biến bao gồm môi trường hoạt động, chủ thể, nguyên tắc chỉ đạo sáng tác (thi pháp),
thể loại... - đây là những đặc điểm chúng tôi sẽ trở lại ở đoạn dưới. Và bởi lẽ, những đặc
điểm của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã tồn tại liên tục, nên hai chữ hiện đại với nội
dung xác định của nó đến nay vẫn dùng được. Đặt bên cạnh hàng chục thế kỷ của văn học
trung đại, thì thời gian của văn học hiện đại chưa phải là dài, những quy luật chủ yếu của nó
đang phát huy tác dụng.
Nhân đây xin giới thiệu một cách giải quyết tương tự. Trên tạp chí Thế giới mới số ra

8-3-1999 có đăng bài Vài thông tin mới về Hán tự và văn hoá Trung quốc. Bài báo cho biết
trong nghiên cứu và giảng dạy văn học hiện đại Trung Quốc đang thấy có sự điều chỉnh. Về
thời gian, trước đây lấy mấy cái mốc 1840-1919-1949, nay các công trình nghiên cứu thường
nhìn chung cả văn học thế kỷ XX. Về không gian, trước chỉ khoanh tròn trong văn học đại
lục, nay đưa vào cả văn học Hồng Công, văn học Đài Loan. Về quan niệm, coi văn học là
một thành tố của văn hoá, muốn hiểu văn học, phải hiểu cả lịch sử phong tục, tôn giáo...
Quả thật là những bước đột phá mà chúng ta nên tham khảo.
Nội dung của hiện đại hoá
Sau khi qui định thời gian tồn tại của văn học hiện đại như trên, điều quan trọng là cùng
nhau xác định nội dung khái niệm hiện đại, và đi liền với nó là quá trình hiện đại hoá.
Thoạt nghe, ai cũng hiểu ngay rằng hiện đại là lối làm nghệ thuật một cách mới mẻ,
khác hẳn so với lối cũ của ngày hôm qua. Nhưng trong thực tế nghiên cứu, từ này không có
nghĩa chung chung như thế mà có nội dung cụ thể của nó. Chúng tôi không đủ trình độ để
tìm hiểu hai chữ hiện đại dưới góc độ từ nguyên học, nhất là xác định được khởi điểm mà từ
này lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, trước khi truyền sang Việt Nam, song có thể mạnh bạo
dự đoán: Hiện đại chỉ được dùng nhiều từ cuối thế kỷ XIX, nó gắn liền với một giai đoạn bột
phát của sự tiếp xúc Đông Tây, khi mà người châu á (mà gần với ta nhất là Trung Hoa) bắt
đầu có ý thức được rằng dù bản thân từng có truyền thống văn hoá lâu đời, song hiện đang ở
giai đoạn trì trệ, bế tắc, có nhiều phương diện có thể gọi là cổ hủ lạc hậu. Vậy cái lối làm
kinh tế cũng như văn chương nghệ thuật mới mẻ, đáng gọi là xứng với thời buổi ngày nay
(hiện đại) phải là gắn liền với phương Tây, và trở nên hiện đại (hiện đại hoá) là làm theo
mẫu hình phương Tây. Từ đầu thế kỷ khi đề ra yêu cầu xây dựng nền văn hoá mới, các tác
giả Văn minh tân học sách đã nghĩ như vậy. Mà khi làm công việc ghi nhận thành tựu những
năm từ đầu thế kỷ XX trở đi, các tác giả Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Dương Quảng
Hàm... cũng nghĩ như vậy. Nếu xưa kia, cái để ông cha ta đối chiếu là văn học Trung Hoa,
thì ngày nay, cái để con người đầu thế kỷ trông vào học tập là cách làm văn hoá, cách nghĩ
của người phương Tây. Đây đó hai chữ Âu hoá có bị hiểu sai và việc này đã có người mang
ra chế giễu, song nhìn chung nó được dùng rất nghiêm chỉnh, và giả định một sự học hỏi tích
cực với tất cả bản lĩnh dân tộc vững chãi, chứ không phải là học đòi theo lối nô lệ.
Sau đây là cách hiểu hai chữ hiện đại ở một số nước gần gũi và có hoàn cảnh tương tự

