Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Câu hỏi ôn tập Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.56 KB, 27 trang )

TRIẾT HỌC – CNDV BIỆN CHỨNG
STT

NỘI DUNG CÂU HỎI

Câu 1

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cuả triết học Mácxit. Vận dụng mối quan hệ đo để phân tích, phê phán bệnh chủ
quan duy ý trí và phân tích bài học kinh nghiệm nay của Đảng ta.
Đảng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan. năng lực nhận thức
và hành động theo qui luật là điều kiện lảnh đạo của Đảng (VK. VI. Trang 20 )
BÀI 2

Câu 2

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của triết học Mác xit từ đó rút ra quan điểm toàn diện , quan điểm lịch sử cụ thể và
vận dụng các quan điểm đó để phê phán các bệnh phiến diện, bảo thủ, trì trệ và giáo điều và phân phương hướng đổi
mới sau đây của Đảng ta :
“Tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy sự đổi mới các lỉnh vực khác (VK VI trang 61 ).
BÀI 3

Câu 3

nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, từ đó rút ra các quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử cụ thể , quan điểm phát triển và vận dụng các quan điểm đó để phân tích phê phán các bệnh phiến diện , bảo thủ trì
trệ , giáo điều và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta .
BÀI 3

Câu 4


nguyên lý về sự phân tích của triết học Mácxít từ đó rút ra quan điểm phát triển và vận dụng quan điểm đó để phân
tích, phê phán bệnh bảo thủ trì trệ, giáo điều và để phân tích nhận định sau đây của Đảng ta:
“Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co, song loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội và đó là qui luật tiến hoá của lịch sử”(Cương lĩnh, ĐH VII,
trang 8).
BÀI 3


Câu 5

Phân tích nội dung quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược
lại.Những sai lầm có thể nếu không nhận thức và vận dụng đúng quy luật này trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay. BÀI 3 – NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN

Câu 6

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Maclê, từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận dụng quan
điểm đó để phân tích phê phán bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và để phân tích phương pháp đổi mới của Đảng ta sau
đây: BÀI 4

Câu 7

nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiển của triết học Mácxit từ đó rút ra quan điểm thực tiển và vận dụng quan
điểm đó để phân tích phê phán bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và để phân tích luận điểm sau đây của chủ tịch Hồ
Chí Minh:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiển là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn mà không
có lý luận hướng dẩn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 8, trang 496 BÀI 4

Câu 1:

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cuả triết học mãcxit. Vận dụng mối quan hệ đó để phân tích, phê phán bệnh chủ
quan duy ý trí và phân tích bài học kinh nghiếm hiện nay của Đảng ta.
Đảng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế , tôn trọngvà hành động theo qui luật khách quan. năng lực nhận thức và
hành động theo qui luật là điều kiện lãnh đạo của Đảng.(VB. VI. Trang 20)
a. Mối quan hệ giữa vật chất va ý thức cuả triết học mãcxi
*Định nghĩa vật chất
Lê - nin định nghĩa:”vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”. Trong đó, vật chất là
1 phạm trù triết học, khác quan niệm vật chất của khoa học cụ thể; nội hàm: Thực tại khách quan; ngoại diên: vô cùng, vô tận, không
sinh ra, không mất đi. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất (Vận động cơ học – trong không gian, vật lý, hóa học, sinh học,
xã hội);


Vật chất tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc ý thức; vật chất – cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng
cách nào đó tác động lên giác quan của con người; vật chất – cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là cái phản ánh của nó.
*Định nghĩa ý thức
Ý thức là hình thức phản ánh cao cấp, riêng có ở con người đối với thực tại khách quan; là toàn bộ các quá trình tâm lý tích
cực tham gia vào sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan và sự tồn tại thực sự của nó.
*Mối liên hệ
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã
được các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học .
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất . Thế giới vật chất tồn tại khách
quan có trước và độc lập với ý thức con người .
- Vật chất quyết đinh ý thức:
+ Vật chất là nguồn gốc của ý thức ;
+ Quy định nội dung của ý thức;
+ Vật chất quy định mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức ;
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
+ Ý thức chỉ đạo hoạt động của con người;

+ Thúc đẩy kiềm hãm những qua trình phát triển của vật chất;
+ Có thể biến đổi hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn;
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” . Điều đó khẳng định “thực
tại khách quan” (vật chất ) là cái có trước ( tính thứ nhất). Còn “cảm giác” (ý thức ) là cái có sau ( tính thứ hai ) . Vật chất tồn tại
không lệ thuộc vào ý thức .


“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, đươc cảm giác của chúng ta chép lại ,chụp lại, phản ánh”
.Điều đó nói lên “thực tại khách quan” (vật chất ) được biểu hiện thông qua các dạng cụ thể bằng “cảm giác” (ý thức ) con người có
thể nhận thức được . Và “thực tại khách quan” (vật chất ) chính là nguồn gốc nội dung của “cảm giác” (ý thức ).
Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng, vô tận luôn vận động và phát triển không ngừng nên đã có tác động cổ
vũ ,động viên các nhà khoa học đi nghiên cứu thế giới vật chất, tim ra những kết cấu mới , những thuộc tính mới và những qui luật
hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng vật chất của nhân loại .
Chủ nghĩa duy vật biên chứng khẳng định ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biên chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiển , nên
bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất .
Y thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan . Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan qui
định , nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan , là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật
bình thường quan niệm.
Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, củng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tư giác , sáng tạo thế giới.
Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận thông tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có ,ý thức
sẽ tạo ra tri thức mới về vật chất . Ý thức có thể tiên đoán, tiên liệu tương lai , có thể tạo ra những ảo tưởng , những huyền thoại ,
những giả thiết khoa học …. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan .
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt –phản ánh trong quá trình
con người cải tạo thế giới . Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt :sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh , mô hình hoá đối
tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình
tư duy-đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan . Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự
nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiển lịch sử xã hội , phản ánh những quan hệ xã hội khách
quan . Đây chinh là bản chất xã hội của ý thức .
Quan điểm Mác xit cho rằng vật chất quyết đinh ý thức, ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của

con người . Bộ óc con người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc –đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức .
Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và thực tiển của xã hội .
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau :
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ
điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định Những ước mơ phong tục, tập quán, thói quen nầy nẩy sinh trên những điều kiện vật chất nhất
định đó là thực tiển xã hội –lịch sử . Chủ nghĩa xã hội khoa học đời củng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về kinh tế
chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng, văn hoá nhân loại cùng với thiên tài của CácMác và Ăngghen .


Do thưc tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó củng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng
thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức. Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất. Với tính độc lập tương đối của
mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người .
Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hảm thâm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật .
Vai trò của ý thức là ở chổ nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành mục tiêu , kế hoạch , ý trí biện pháp hoạt động của
từng người . Cho nên trong điều kiên khách quan nhất định ý thức – tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng có tác dụng quyết định
làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Sức mạnh của ý thức con người không phải ở trổ tách rời điều kiện vật chất thoát li điều kiện khách quan mà là biết dựa vào
điều kiện vật chất đã có phản ánh đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả . “Ý thức
con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan” (Lênin).
b.Liên hệ thực tiễn
Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác xit. Trong nhận thức và thực tiễn , chúng ta phải xuất
phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Đồng thời phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của con người trong việc nhân thức ,tác động cải tạo thế giới .Quan điểm khách quan
trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý thức , tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý
chí ,bất chấp qui luật khách quan ,xa rời hiện thực , phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất .
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới . Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định
mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế ;về việc sử dụng các
thành phần kinh tế ….
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần

thiết đó là lực lượng sản xuất còn nhỏ bé , chưa phát triển , còn chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế hàng hoá chưa phát triển .
Chúng ta chỉ muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều kiện thực tế
của đất nước .
Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư , thường chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh, không tính
đến điều kiện và khả năng thực tế đề ra những chỉ tiêu kế hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất .
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế, đã có hiện tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy trì thực hiện
phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát
triển lực lượng sản xuất. VK ĐH VI về cải tạo xã hội chủ nghĩa: “…Nhưng chúng ta chưa xác định rỏ ràng, nhất quán những quan


điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh…”
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu kém về lý luận, lý luận mang tính giáo điều, do tâm lý
của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội VI Đảng ta đã nêu lên bài học: ”Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan . Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiên đảm bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng ”
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật
hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự nhiên và xã hội , không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan .
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách
quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận , nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Đó là xây
dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường , nhiều hình thức tổ
chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ. Lê - nin đa từng nói “tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia mà thời kì quá độ có thể sẽ diễn ra
rất lâu”.
Mỗi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước và phù hợp qui luật.
Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó càng nắm bắt thông
tin về thực tế khách quan chính xác , đầy đủ trung thực và sử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng
hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế
giới khách quan .

Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức . Đảng ta xác định : “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn
trọng và hành động theo qui luật khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan ) : “Năng lực nhận thức
và hành động theo qui luật là điều kiện đảm bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng “là khẳng định vai trò tích cực của ý thức trong việc
chỉ đạo hành động con người . Như vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ vật chất và ý thức , củng như từ những kinh
nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lảnh đạo cách mạng nước ta , Đảng ta đả rút ra bài học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện nay , trong tình hình đổi mới của cục diện thế
giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức
đúng , tranh thủ đươc thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ ,do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại ,đồng thời xác định rỏ
những thách thức mà cách
Tóm lại, khi nhận thức và hành động phải nhìn đúng sự vật hiện tượng với bản chất vật chất thực sự tồn tại của nó và phải
tuân theo quy luật khách quan.


Câu 2:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của triết học Mác xit từ đó rút ra quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và
vận dụng các quan điểm đó để phê phán các bệnh phiến diện, bảo thủ, trì trệ và giáo điều và phân phương hướng đổi mới
sau đây của Đảng ta :
“Tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy sự đổi mới các lĩnh vực khác (VK VI trang 61 ).
Khái niệm: mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động ràng buộc quy định và chuyển hóa lẫn nhau
trong quá trình tồn tại và phát triển của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách quan trên cơ sở sự thống nhất vật
chất của thế giới. Do đó mối liên hệ ấy điều bị chi phối bởi những đặc điểm của vật chất.
Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng thể hiện ở các đặc tính sau:
-Tính khách quan sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là vốn có, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
-Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ. Các mối liên hệ đó có thể là liên hệ bên trong hoặc
liên hệ bên ngoài sự vật hiện tượng. Mối liên hệ đó tồn tại trên tất cả các lỉnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy.
-Tính nhân quả: sự vật có thể là nguyên nhân và là kết quả của sự vật hiện tượng khác. Không có nguyên nhân đầu tiên, củng
không có kết quả cuối cùng.
-Tính đa dạng phong phú và nhiều vẽ của các mối quan hệ thể hiện cả về hình thức và tính chất như có sự liên hệ bên trong, có

sự liên hệ bên ngoài; liên hệ bản chất, liên hệ không bản chất, liên hệ chung, liên hệ riêng, liên hệ tất nhiên, liên hệ ngẩu nhiên.Mổi
sự vật hiện tượng trong cùng một lúc nằm trong nhiều mối liên hệ khác nhau .
-Tính lịch sử cụ thể vì sự vật hiện tượng luôn luôn tồn tại trong không gian và thời gian cụ thể nên mối liên hệ giữa chúng là
lịch sử cụ thể .
Từ những nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diên yêu cầu trước hết là để nhận thức được bản chất sự vật, hiện
tượng, đòi hỏi chủ thể phải xem xét tất cả các mối liên hệ trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nó. Tuy nhiên điều đó không
có nghĩa là xem xét một cách dàn đều mà phải nắm lấy trọng tâm, trọng điểm.


Trong thực tiển cần phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp và phương tiện để làm biến đổi các mối liên hệ bên trong của sự vật
hiện tượng củng như các mối liên hệ giữa sự vật hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng khác.
Bên cạnh đó vì sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong không gian và thời gian cụ thể nên dể nhận thức được bản chất của chúng,
phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi chủ thể khi xem xét sự vật phải tính đến điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nó .
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ chú ý tới một mặt hoặc một vài mặt nào đó, một mối
liên hệ nào đó của sự vật hiện tượng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật
đến chổ khái quát để rút ra bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó .
Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật hoàn toàn
đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ và bệnh giáo điều.
Bảo thủ trì trệ thực chất là không thấy được mối liên hệ bên trong sự vật hiện tượng cũng như giữa các sự vật hiện tượng với
nhau ; không thấy được mối liên hệ giữa lý luận và thực tiển . Biểu hiện của bệnh bảo thủ trì trệ là đề cao kinh nghiệm cảm tính , coi
thường lý luận tri thức khoa học, chậm đổi mới, không chú ý phát huy vai trò nhân tố chủ quan để tác động tạo những bước nhảy vọt
về chất trong các lỉnh vực xã hội và đời sống . Bảo thủ trì trệ còn biểu hiện ở tư tưởng cứng nhắc, không thấy được sự vận động phát
triển của sự vật hiện tượng và khi xem xét nhận thức sự vật không chú ý đến tính lịch sử cụ thể . Tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó
về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng với giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức
duy nhất đứng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó, sẽ đưa chúng ta đến những sai lầm nghiêm trọng .
Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong tư duy của chủ thể mang tính máy móc, rập khuôn, thiếu sáng tạo . Thực chất bệnh
giáo điều là tuyệt đối hoá tri thức lý luận, chi thức khoa học và coi đó là chân lý tuyệt đối , đồng thời vận dụng nó một cách máy
móc, không tính đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể .
Trong quá trình xây dựng đất nước trước đổi mới chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình xây dựng CNXH của Liên Xô bởi

coi đó là kiểu mẩu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của Việt Nam .
Những căn bệnh trên thường gắn bó chặc chẽ nhau. Chúng là một trong những nguyên nhân đưa đất nước ta vào tình trạng
khủng hoản kinh tế xã hội trâm trọng trong những năm 80 của thế kỹ 20.
Nguyên nhân của các căn bệnh trên không chỉ là do sự lạc hậu, yếu kém về tư duy lý luận, về trình độ nhận thức mà còn là sản
phẩm của một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu , đồng thời do kéo dài cơ chế quan liêu bao cấp , không chú ý đúc kết thực tiển làm phong
phú cho lý luận, nhất là lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Muốn ngăn ngừa, xoá bỏ các bệnh trên, phải xoá bỏ tình trạng yếu kém về tư duy lý luận, trước hết phải nắm vững phương
pháp lý luận biện chứng duy vật và thông qua đó không ngừng nâng cao trình độ lý luận năng lực vận dụng lý luận vào thực tiển.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 7 sau khi phân tích tình hình thế giới và những thuận lơi, khó khăn của đất nước trong
điều kiện cùng với những thành tựu và kinh nghiệm của hơn 4 năm đổi mới. Đảng ta đề ra phương trâm chỉ đạo là : tiếp tục đổi mới


toàn diện và đồng bộ được công cuộc đổi mới đi vào chiều xâu với bước đi vững chắc , lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
thúc đẩy mạnh mẻ việc đổi mới các lỉnh vực khác…
Để thực hiện mục tiêu là đưa đất nước vượt qua khó khăn thou thách ,ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định
chính trị, nay lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoản của những năm 90 của thế kỷ 20 thì
đây là một trong những phương châm chỉ đạo có ý nghĩa về lý luận và thực tiển mà Đảng ta đả đề ra thể hiện quan điểm toàn diện và
lịch sử cụ thể .
Để ổn định và phát triển đất nước trong tình hình lúc bay giờ là đất nước ta vẩn chưa ra khỏi khủng hoản kinh tế xã hội, công
cuộc đổi mới còn những hạn chế, thì đổi mới toàn diện đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi hình thức va cách làm phù hợp là
có ý nghĩa to lớn.
Thực tiển cho thấy đổi mới là cuộc cách mang sâu săc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên từng lỉnh vực, nội
dung đổi mới củng bao gồm nhiều mặt: Từ đổi mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức , cán bộ , phong cách và lề lối
làm việc .nếu chỉ đổi mới một lỉnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn . Điều nầy
phù hợp với nguyên lý về mối quan hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, đồng thời mổi bước đi lại phải xác định đúng khâu
then chốt để tập trung sức giải quyết để làm cơ sở đổi mới các khâu và lỉnh vực khác.Điều nầy thể hiện quan điểm toàn diện nhưng
có trọng tâm trọng điểm.Trong điều kiện đất nước ta lúc bấy giờ, Đảng ta lấy xác định đổi mới KT làm trọng tâm,đồng thời thúc nay
mạnh mẻ sự đổi mới các lỉnh vực khác là phù hợp với lý luận và thực tiển. Phải tập trung sức làm tốt sự đổi mới KT, đáp ứng những
đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhà xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, coi đó là điều kiện
quan trọng để tiến hành thuận lợi việc đổi mới trong các lỉnh vực khác. Thưc tiển hơn 10 năm đổi mới ở nước ta đã có chứng minh

