Nội dung 1: Đề ra đường lối đổi mới, trong Văn kiện ĐH VI, Đảng coi
việc “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan” là một trong những bài học kinh nghiệm quý báu.
Phân tích cơ sở triết học và thực tiễn của bài học trên và nêu ý nghĩa của
nó trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay.
Trả lời:
Vào những năm 80 của thế kỳ 20, tình hình thế giới và trong nước có diễn
biến hết sức phức tạp, hệ thống xã hội chủ nghĩa và các đảng cộng sản đang rơi
vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Trước tình hình đó, việc Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới là yêu cầu rất bức thiết đối với cách
mạng, quyết định sự sống còn của Đảng và thắng lợi cách mạng Việt Nam. Với
thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội
VI của Đảng đã đánh giá thỏa đáng, đúng mức cục diện cách mạng nước ta
trong thời gian 5 năm (1981-1985) về cả hai mặt thành tích, thắng lợi và yếu
kém, sai lầm cùng những nguyên nhân của nó. Từ thực tiễn cách mạng của nhân
dân ta, Đại hội đã rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng là: Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Để rút ra bài học kinh nghiệm quý báu đó, Đảng ta đã dựa trên cơ sở triết
học là chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ vật chất, ý thức. Theo quan điểm
triết học Mác Lê-nin vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Như vậy có thể thấy: Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm
trù rộng và khái quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật
chất thường dùng trong các lỉnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày .
Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”, đó củng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là
vật chất và cái gì không phải là vật chất.
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác “tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” . điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất ) là
cái có trước ( tính thứ nhất) . còn “cảm giác” , (ý thức ) là cái có sau ( tinh thứ
hai ) . Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức .
“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,đươc
cảm giác của chúng ta chép lại ,chụp lại, phản ánh” .Điều đó nói lên “thực tại
khách quan” (vật chất ) được biểu hiên thông qua các dạng cụ thể bằng “cảm
giác” (ý thức ) con người có thể nhận thức được . Và “thực tại khách quan” (vật
chất ) chính là nguồn gốc nội dung của “cảm giác” (ý thức ).
Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng , vô tận luôn vận
động và phát triển không ngừng , nên đã có tác động cổ vũ ,động viên các nhà
khoa học đi nghiên cứu thế giới vật chất , tim ra những kết cấu mới , những
thuộc tính mới và những qui luật hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm
kho tàng vật chất của nhân loại .
Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não
người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có
trước nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất.
Bộ não người, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới
vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên. Lao động và ngôn ngữ
(tiếng nói, chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên
quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Mặt khác, ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vật chất là đối tượng khách thể của
ý thức, nó quy định nội dung, hình thức, khả năng và quá trình vận động của ý
thức. Tác động trở lại của ý thức: Dù ý thức do vật chất sinh ra và quy định
nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa sự phản ánh của ý
thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động
chứ không thụ động, máy móc, nguyên xi thế giới vật chất vì vậy nó có tác động
trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu,
phương hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì
vậy ý thức tác động trực tiếp đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức
phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quang thì sẽ thúc đẩy
hoặc tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đặc trưng vật chất. Ngược lại nếu ý
thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù
hợp với quy luật khách quan do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tuy vậy sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất
được. Và suy cho cùng dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh
thế giới vật chất. Biểu hiện của mối quan hệ giữa ý thức và vật chất trong đời
sống xã hội là quan hệ tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là
cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,
khách thể và chủ thể, vấn đề chân lý
Quan điểm khách quan: Nguyên tắc khách quan trong xem xét là hệ quả tất
yếu của quan điểm DVBC về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vật chất
quyết định ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong nhận thức và hành động
phải đảm bảo tính khách quan, trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ
bản thân SVHT, từ thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý thức chủ
quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí áp
đặt thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật,
tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, không trung thực. Nói như vậy
không có nghĩa là quan điểm khách quan coi nhẹ tính năng động của ý thức.