với Việt Nam.
Khi khái quát về tình hình văn học ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonêxia, v.v... các
tác giả cuốn Văn học Đông Nam Á nhất trí rằng: Nếu cuộc tiếp nhận văn hoá Trung Hoa và
Ấn Độ là cuộc hội nhập văn hoá lần thứ nhất, xảy ra trong khu vực, thì cuộc tiếp xúc với văn
hoá phương Tây là cuộc hội nhập văn hoá lần thứ hai, nó khiến cho văn học hiện đại ở các
nước Đông Nam Á mang một màu sắc mới
5
.
Riêng với Trung Hoa, vì đó là một nền văn học luôn luôn có ảnh hưởng lớn đến văn
học Việt Nam nên chúng tôi muốn dừng lại kỹ hơn một chút.
Ngay từ 1945, trong một bài viết mang tên Trên đường kiến thiết văn hoá mới ở Trung
Quốc - vấn đề dân tộc hoá, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai đã khái quát “Vấn đề văn hoá ở
Trung quốc khoảng 100 năm nay cũng là một vấn đề nhập cảng: thâu thái những kiến thức
về kỹ nghệ, về khoa học để cải tạo nền văn hoá “ngàn xưa’ của nước Tàu”. ở một chỗ khác
(cũng bài báo trên), ông viết “vấn đề Âu hoá, hiện đại hoá (modernisation) cũng là một vấn
đề lựa chọn. Bất kỳ khoa học xã hội hay khoa học tự nhiên, bất kỳ về phương diện tri thức
hay phương diện kỹ nghệ, văn hoá mới Trung Quốc sẽ phải góp nhặt trong văn hoá Âu Tây
những thành phần tiến bộ cái tinh hoa có thể áp dụng vào trong tình thế Trung Quốc ngày
nay".
6
Trong cách hiểu của tác giả, hai quá trình Âu hoá và hiện đại hoá gần như đã được
đồng nhất.
Thế còn cách hiểu về hiện đại hoá ở Trung Quốc hôm nay thì sao? May mắn là trong
tay chúng tôi có cuốn Sử học Trung Quốc trước gạch nối của hai thế kỷ (mới in ra quý III-
2000) trong đó có bài Sự hưng khởi và phát triển của hiện đại hoá ở Trung Quốc.
7
Dưới đây
là một số đoạn trích từ bài viết kèm theo số trang ở cuối sách trên.
- Những biến cách trong sự phát triển của Trung Quốc cũng như của thế giới, sự chuyển
biến của xã hội từ chỗ lấy nông nghiệp truyền thống là chủ đạo, chuyển hướng tới một xã

hội có nền công nghiệp hiện đại (...) xu thế lịch sử và tiến trình lịch sử này được gọi với một
cái tên thông thường, đó là hiện đại hoá (tr.321)
- Khái niệm “hiện đại hoá” và “phương Tây hoá” được coi ngang nhau và điều này đã
phản ánh trình độ nhận thức chung của trí thức Trung Quốc... (tr.325).
- Tuy việc hiện đại hoá của Trung Quốc lúc đầu là học tập phương Tây, song thực tế lại
là giới thiệu và học tập Nhật Bản (tr.327).
- Từ sau chiến tranh Nha phiến 1840, người Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc
thực hiện hiện đại hoá... (tr.347)
Với các học giả Trung Quốc vậy là hiện đại hoá bắt đầu ngay từ thời kỳ mà lâu nay,
theo sự quy định của môn lịch sử, vẫn gọi là thời cận đại.
Bây giờ, chúng ta hãy cùng trở lại với một số định nghĩa trong các từ điển. Như trên đã
lưu ý, cách phân chia ở đây là dựa nhiều vào các yếu tố văn hoá, nên nguồn sách vở mà
chúng tôi hướng tới cũng là các từ điển văn hoá học. Một cuốn từ điển loại ấy, bản tiếng
Nga có viết như sau:
- Hiện đại hoá (tiếng Pháp moderniser). Thuật ngữ văn hoá học dùng để xác định quá
trình vận động từ xã hội tiền công nghiệp dựa trên truyền thống tới một hệ thống kinh tế và
chính trị, cũng như văn hoá tiêu biểu cho sự phát triển của các nước tư bản (...) Những yếu tố
cơ bản của quá trình này là: khả năng sử dụng những kỹ thuật hiện đại trong những ngành
then chốt của sản xuất được đẩy mạnh; hình thức tiêu thụ được mở rộng, những điều kiện
mới (về xã hội, chính trị, văn hoá) được phát triển; nền sản xuất mới được hình thành. Quá
trình hiện đại hoá bao gồm cả việc nắm vững những kiểu dạng mới của sinh hoạt tinh thần
(kiểu tư duy mới)...
- Hiện đại hoá trong lĩnh vực đời sống văn hoá: Quá trình vận động phát triển, từ nền
văn hoá tiền công nghiệp tới nền văn hoá đặc trưng cho các nước tư bản phát triển. Những
nhân tố cơ bản của hiện đại hoá bao gồm: đa dạng hoá các hệ thống tinh thần và sự định
hướng giá trị; thế tục hoá và đa cực hoá các ý thức xã hội và giáo dục; làm cho ngày càng có
nhiều người biết chữ; hình thành văn hoá và ngôn ngữ dân tộc, đa dạng hoá các trào lưu tư
tưởng; phát triển phương tiện thông tin đại chúng".
8
Đây cũng là quan niệm thấy trình bày trong một số tài liệu tiếng Nga khác mà chúng tôi