đúng đắn của những quan
Tóm lại, để xem xét ,đánh giá hoặc xây dựng nội dung, kế hoạch cần phải nhìn nhận một cách toàn diện, trên quan điểm
khách quan và thề giới quan khoa học. tức Muốn nhận thức được sự vật ta phải chú ý lượng và chất của nó; muốn có sự thay đổi về
chất phải có quá trình tích lũy về lượng; Khi lượng đã đủ cần lựa chọn và thực hiện bước nhảy và đồng thời phải chọn đúng thời
điểm thực hiện bước nhảy nhằm tạo động lực phát triển phù hợp với tất yếu của lịch sử. Vận dụng thực tiễn đã soạn

Câu 3:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, từ đó rút ra các quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử cụ thể , quan điểm phát triển và vận dụng các quan điểm đó để phân tích phê phán các bệnh phiến diện , bảo thủ trì trệ ,
giáo điều và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta .


“đổi mới toàn diện đồng bộ có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống là quá trình không thể đảo
ngược –(VK VII, trang 168)
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ những sự vận động có định hơứng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Như vậy, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng thế giới vật chất
luôn luôn vận động và phát triển đi lên, sự đổi mới không ngừng là khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng.
Nguồn gốc của sự phát triển ấy nằm ngay trong bản thân sự vật do việc giải quyết những mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện
tượng. Phát triển là quá trình tự thân của mọi sự vật và hiện tượng. Theo quan điểm duy vật biện chứng sự phát triển được đặc trưng
bởi mấy dấu hiệu sau:
-Mang tính khách quan vốn có.
-Mang tính phổ biến trên mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Là quá trình biến đổi không thuận nghịch, không quay trở lại điểm xuất phát.
-Phát triển là quá trình hoàn thiện về cấu trúc, đa dạng cề chức năng.
-Sự phát triển dường như lập lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn .
-sự phát triển mang tính kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ , cải biến nó cho phù hợp với cái mới .
-Phát triển là tiến lên và có sự xuất hiện của cái mới .
-Trên cơ sở nguyên lý về sự phát triển theo quan điểm Mácxit, trong nhận thức và hoạt động thực tiển, đòi hỏi chủ thể phải có

quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển có mấy yêu cầu sau:
-về nhận thức : Để nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng đòi hỏi chủ thể phải xem xét nó trong trạng thái vận động và
dự đoán được các xu hướng biến đổi và chuyển hoá của chúng.
-trong thực tiển: cần thấy được tinh quanh co, phức tạp của quá trình phát triển mà tin tưởng vào cái mới tiến bộ và tạo điều
kiện cho nó chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.
-TRong tư tưởng: Quan điểm phát triển là cơ sở khoa học về phương pháp luận giúp chúng ta cũng cố niềm tin vào sự thắng
lợi của lý tưởng cuả CSCN, mặt dù CNXH hiện thực đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào. Giúp ta vửng tin vào thắng lợi của
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dù phải trải qua nhiều khó khăn thách thức.
Quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật
hoàn toàn với quan điểm bảo thủ trì trệ, định kiến một chiều và bệnh giáo điều.
Bảo thủ trì trệ thực chất là không thấy được sự vận động và phát triển của sự vật hiện tưọng và hoạt động sáng tạo của vai trò
con người:ỷ lại , chờ đợi dựa dẩm.


Tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng với giai đoạn phát
triển của nó và xem xét nó là nhận thức duy nhất đứng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta
đến sai lầm nghiêm trọng.
Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong tư duy của chủ thể mang tính máy móc, rập khuôn , thiếu sáng tạo .thực chất bệnh
giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thưc khoa học và coi nó là chân lý tuyệt đối và vận dụng nó một cách máy móc, không tính đến lịch
sử cụ thể.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình CNXH của Liên Xô bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính điều
kiện đặc thù của VN.
Để khắc phục căn bệnh này theo tinh thần của phép biện chứng duy vật, chúng ta phải triệt để phân tích mọi vấn đề trong tính
lịch sử cụ thể của nó. Từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp, tránh rập khuôn, máy móc, tránh tuyệt đối hoá các tri thức đã có.
Đường lối đổi mới ở nước ta trong khi tiếp tục lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, Đảng nay mạnh hơn nữa nhiệm vụ đổi mới
hệ thống chính tri, dân chủ hoá sinh hoạt xã hội, đổi mới mọi mặt đời sống và hoạt động xã hội.
Đảng ta xác định: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắcvà có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá
trình không thể đảo ngược”.
Nhận định trên phản ánh quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong công cuộc đổi

mới, vấn đề có ý nghĩa quyết định là Đảng phải đổi mới cả 3 lĩnh vực:đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phong cách
làm việc. Đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu vì có đổi mới tư duy mới có đổi mới các mặt khác.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Thực tiễn cho thấy đổi mới là
cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vựccủa đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt. Từ đổi
mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc
một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn. Đồng thờiphải xác định đúng khâu then chốt trong mỗi
bước đi để tập trung hướng giải quyết, làm cơ sở đổi mới các khâu và lĩnh vực khác. Ơ đây thể hiện quan điểm toàn diện nhưng có
trọng điểm trọng tâm phù hợp với quan điểm duy vật biện chứng.
Trong cuộc đổi mới Đảng ta thực hiện phương châm “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi
mới các lĩnh vực khác nhất làvề dân chủ hoá xã hội, tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, các chính sách giáo
dục, văn hoá, xã hội”.
Đổi mới ở nước ta không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH, mà là làm cho CNXH đi tới thắng lợi đó là quan điểm nhất quán trong
đường lối đổi mới của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà là nhận thức cho đúng học thuyết, tư tưởng
của các ông, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của nhân dân. Đổi mới không phải là phủ định


quá khứ mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai,làm sai, bổ sung những nhận thức mới, cách
làm mới đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới.
Chúng ta biết rằng phát triển là một quá trình có tính quanh co, phức tạp. Xã hội loài người đã trải qua 4 hình thái kinh tế xã
hội: CSNT, CHNL, QCPK và TBCN, và đang trong thời đại quá độ từ xã hội TBCN sang xã hội XHCN. Đó là một tất yếu khách
quan. Sự hình thành và phát triển của xã hội XHCN là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo những qui luật khách quan. Mặc dù
CNXH hiện thực đang tạm thời lâm vào khủng hoảng và thoái trào nhưng xu thế phát triển của nó là tất yếu.
Thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và 2 cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc đã khẳng định con đường
duy nhất đúng mà dân tộc ta đã lựa chọn là độc lập dân tộc gắn liền vớĩCNH.
Sau 10 năm (1976-1986) bên cạnh những thành tựu, Đảng ta có sai lầm. Đất nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự that, phân tích thực tiễn đất nước và xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, Đảng đã khởi xướng và
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN.
Những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới đã đưa nước ta vượt qua được những thử thách hiểm nghèo, đưa đất nước