Quan điểm khách quan không những không loại trừ mà còn đòi hỏi phát huy
tính năng động và sáng tạo của ý thức trong quá trình phản ánh sự vật. Bởi vì
quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động
chủ quan trong việc tìm ra những con đường, những biện pháp để từng bước
thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật. Điều đó phân biệt quan điểm khách quan
với chủ nghĩa khách quan. Nguyên tắc khách quan có ý nghĩa ngăn ngừa tư duy
khỏi những sai lầm do việc chủ thể nhận thức đưa vào sự vật (khách thể nhận
thức) một số yếu tố chủ quan vốn không có trong bản thân sự vật. Tuân theo
quan điểm khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.
Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan
và hành động theo quy luật khách quan. Bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình
xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới: Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm
khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước XHCN trước đây, gây tác hại nghiêm
trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan một cách sáng tạo trên cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy nêu cường điệu tính
sáng tạo củ ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí
là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí xa thời
hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan lấy nhiệt tình Cách mạng
thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí
là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan biểu hiện trong một số chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước xa
rời hiện thực khách quan. Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức,
sự yếu kém về tri thức khoa học, tri thức lý luận không đáp ứng được đòi hỏi
của thực tiễn. Bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội , giai
cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao cấp cũng tạo
điều kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí
Về cơ sở thực tiễn, trước thời kỳ đổi mới (ĐH6) , tình hình trong nước
trước đổi mới (1986), sau giải phóng, nước ta chịu phải thường xuyên đối phó
với những hành động xâm lược, phá hoại và bao vây kinh tế của các thế lực thù
địch. Những biến động bất lợi trên thị trường thế giới cũng gây thêm cho chúng
ta không ít khó khăn. Từ điểm xuất phát rất thấp về kinh tế, lại chịu hậu quả của
chiến tranh lâu dài, nhân dân ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược, vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế, phải đáp ứng
cùng một lúc những yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách là ổn định và cải thiện
đời sống, tích luỹ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng.
Về tình hình kinh tế - xã hội trong nước, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, sự giảm sút của sản xuất vào cuối những năm 70 cùng với những sai lầm
trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là bố trí đầu tư và xây dựng cơ bản của 5 năm
1976-1980, đã để lại hậu quả nặng nề. Song, nhân dân ta anh dũng phấn đấu,
khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sản xuất nông nghiệp và
công nghiệp, đã ngăn chặn được đà giảm sút của những năm 1979-1980, từ năm
1981 đến nay, đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt (nông nghiệp tăng bình quân hằng
năm 4,9%, Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 9,5%, Thu nhập quốc
dân tăng bình quân hằng năm 6,4%) Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trong
5 năm 1981-1985, đã hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng
nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu
khí, ximăng, cơ khí, dệt, đường, thuỷ lợi, giao thông Công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đã tiến thêm một bước, đại bộ phận nông dân Nam Bộ đi vào con
đường sản xuất tập thể, đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên có tiến bộ trong sự
nghiệp xây dựng cuộc sống mới Chăm lo đời sống của nhân dân được chăm lo
dù còn nhiều khó khăn. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, văn
học, nghệ thuật phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng
nền văn hoá mới, con người mới. Các hoạt động khoa học, kỹ thuật được triển
khai, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế của nhân dân
và các lực lượng vũ trang ta đã giành thêm những thắng lợi to lớn. Công cuộc
xây dựng nền quốc phòng toàn dân đạt được những kết quả đáng kể trên một số
mặt: củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, củng cố cơ sở chính trị ở những địa
bàn xung yếu, xây dựng lực lượng dự bị. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng,
huy động lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế đã đạt một số kết quả,
nhất là xây dựng các công trình công nghiệp và giao thông. Tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia, củng cố liên minh chiến lược với
hai nước láng giềng anh em, cùng nhau tăng cường thế và lực của cách mạng ở
cả ba nước. Tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô,
Lào, Campuchia, với các nước anh em khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên có nhiều khó khăn: Về kinh tế: Sản xuất tăng chậm so với khả
năng sẵn có và công sức bỏ ra; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, năng suất lao
động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém; tài nguyên của đất nước chưa được
khai thác tốt, sử dụng lãng phí; lưu thông hàng hóa không thông suốt, phân phối
rối ren; mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận tải , Về chính trị: Quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Đời sống của nhân dân, nhất là
công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn. Nhiều người lao động chưa có và
chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống
vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm. Nông thôn thiếu hàng tiêu dùng thông
thường và thuốc men; nhà ở, điều kiện vệ sinh, sinh hoạt văn hoá ở nhiều nơi
còn thiếu thốn, nghèo nàn. Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công
bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng
quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động
của bọn làm ăn phi pháp chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
Để dẫn đến tình hình trên là do trong thời kỳ này, Đảng ta đã mắc bệnh chủ
quan, duy ý chí trong việc xây dựng mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật
chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, Đảng ta đã nóng vội muốn xóa
bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn sau khi cải tạo XHCN chỉ còn lại
hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc
xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, chúng
ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp cơ chế
xin cho, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp.