có điều kiện đọc, chẳng hạn cuốn Văn hoá học xã hội của B.S. Erasov (1996) hoặc Đại từ
điển Collins về xã hội học (1999). Bản Collins nhấn mạnh “có một sự đối lập rõ rệt giữa xã
hội trước và sau hiện đại hoá” “nhân tố quyết định của hiện đại hoá là vượt qua, thay thế
những giá trị truyền thống vốn thù địch với mọi biến động”. Hiện đại hoá như vậy là “bao
trùm lên cả công nghiệp hoá”.
Sự liên tục của thế kỷ
Cách mạng tháng Tám mang lại cho lịch sử Việt Nam một bước ngoặt rõ rệt. Sau gần
nửa thế kỷ xây dựng, nền văn học Việt Nam lúc này đã cứng cáp trưởng thành. Giờ đây, nền
văn học ấy tự đặt cho mình một mục đích khác trước, cách tác động tới xã hội khác trước.
Riêng với những người cầm bút, thì từ chỗ là những người lao động tự do, nay các nhà văn
đã trở thành “những chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ”, và hoạt động theo một định hướng tư
tưởng thống nhất do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đó là một đặc điểm cơ bản mà khi nghiên cứu văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX
không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, xét trên nhiều mặt, giữa văn học Việt Nam trước và sau 1945 vẫn có một sự
liên tục, đến mức hoàn toàn có lý do chính đáng để xếp cả hai nằm trong một phạm trù
chung là văn học hiện đại. Trong ngôn ngữ học, hai chữ đối lập được dùng với nghĩa thuần
tuý hình thức, tức là lấy cái này đặt bên cái kia để làm nổi bật sự khác nhau. Mượn thuật
ngữ đó của ngôn ngữ học, ở đây chúng tôi muốn nói chúng tôi không đối lập văn học Việt
Nam trước và sau 1945 (đó là một việc khác ai đó sẽ làm trong một dịp khác), mà tìm cách
đối lập toàn bộ văn học Việt Nam thế kỷ XX với nền văn học từ thế kỷ XIX trở về trước, đối
lập văn học hiện đại với văn học trung đại. Đây cũng là một hướng nghiên cứu cần thiết và
có thể nói là có hứa hẹn.
Thử áp dụng cái nhìn văn hoá học vào nghiên cứu văn học, sơ bộ có thể nhận ra những
đặc trưng nhất quán sau đây của văn học Việt Nam hiện đại, chính nó cũng là những nhân tố
tạo nên sự liên tục của thế kỷ.
1. Sự hình thành một môi trường văn học thống nhất trong cả nước. Sự sáng tác ở nước
Việt Nam qua các triều đại phong kiến có trồi sụt khác nhau, nhưng nói chung có tính chất
tự cấp tự túc, tác phẩm viết ra không trở thành một sản phẩm được lưu thông trong xã hội.
Xuất bản lúc ấy mang tính cách một thứ hoạt động tiểu thủ công, manh mún, lặt vặt. Báo chí

lại hoàn toàn không có. Tác phẩm sau khi viết ra sống âm thầm như trong bóng tối, may thì
gặp người tri kỷ, không may thì xếp xó một chỗ. Bước sang thế kỷ XX, cả xã hội là một mặt
bằng liền lặn, sự sáng tạo được đặt trong mặt bằng đó để luôn luôn lưu thông vận chuyển, từ
người viết tới người đọc. Nhờ có máy in, sách được in ra rồi nhờ có hệ thống phát hành,
sách được mang bán, nơi nào có nhu cầu là sách đi tới. Bước đầu có thể nói tới một lớp
công chúng làm nên một luồng dư luận đa dạng tác động lại sự sangs tạo. Không phải chỉ
trong điều kiện bình thường trước 1945, mà ngay trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và
chống Mỹ, một môi trường văn chương thống nhất vẫn được duy trì và chính nó quyết định
nhiều đến nội dung của các sáng tác.
2. Sự hình thành một lớp người làm nghề. Lắng nghe trong văn học đầu thế kỷ người ta
bắt đầu nhận ra một tiếng kêu than hơi lạ: tiếng kêu của những người sống bằng nghề cầm
bút, như Tản Đà, hoặc lớp sau, như Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng... Một thứ tiếng kêu như
thế chưa hề thấy trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XIX trở về trước, đơn giản là vì hồi ấy,
những người viết văn làm thơ chẳng qua rỗi rãi nên thử viết để trình bày vài điều tâm huyết

×