sang thời kì phát triển mới- thời kì nay mạnh công nghiệp hoá, hiên đại hoá.
Với tư cách là “ công cụ nhận thức vĩ đại và công cụ cải tạo thế giới”-chủ nghĩa Mác- Lênin có sức sống và giá tri bean
vững,trong đó phép biện chứng duy vật trang bị cho Đảng ta quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể trong sự lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước. Đối với VN, thực tiễnđã chứng minh quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một
tất yếu khách quan và là sự lựa chọn duy nhất đúng để thực hiện lý tưởng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ, văn
minh”. Vì vậy Đảng ta đã xác định: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc
sống, là quá trình không thể đảo ngược”.
Tóm lại, để xem xét ,đánh giá hoặc xây dựng nội dung, kế hoạch cần phải nhìn nhận một cách toàn diện, trên quan điểm
khách quan và thề giới quan khoa học. tức Muốn nhận thức được sự vật ta phải chú ý lượng và chất của nó; muốn có sự thay đổi về
chất phải có quá trình tích lũy về lượng; Khi lượng đã đủ cần lựa chọn và thực hiện bước nhảy và đồng thời phải chọn đúng thời
điểm thực hiện bước nhảy nhằm tạo động lực phát triển phù hợp với tất yếu của lịch sử. Vận dụng thực tiễn đã soạn
Câu 4:
nguyên lý về sự phân tích của triết học Mácxít từ đó rút ra quan điểm phát triển và vận dụng quan điểm đó để phân
tích, phê phán bệnh bảo thủ trì trệ, giáo điều và để phân tích nhận định sau đây của Đảng ta:
“Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co,
song loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội và đó là qui luật tiến hoá của lịch sử”(Cương lĩnh, ĐH VII, trang 8).


Sự liên hệ và tác động qua lại làm cho các sự vật vận động & phát triển. Mối liên hệ khách quan giữa liên hệ phổ biến và sự
vận động, phát triển trong hình thức qui định mối liên hệ hữu cơ giữa nguyên lý về mối liên hệ phổ biến với nguyên lý về sự phát
triển. Theo quan điểm duy vật biện chứng: phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát hoá quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng chứ không có sự biến đổi về chất , phát
triển chính là theo đường thẳng hay đường tròn tuần hoàn khép kín , phát triển chính là sự tiến lên liên tục không có quá trình tiến
hóa.
Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định rằng thế giới vật chất luôn luôn vận động và sự phát triển đi lên ,sự vận động
không ngừng là khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng . Sự phát triển ấy được đặc trưng bởi những dấu hiệu sau đây:
-Sự phát triển mang tính khách quan .
-Sự phát triển mang tính phổ biến .
-Sự phát triển là quá trình biến đổi không thuận nghịch, không có sự quay trở lại điểm xuất phát .

-Sự phát triển là quá trình hoàn thiện về cấu trúc đa dạng về chức năng .
-Sự phát triển dường như lập lại cái củ nhưng trên cơ sở cao hơn .
-sự phát triển mang yếu tố kế thừa tích cực của cái cũ , cải tiến nó cho phù hợp với cái mới.
-mọi sự vật hiện tượng nếu như xem xét toàn bộ một quá trình vận động trải qua giai đoạn sinh thành ,phát triển và mất đi ,
chính sự mất đi của các sự vật hiện tượng nầy là điều kiện ra đời cuả các sự vật hiện tượng khác. Không phải chỉ có khuynh hướng đi
lên mới được coi là sự phát triển mà nó thường được diễn ra quanh co phức tạp, qua những khâu phức tạp, qua những khâu trung
gian mà có lúc bao hàm cả sự thụt lùi , đi xuống tạm thời . Trong quan điểm biện chứng về sự phát triển là kết quả của quá trình thai
đổi về lượng dẫn tới quá trình thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoáy tròn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển
dường như có sự quay lại điểm xuất phát nhưng trên một cơ sở mới cao hơn .
Khi đề cập đến nguồn gốc của sự phát triển, những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc đó ở các lực lượng
siêu tự nhiên , thần linh, thượng đế .
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật ,do mâu thuẩn của sự vật
qui định, là quá trình tự thân của mọi sự vật hiện tượng .Do vậy phát triển là một quá trình khách quan độc lập với ý thức của con
người .
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển sẽ cho ta phương pháp luận đúng đắn đó là quan điểm phát triển ,có nghĩa là khi xem
xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động , trong sự phát triển , phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi chuyển hoá của
chúng .
Trong thực tiễn cần thấy được tính quanh co phức tạp của quá trình phát triển mà tin tưởng vào cái mới tiến bộ và tạo điều
kiện cho nó chiến thắng cái cũ , lạc hậu . trong tư tưởng :quan điểm phát triển là cơ sở phương pháp khoa học để chúng ta củng cố


niềm tin vào sự thắng lợi của CSCN , mặc dù CNXH thực hiện đang lâm vào khủng hoảng thoái trào , vững long tin vào sự thắng lợi
của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mặc dù hiện tại còn nhiều khó khăn thách thức phức tạp .
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức phê phán bênh bảo thủ trì trệ , bệnh giáo điều .
Về bênh bảo thủ trì trệ:
-Nguyên nhân của bệnh là do không nhận thức được quan điểm phát triển , đặc các sự vật hiện tượng trong trạng thái ngưng
động , không thấy được xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng, chậm nắm bắt cái mới, nhận thức và hành động theo cái cũ nên
sinh ra bảo thủ trì trệ.
-một số biểu hiện của căn bệnh : trước thời kỳ đổi mới chúng ta duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp nên kìm hảm sự phát triển kinh tế xã hội, làm cho dân nghèo nàng, đất nước lạc hậu, chậm đổi mới các chính sách tiền lương đãi

ngộ … nên làm hạn chế việc phát huy các nguồn lực, khai thác tiềm năng xây dựng đất nước .
hướng khắc phục: can phải tiếp tục đổi mới tư duy, lý luận , đổi mới trong nhận thức và hành động, sẵn sàn tiếp nhận kẽ mới ,
tiến bộ phù hợp ở từng thời kỳ. Đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của các nhân tố bên trong hệ thống chính trị nhằm không
ngừng nâng cao quyền làm chủ và phát huy tính sáng tạo của nhân dân trên các lỉnh vực của đời sống xã hội .
Về bệnh giáo điều :
-nguyên nhân của bệnh có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận , máy móc , rập khuôn, cứng nhắc dẫn đến hạn chế khả
năng áp dụng tri thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống. Tất cả củng là do trong nhận thức và hoạt động không quán
triệt nay đủ quan điểm phát triển , phát triển dường như lập lại cái củ nhưng trên cơ sở cao hơn, phát huy kế thừa yếu tố của cái cũ
nhưng phải biến nó cho phù hợp với cái mới. Ngoài ra bệnh nay còn do tuyệt đối hoá tri thức lý luận, coi thực tiễn kinh nghiệm lối
suy nghĩ sùng bái kiến thức sách vở , coi đó là những công thức hoàn chỉnh nay đủ , bất biến , không chú ý đến những tài liệu mới do
thực tiễn và khoa học mang lại .
-Biểu hiện của căn bệnh: Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của liên xô coi đó là kiểu mẩu
duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của VN . Đến khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục nên đã tác động
tiêu cực đến sự phát triển của đất nước .
-Hướng khắc phục: Phải nắm vững phương pháp luận biên chứng vận dụng đúng đắn những tri thức khoa học chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng HCM . Thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung đường lối phát triển lý luận. Trong trường hợp hoạt động thực
tiễn cần tạo điều kiện cho những cái mới tiến bộ được nhân rộng ra đồng thời đấu tranh thu hẹp dần dẫn đến xoá bỏ những hiện
tượng lỗi thời đang còn là phổ biến .
-Do quán triệt được tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác_Lê nin nên Đảng ta khẳng định :CNXH hiện đứng trước những
khó khăn thách thức ,lịch sử thế giới đang trải qua những khúc quanh co, xong loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH đó là quy luật
tiến hoá của lịch sử.


-chế độ XHCN ở liên xô và các nước đông âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào . Phân tích nguyên
nhân ta thấy rằng các nước nầy đã mắt phải những sai lầm chủ quan nghiêm trọng do yếu kém về tư duy lý luận, duy trì quá lâu cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp , vận dụng sai qui luật khách quan cùng với sự phá hoại của các thế lực thù địch cho nên đảng cộng
sản mất vai trò lảnh đạo. Từ đó cho thấy rằng CNXH đang còn sức sống và là ước mơ nguyện vọng của nhân loại vì bản chất tốt đẹp
cao cả của nó .
thế kỷ 21 trở về sau có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc , khoa học công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy, KT tri
thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Toàn cầu hoá từ một xu thế khách quan, chứa đựng nhiều mâu thuẩn vừa
có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực . các mâu thuẩn cơ bản trên thế giới biểu hiện với nhiều hình thái mức độ khác nhau nhưng vẫn

tồn tại và phát triển . CNTB ngày nay còn tiếp tục tự điều chỉnh, nắm và sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ, xong không thể
khắc phục nổi những mâu thuẩn vốn có của nó. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để lựa chọn và quyết định
con đường phát triển của mình.
Ở một số nước tư bản hiên nay, Đảng cộng sản đang được tín nhiệm trở lại và ngày càng nắm giử vai trò . CNXH thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào nhưng vẫn có điều kiện và khả năng phục hồi phát triển .tinh chất của thời đại vẫn không thai đổi. Lịch sử thế
giới đã, đang và sẽ còn trải qua những bước quanh co , song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH . Đó là qui luật tiến
hoá của lịch sử .

Câu 5
Phân tích nội dung quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại. Những
sai lầm có thể nếu không nhận thức và vận dụng đúng quy luật này trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Sự ra đời của phép biện chứng đánh dấu một quá trình phát triển quan trọng trong quan niệm về chất về lượng và quy luật về
mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất nói chung .
Chất kà một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các
thuộc tính làm cho nó mà không phải là cái khác.
Khái niệm chất trong triết học không phải lúc nào cũng đồng nhất với khái niệm chât được sử dụng rộng rãi trong đời thường
nhất là khi nói về các vấn đề trong xã hội.Mặc khác cũng không nên đồng nhất khái niêmchất với khái niệm thuộc tính.
Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới quy định chất của sự vật vì chỉ khi nào thuộc
tinh cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi.
Tuy nhiên viêc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản,chất và thuộc tính cũng chỉ là tương đối.Nó còn phụ thuộc vào
những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác và mỗi thuộc tính có thể coi là một chất trong một quan hệ khác, chất biểu hiện


tính tương đối ổn định và là cái vốn có không tách rời sự vật.Không thể có chất tồn tại “thuần tuý”.Bên ngoài hoặc phụ thuộc vào
cảm giác chủ quan như các nhà duy tâm chủ quan quan niệm.
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ định tính vốn có của sự vật biểu thị số lượng ,quy mô và trình tự ,nhiệp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó.
Lượng có thể được biểu hiện thành con số,đại lượng hoặc mức độ giống như chất lượng là cái khách quan vốn có của sự
vật.Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối,nghĩa là có cái ở trong quan hệ này là chất ,nhưng ở trong quan hệ khác lại là
lượng và ngược lại,không thể tuyệt đối hoá ranh gới giữa chất và lượng.

Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng .Sự vật nào cũng thống nhất giữa hai mặt chất và lượng ,chất nào lượng,lượng nào
chất đó,chất và long thống nhất với nhau trong một độ.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất ,nó là khoảng giới hạn mà trong đó,sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi cơ bản về chất của sự vật.
Trong phạm vi một đọ nhất định hai mặt chất và lượng tác động lẫn nhau làm cho sự vật hiện tượng vận động và biến đổi sự
vận động và biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng,so với lượng thì chất thay đổi trước .Quá trình này diễn
ra một cách từ từ theo cach thức tăng dần hoặc giảm dần.Sự thay đổi về lượng không tức khắc dẫn đến sự thay đổi về chất mặc dù
những thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng đến trạng thái của sự vật .Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì dẫn đến sự
thay đổi về chất.Sự thay đổi về chất được gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó
gây ra .
Điểm nut là thời điểm mà ở đó xảy ra bước nhảy về chất .
Trong sự vật mới, lượng mới lại bắt đầu biến đổi đến điểm nut mới lại xảy ra bước nhảy mới, cứ như thế sự vận động của các
sự vật hiện tượng trong thế giới diễn ra lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất tạo ra một đường nút vô tận làm cho
sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ .
Chiều ngược lại của qui luật lượng và chất thực chất nó là một vòng của phát triển nối tiếp nhau của quá trình vận động của sự
vật. Khi chất mới ra đời nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng . Sự qui định nầy có
thể được biểu hiện ở qui mô mức độ và ở nhịp điệu phát triển mới của chúng.
Các hình thức của bước nhảy- khâu trung gian. Nếu xét với góc độ qui mô:
-bước nhảy toàn bộ : là loại bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt , các bộ phận , các yếu tố cấu thành sự vật .
-Bước nhảy cục bộ: là loại buớc nhảy làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố , một số bộ phận của sự vật đó .
nếu xét về nhịp điệu:
-Bước nhảy dần dần: là bước nhảy diễn ra trong một thời gian khá dài bằng cách tích luỹ dần dần về chất mới , mới loại bỏ dần
những yếu tố của chất cũ làm cho sự vật biến hoá tương đối chậm rải .


khâu trung gian (các bước quá độ): là trạng thái của quá trinh đấu tranh giải quyết mâu thuẩn, là trạng thái chuyển tiếp đặc biệt
của cái cũ sang cái mới, nó là sự kết hợp biện chứng giữa những biến đổi tiến hoá (sự tiếp tục của cái cũ trong cái mới) với những
buớc nhảy vọt cách mạng. Ở khâu trung gian cái mới chưa được hình thành một cách hoàn chỉnh , cái cũ chưa mất đi.
Nghiên cứu qui luật lượng chất cho ta ý nghĩa phương pháp luận : Phải nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng,

không được tuyệt đối hoá một mặt nếu tuyệt đối hoá một trong hai mặt sẽ rơi vào hai khuynh hướng sai lầm:
-nôn nóng tả khuynh, chủ quan nóng vội duy ý chí cho rằng sự phát triển gồm toàn những buớc nhảy liên tục, phủ nhận sự can
thiết phải tạo ra và tích luỹ dần về lượng , muốn thực hiện bước nhảy làm thay đổi chất ngây .
-Bảo thủ hữu khuynh chờ đợi không dám thực hiện bước nhảy về chất khi đã có sự tích luỹ đầy đủ về lượng hoặc kéo dài sự
tích luỹ , chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng. Điều nầy sẽ kim hảm sự phát triển của sự vật hiên tượng.
Cần phải có thái độ khách quan, khoa học, quyết tâm và bản lỉnh thực hiện bước nhảy khi có điều kiện .
Viêc nắm vững qui luật lượng chất , ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét giải quyết những
vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta đặt ra . Việc thực hiện thành công quá trình đổi
mới trên từng lỉnh vực đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất ở đó và tạo điều kiện thực hiên thành công quá trình đổi mới toàn
diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn xã hội nói chung. Bất kỳ một sự nôn nóng , chủ
quan , ảo tưởng nào đó đều có thể gay ra tổn thất cho cách mạng , cản trở sự đổi mới của đất nước.
Thời kỳ trước đổi mới , Đảng ta đã vận dụng không đúng những qui luật lượng- chất nên đã mắc phải một số sai lầm thiếu sót :
-Như trên đã trình bày , biểu hiện của khuynh hướng tả khuynh ở trổ không chú ý quá trình lượng đổi , lượng của phát triển
đến vượt độ đã tạo ra bước nhảy về chất . Văn kiện đại hội VI đánh giá tình hình “do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên
CNXH là một quá trình lịch sử tưong đối dài ,phải trải qua nhiều chặng đường ,và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan nóng vội ,muốn bỏ
qua nhưng bước đi cần thiết .Đại hội lần thứ IV chưa xác định mục tiêu của chặng đường đầu tiên .Trong 5 năm 1976-1980 .Trên
thực tế chúng ta đã chủ trương nay mạnh công nhgiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết .Mặt khác chậm đổi mới cơ chế
quản lý kinh té đã đổi thay”.Trong cải cách các thành phần kinh tế đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi XHCN.Cách làm thường theo kiểu chiến dịch,gò ép, chạy theo số lượng coi nhẹ chất lượng hiệu quả.
-Khuynh hướng sai lầm thứ hai là bảo thủ hữu khuynh, chỉ chú ý quá trình tích luỹ về lượng mà không chú ý để phát huy vai
trò năng động để thực hiện những bước nhảy về chất khi đã có đủ những điều kiện tích luỹ về lượng cho phép.
-Thời kỳ chiến tranh ,chúng ta duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên kiềm hãm sự phát triển xã
hội .Làm cho nhân dân nghèo nàn đât nước lạc hâụ .Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ,một số thể chế quản lý mới còn chấp
vá ,không ăn khớp .Việc chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý ,vì điều hành không nhạy bén là những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến hành động không thống nhất từ trên xuống dưới. Đại hội VI đã nhận định:”rõ ràng là chúng ta thiếu hiểu biết và ít kinh
nghiệm quản lý,lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm.Hiện nay cần phải khắc phục cả hai khuynh hướng :bảo thủ ,trì trệ không
muốn đổi mới và nóng vội ,giản đơn muốn giải quyết xong mọi vấn đề trong thời gian ngắn”.


-Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay ,việc vận dụng quy luật lượng chất là hết sức cần thiết.Viêc thực hiện thành công

quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất từ đó sẽ tạo điều kiện đổi mới toàn diện.Xuất phát từ
tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là:”đẩy mạnh công
nghiệp hoá ,hiện đại hoá ,xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp,ưu tiên phát triển lưc
lượng phát triển sản xuất .Đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN,phát huy cao độ nội lực ,đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài-tăng trương kinh tế đi liền với phát triển văn hoá từng bước cải tiến vật chất và tiếp nhận tinh thần của
nhân dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh”(Đại hội IV).
Việc nắm vững nội dung của quy luật lượng chất có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết nhưng vấn đề do công cuộc
đổi mới theo định hưỡng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra.Xem xét tiến hoá và CM trong mối quan hệ lượng chất của chúng là một
trong những nguyên tắc và phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lượcvà sách lược CM. Bất kỳ sự nôn nóng ,chủ quan,ảo
tưởng,hay trì trệ đều có thể gay tổn thất cho CM và cản trỏ sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Câu 6:
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Maclê, từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận dụng
quan điểm đó để phân tích phê phán bệnh kinh nghiệm, bệnh giáp điệu và để phân tích phương pháp đổi mới của Đảng ta
sau đây:
Theo quan điểm triết học Maclê thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên & xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức đầu tiên của hoạt động
thực tiễn tạo cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải tạo
xã hội, hay hoạt động thực nghiệm khoa học cũng là dạng cơ bản, dạng hoạt động đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Trong hững hình
thức đó hoạt động sản xuất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong mọi thời kỳ
lịch sử. Hơn nửa các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng là từ hoạt động đó mà ra & nhằm phục vụ cho hoạt động đó.
Hoạt động thực tiễn gồm có 2 đặc trưng: một là hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội. Diều đó có ý nghĩa là trong hoạt động thực tiễn, con người sữ dụng những đối tượng vật chất, những dụng cụ lao động để
tác động trực tiếp, làm thay đổi bản thân sự vật, trực tiếp cải tạo thề giới. Trong hiện thực nhằm tạo ra vật chất phục vụ cho nhu cầu


của con ngướì và xã hội. Hai là hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử xã hội có nghĩa là hoạt động thực tiễn không pphải là những
hoạt động của từng con người riêng lẻ, mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội dung cũng như phương thức

thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội. Hoạt động thực tiễn là một quá trình lịch sử, trải qua quá trình vận động và phát
triển, trải qua các giai đoạn lịch sử của nó. Có thể nói thực tiễn là sản phẩm lịch sử, những mối quan hệ đa dạng và vô tận giữa con
người với giới tự nhiên & con người với con người. Con người vừa thích nghi với môi trường vừa thông qua hoạt động của mình tác
động một cách tích cực để biến đổi, cải tạo thề giới. Đồng thời, quá trình đó con người củng phát triễn và hoàn thiện bản thân mình.
Hoạt động nhận thức của con người nảy sinh, phát triễn và tác động một cách biến chứng với hoạt động thực tiễn. Trong mối quan hệ
đó, thực tiễn giử các vai trò đối với nhận thức, được biểu hiện trước hết thực tiễn là cơ sở & động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận
thức và cả lý luận. Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động trực tiếp vào sự vật, bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới phải bộc
lộ những bản chất và tính quy luật của chúng. Điều đó có nghĩa là thực tiễn đã cung cấp những tài liệu là cơ sở cho nhận thức cho lý
luận. Tri thức của con người có thể thu nhận được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hay gián tiếp. Nhưnh xét đến cùng thì mọi tri thức
của con người đều phát sinh từ thữc tiễn. Quá trình hoạt động thực tinễ là cơ sở để phát huy tính tích cực sáng tạo của con người, là
cơ sở của sự phát triển trí tuệ của con người.
Trong hoạt động thực tiễn luôn không ngừng biến đổi và phát triển, và đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát
triển của nhận thức, nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có những tri thức mới, phải tỗng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, đó chính là
động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong lịch sử các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời & phát triễn trên cơ sở hoạt động thực
tiễn của loài người nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát triển của con người đề ra.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được ứng dung vào thực tiễn. Mục đích
cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thực khách quan phục vụ đời sống vật chất và tinh
thần của xã hội. Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho hận thức hướng tốt để giải quyết, là nơi thể hiện sức mạnh của tri thức, biến tri
thức khoa học thành phương tiện hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Vai trò của thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra tri thức. Để đánh gia kiểm nghiệm được tính đúng đắn hay sai lầm của
những tri thức đã thu nhận, không có con đường nào thay thế hoạt động của thực tiễn. Những kết quả tư duy trừu tượng phải được
thực tiễn kiểm nghiệm. Một mặt góp phần chỉ đạo thực tiễn, phục vụ thực tiễn, mặt khác chịu sự kiểm tra, đánh giá của thực tiễn, từ
đó khẳng định bổ sung hoàn thiện phát triển những kết quả nhận được, đó chính là thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Nhận thức của con người là một quá trình trong đó gồm nhiều giai đoạn gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận
thức cảm tính có 3 hỉnh thức là cảm giác tri giác và biểu tượng, quá trình nhận thức này chỉ cho ta thấy mối liên hệ bên ngoài, chưa
đầy đủ, chưa sâu sắc, thậm chí còn sai lệch, phiến diện.
Nhận thức lý tính bắt ngừon từ nhận thức cảm tính, là giai đoạn cao của nhận thức, nhận thức lý tính biểu hiện qua các hình
thức, khái niệm, phán đoán, suy luận. Nhận thức lý tính phản ánh một cách đầy đủ hơn, phản ánh các sự vật hiện tượng trong mối
liên hệ bản chất mang tính quy luật. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những giai đoận khác nhau của cùng một quá trình



nhận thức, thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ tác động với nhau, bổ sung hổ trợ cho nhau, không tách rời nhau làm cho con
ngưới nhận thức đầy đủ hơn về thế giới khách quan. Bên cạnh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, con người còn có nhận thức
kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nhận thức kinh nghiệm chủ yếu thu nhận được từ khảo sát và kinh nghiệm, nó tạo thành tri thức
kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm là những tri thức thu nhận trực tiếp trong quá trình sản xuất lao động của con người.
Tri thức kinh nghệim có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của con người, nhờ có Tri thức kinh nghệim
mà hoạt động của con người hiệu quả hơn.
Tránh được những sai lầm đáng tiếc, Tri thức kinh nghiệm còn cung cấp những tiên đề, những cơ sở đầu tiên làm dử liệu khái
quát nâng lên thành tri thức lý luận.
Tri thức lý luận là những tri thức thu được qua việc đúc kết thực tiễn, khái quát tri thức kinh nghiệm và nâng lên ở trình độ cao
thể hiện qua một hệ thống những khái niệm, những phạm trù, những nguyên lý.
Vai trò của lý luận, là sự khái quát hoá và trình độ hoá, phản ánh được quy luật và bản chất của vấn đề, do đó phạm vi tác động
rất lớn, nó phản ánh hàng loạt các sự vật hiện tượng, thậm chí phán quyết tất cả các sự vật hiện tượng và nó giúp cho sự hiểu biết của
con người đúng đắn hơn, chính xáx và đầy đủ hơn. Tri thức lý luận còn có thể phản ánh vượt trước nên nó giúp cho con người chỉ
trong đề ra những biện pháp những phương hướnghoạt động của mình ở hiện tại mà ở tương lai hay nói cách khác vai trò của lý luận
là là tác động trở lại thực tiễn góp phần làm biến đỏi thực tiễn thông quahoạt động của con người. Lý luận là kim chỉ nam cho hành
động. Soi đường dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin khẳng định “ không có lý luận CM thì cũng không thể có phong trào CM” .
Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm Mác-Lênin giữa lý luận và thực tiễn luôn luôn có mối quan
hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn luôn luôn giữ vai trò quyết định đối với thực tiễn, thực tiễn là cở sở sinh
ra lý luận, nếu không có thực tiễn không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực
trực tiếp. Lý luận tác động trở lại thực tiễn, nhờ có lý luận mà định hướng hoạt động thực tiễn, biến hoạt động thực tiễn từ ự phát
sang sáng tạo.
Sự phân tích trên đây về vai trò thực tiễn đối với nhận thức, đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực
tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng
tổng kết thực tiễn. Ngiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học phải đi đôi với hành, nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận
với thực tiễn thì chúng ta vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn dẫn đến sai lầm của bệnh giáo điều và bệnh kinh
nghiệm.
- Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể, tính máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo mang
lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn. Thực chất của căn bệnh giáo điều là tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri
thức khoa học, coi tri thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc của tri thức đó vào hoạt động nhận thức cũng như

hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của đối tượng. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh
giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận. Nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.


-Bệnh kinh mghiệm có khuynh hướng ngựơc lại với bệnh giáo điều, đề cao tuyệt đối những tri thức đực thu thập một cách trực tiếp
cản tính từ những hiện tượng cụ thể chưa được khái quát thành lý luận, coi nhẹ lý luận, nhại học tập lý luận , ít am hiểu lý luận,
không quan tâm đến tổng kết kinh nghiệmđể đề xuất lý luận. HCM đã nói “ có kinh nghiệm mà không có quản lý cũng như một mắt
sáng một mắt mơ”. Việt quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận, có nghĩa phương pháp luận quan trọng
trong việt đất tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều. HCM có câu “ phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác- Lênin, học tập
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng – để giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công
tác CM của chúng ta” .
- Từ đó ĐH Đảng đưa ra luận điểm( ĐH VII ) “chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn phát triển lý luận thỉ công cuộc đổi mới trở thành
hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo mới tránh đưự«của những sai lầm những buớc quanh co phức tạp”.
- Để làm sáng tỏ luận điểm trên chúng ta khái quát lại tình hình KTXH đất nứoc trong thời ký đổi mới. Trước đổi mới Đảng ta phạm
phải như84ng sai lầm trong việt xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế.
Do trình độ hạn chế của tư duy không đủ khả năng đúc kết thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm đưa đến vi phạm quan điểm thực tiễn. Từ
đó dẫn tới nhận thức không đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là quá trình lịch sử tương đối dài, trải qua nhiều chặng đường
quanh co, va do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, không chú ý đến điều kiện hoàn cảnh
của lịch sử của đất nước, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế, nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về TLSX, khong coi
trọng giải quyết các vấn đềtổ chức quản lý và phân phối. Trong chỉ đạo công cuộc cải tạo XHCN, mặt khác đẩy mạnh quan hệ sản
xuất, không chú ý đến sự tồn tại lâu dài của sản xuất nhỏ, lỗi thời lạc hậu và phương tiện sản xuất thấp kém, phân tán không phù hợp
về cơ cấu quản lý tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài. Với những sai lầm từ trong nhận thức cũng như hành động chúng ta chưa thật
sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó dẫn tới khủng hoảng kinh tế ở nước
ta ngày càng xa hơn.
- Đến đại hội VII của Đảng ta đã mạnh dạn đưa ra những sai lầm, thiếu sót và đề ra phương hướng khắc phụckhắc phục những sai
lầm đó đồng thời vận dụng đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm thực tiễn và nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Rút ra từ thực tiễn, Đảng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện, xác định mục tiêu và con đường
đi lên CNXH ở nước ta, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn Đảng ta đổi mới tư duy lý luận, phát triển và bổ sung lý luận nhằm đáp ứng
nhu cầu thực tiễn và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh ở nước ta. Đặc biệt đổi mới về kỹ thuật như đổi mới QHSX phù hợp với tính

chất trình độ của lực lượng SX; chuyển từ tư duy cũ tuyệt đối hoá sở hữu công cộng , thuần nhất với hai thành phần KT sang tư duy
mới phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế mới, cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nuớc theo định hướng XHCN; thay đổi đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng cơ sơ vật chất cho CNXH .


- Xác định con đường đi lên CNXH ở nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn với nhiều hình thức và bước đi trung
gian, là sự quá độ bỏ qua chế độ TBCN. Có nghĩa là bỏ qua thiết lập vị trí thống trị của quan hệ SX và kiến trúc thượng tầng của
TBCN, nhưng kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời TBCN, nhất là những thành tựu về khoa học và công
nghệ để phát triển lực lượng SX.
- quá trình thực tiễn đừơng lối đổi mới của Đảng ta đã được Đại hội VII tổng kết dánh giá và bổ sung cho việc đề ra chủ trương,
chiến lược gắn với chủ trương chiến lược phát triển nền KT hàng hoá nhiều thành phần cơ chế chính sách không ngừng đổi mới.
- Kết quả đổi mới bước đầu đã đạt những thành tựu rất quan trọng : về chính trị ở trạng thái ổn định, về KT liên tục được phát triển ,
về lương thực : từ một nước thiếu LT vươn lên đến có dư thừa xuất khẩu, lĩnh vực lưu thông rất thuận lợi, hàng hoá trên thị trường
dồi dào đa dạng
- Việc hoạch định chiến lược phát triển KT hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời ky quá độ
lên CNXH . chiến lược này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi đã đi sâu vào cuộc sống , phát huy quyền làm chủ của nhân dân về
KT, khơi dậy được nhiều tiềm năng và sức lao động sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất và dịch vụ, tạo thêm việc làm và
sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hoá tạo sự cạnh tranh sống động trên thị trường, hay
nói cách khác : từ sau đổi mới thì lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao, đã thoát khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất không
phù hợp của thợi kỳ trước đổi mới. Nền kinh tế đất nước được phát triển thì ngân sách nhà nước được tăng lên. GDP tăng, tỷ lệ lạm
phát giảm, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt XH thay đổi rõ rệt.
- Với những thành tựu đạt được sau đổi mới, điều đó cũng đủ chứng minh cho luận điểm đúng đắn của Đảng ta chỉ có tăng cường
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì công tác đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, mới tráng được
những sai lầm những bước đi quabnh co phức tạp.
- Từ những yêu cầu quan điểm thực tiễn nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, vì thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển liên tục
không ngừng, chỉ có tổng kết thuộc tính, phát triển bổ sung lý luận, lý luận tác động trở lại thực tiễn, dẫn đường chỉ lối cho thực tiễn
hoạt động. Cũng có nghĩa là chủ trương đương lối chính sách của Đảng ta đúng đắn, phù hợp thì hoạt động thực tiễn sẽ tự giác, chủ
động sáng tạo, tránh được những sai lầm và có những bước đi vững chắc, không bị tụt lại ( tránh được những bước đi quanh co, phức
tạp ).

- Luận điểm của Đảng ta tại Đại hội VII tiếp tục chứng minh đúng đắn qua các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng. Tổng kết kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn, phát triển bổ sung cho lý luận kỳ tối cao hơn,sâu sắc và hoàn chỉnh hơn, biến hoạt động thực tiễn từ tự
phát sang tự giác. Tiếp tục đổi mới, đưa đất nước đi lên, thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng XHCN.
- Quá trình thực hiện đường lối đổi mới toàn Đảng, toàn dân ta ra sức thực hiện đạt được những thành tựu quan trọng như : Kinh tế
tăng truởng khá. Tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi ( năm 1990 – 2000). Văn hoá xã hội có những tiến bộ, tình hình chính trị xã


hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố, quan hệ
đối ngoại không ngừng mở rộng, hội nhập kinh tế được tiến hành chủ động và đạt được kết qủa tốt.
- Đạt được những thành tựu nói trên là do Đảng ta quán triệt quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin vào nguyên tắc thống
nhất giữa thực tiễn và lý luận vận dụng đúng quy luật, với bản chất chính trị vững vàng. Thường xuyên nghiên cứu và tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận bổ sung lý luận, đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
đất nước. Trên tinh thần đó nhà nước ta

Câu 7:
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiển của triết học Mácxit từ đó rút ra quan điểm thực tiển và vận dụng quan
điểm đó để phân tích phê phán bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và để phân tích luận điểm sau đây của chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiển là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn mà không có lý
luận hướng dẩn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập
8, trang 496)
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin “Thực tiển là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử –xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức đầu tiên của hoạt
động thưc tiễn, tạo cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
cải tạo xã hội, hay hoạt động thực nghiệm khoa học củng là dạng cơ bản, dạng hoạt động đăc biệt của hoạt động thực tiễn. Trong
những hình thức đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất. Vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người trong mọi thời kỳ lịch sử:Hơn nữa các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng là từ hoạt động đó mà ra và nhằm phục vụ
cho hoạt động đó.
Hoạt động thực tiễn gồm có hai đặc trưng : một là hoạt động thực tiễn là hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động vật

chất của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.Điều đó có ý nghĩa là trong hoạt động thực tiễn con người sử dụng những đối
tượng vật chất những dụng cụ lao động để tác động trực tiếp làm thay đổi bản thân sự vật, trực tiếp cải tạo thế giới. Trong hiện thực
nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu con người và xã hội . Hai là hoạt động mang tính lịch sử –xã hội có nghĩa là thực
tiễn không chỉ lànhững hoạt động của từng con người riêng lẽ, mà là đang hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội dung
củng như phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội . Hoạt động thực tiễn là một quá trình lịch sử , những người
với thế giới tự nhiên và con người với con người. Con người vừa thích nghi với môi trường, vừa thông qua hoạt động của mình tác


động một cách tích cực để biến đổi, cải tạo thế giới.Đồng thời quá trình đó con người củng phát triển và hoàn thiện bản thân mình.
Hoạt động nhận thức của con người nẩy sinh, phát triển và tác động một cách biện chứngvới hoạt động thực tiễn. Trong mối quan hệ
đó, thực tiễn giữa các vai trò đối với nhận thức được biểu hiên trước hết ở trổ thực tiễn là cơ sở và động lực : chủ yếu và trực tiếp của
nhận thức và cả lý luận. Bằng hoạt động thực tiễn con người trực tiếp tác động vào sự vật , bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới
phải bột lộ những bản chất và tính quy luật của chúng điều đó có nghĩa là thực tiễn đã cung cấp những tài liệu là cơ sở cho nhận thức
cho lý luận. Tri thức của con người có thể thu nhận được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc gián tiếp nhưng xét đến cùng thì mọi
tri thức của con người đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở đẻ phát huy tính tích cực sáng tạo
của con người.
Trong hoạt động thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển và đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát triển của
nhận thức nhu cầu thực tiễn đòi hỏi những tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái niệm lý luận. Đó chính là động lực thúc đẩy
nhận thức phát triển. Trong lịch sử, các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn của loài người
nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát triển của thực tiễn đề ra.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích
cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức mà nhằm cải tạo hiện thực khách quan nhằm phục vụ đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội. Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận thức hướng tới giải quyết, là nơi thể hiện sức mạnh của tri thức, biến tri
thức khoa học thành phương tiện giúp cho hoạt động thực tiễn co hiệu quả.
Vai trò của thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra thi thức. Để đánh giá kiểm nghiệm được sự đúng đắn hay sai lầm của những tri
thức đã thu nhận, không có con đường nào thay thế được vai trò của thực tiễn . Những kết quả tư duy trừu tượng phải được thực tiễn
kiểm nghiệm, mỗi mặt góp phần hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phục vụ thực tiễn, mặt khác chịu sự kiểm tra đánh giá của thực tiễn, từ
đó khẳng định, bổ sung, hoàn thiện phát triển những kết qủa nhận thức thu được, đó chính là thực tiễn, là tiêu chuẩn của chân lý.
Nhận thức con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn gồm nhận thức cảm tính và nhận thức và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính có 3 hình thức : là cảm giác, tri giác và biểu tượng, qúa trình nhận thức này chỉ cho ta thấy mối liên hệ bên

ngoài, chưa đầy đủ chưa sâu sắc, thậm chí còn sai lệch, phiến diện,
Nhận thức lý tính bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức biểu hiện thông qu acác
hình thức : khái niệm, phán đoán, suy lý. Nhận thức lý tính nó phản ánh một cách đầy đủ hơn, phản ánh các sự vật hiện tượng trong
mối liện hệ bản chất mang tính quy luật. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những giai đoạn khác nhau của cùng một quá
trình nhận thức, thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ tác đống lẫn nhau, bổ sung bổ trợ cho nhau, không tách rời nhau làm cho
con người nhận thức đầy đủ sâu sắc hơn về thế giới khách quan. Bên cạnh nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính con người còn có
nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Nhận thức kinh nghiệm chủ yêu thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm nó tạo thành
tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm là những tri thức thu được một cách trực tiếp từ trong qua trình sản xuất lao động thực
tiễn của con người.


Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người,nhờ có tri thức kinh nghiệm mà
hoạt động đạt kết qủa cao hơn.
Tránh đuợc những sai lầm đáng tiếc tri thức kinh nghiệm cung cấp những tiền đề, những cơ sở đầu tiên làm dữ liệu khái quát nâng
lên thành tri thức lý luận .
Tri thức lý luận là những tri thức thu được qua việc đúc kết thực tiễn, khái quát tri thức kinh nghiệm và nâng lên ở trình độ cao thể
hiện qua những hệ thống những khái niệm, những phạm trù, những nguyên lý-Vai trò của lý luận, là sự khái quát hoá và trình độ hoá,
phản ánh được quy luật và bản chất của vấn đề, do đó phạm vi tác dụng rất lớn, nó phản ánh hàng loạt các sự vật hiện tượng, thậm
chí phán quyết tất cả các sự vật hiện tượng, và nó giúp cho sự hiểu biết của con người đúng đắn hơn, chính xác và đầy đủ hơn. Tri
thức lý luận còn có thể phản ánh vượt trước nên nó giúp cho con người chú trọng đề ra những biện pháp, những phương hướng hoạt
động của mình không những ở hiện tại mà còn ở tương lai hay nói cách khác vai trò của lý luận là tác động trở lại thực tiễn, góp phần
làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường dẫn dắt chỉ đạo thực
tiễn. Lênin khẳng định “ không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm Mác-Lênin giữa lý luận và thực tiễn luôn luôn có mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn luôn giữ vai trò quyết định đối với lý luận, vì thực tiễn là cơ sở sinh ra lý
luận, nến không có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực
trực tiếp. Lý luận tác động trở lại thực tiễn, nhờ có lý luận mà định hướng hoạt động thực tiễn, biến hoạt động thực tiễn từ tự phát
sang tư giác có sáng tạo.
Sự phân tích trên đây về vai trò thực tiễn đối với nhận thức, đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn.
Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng

kết thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành, nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với
thực tiễn thì chúng ta vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn dẫn đến sai lầm của bệnh giáo điều và bệnh kinh
nghiệm .
- Bệnh giáo điều : là trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể, tinh máy móc rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo,
mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Thực chất của căn bệnh giáo điều là tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức
khoa học, coi tri thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc của tri thức đó vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều
có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng .
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “ phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và phương pháp của
chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Người còn khẳng
định rằng :” thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành lý luận mù quáng, lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông”.


×