Trước hết phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận
của Đảng, trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế , đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chí trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.
Bài học kinh nghiệm của Đảng: Trong quá trình xác định đường lối Cách
mạng và chỉ đạo thực tiễn. Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn quán triệt mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt Nam "luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực
nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu đúng đắn
của Đảng" là một bài học kinh nghiệm lớn rút ra từ thực tiễn Cách mạng nước
ta. Đó chính là biểu hiện coi quan điểm vật chất, các quy luật khách quan có vai
trò quyết định được ý thức đối với nhận thức.
Đảng ta thừa nhận đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan, muốn nhanh chống thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều
kiện mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng
trên thực tế chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang
tồn tại khách quan (quy luật cung cầu, cạnh tranh giá trị) do đó không chú ý vận
dụng chúng vào việc chế định (đề ra) các chủ trương, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội làm cho nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng.
Để khắc phục những khuyết điểm, làm chuyển biến tình hình, Đảng ta
trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở xuất phát từ
điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Phải nhận thức đúng đắn và hành
động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó có các quy luật mang
tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ sự phát triển
chung của toàn xã hội. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận đụng đúng đắn các quy luật
thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển,
lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước ổn
định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét,
xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố.
Đó là điều kiện đánh giá và cũng là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận
dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Câu 2: Trong “bút ký triết học” của V.I Lê Nin viết “Phát triển là cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của
luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này đối với việc thực hiện các chế
độ tự phê bình và phê bình của Đảng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng hiện nay ?
Trả lời:
Lịch sử phát triển của triết triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng và siêu
hình. Quan điểm siêu hình coi sự phát triển đơn giản là biểu hiện bên ngoài bản
thân sự vật, họ quy mọi nguồn gốc của sự phát triển của sự vật là do tác động
bên ngoài, do sự vật khác gây ra. Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm
duy vật biệt chứng khẳng định: sự vận động và phát triển là quá trình tự thân vận
động của sự vật, nó có nguồn gốc, nguyên nhân ở bên trong mỗi sự vật, hiện
tượng, đó là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Đây là quân điểm
đúng đắn, khoa học cho phép hiểu nguyên nhân, nguồn gốc thực sự của sự phát
triển chống lại quan điểm siêu hình duy tâm. Theo Lê nin: “phát triển là cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập” điều này có nghĩa là vận động, phát triển là phổ
biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy, nguyên nhân nguồn gốc của sự vận động,
phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong chính bản thân của
mối sự vật, hiện tượng. Đó chính là điều mà Lê nin muốn khẳng định về nguyên
nhân của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan.
Luận điểm trên của Lê nin là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng cơ
bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi là quy
luật mâu thuẫn). Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Đó chính là một tiền đề
lý luận hết sức quan trọng để hình thành lý luận Mác xít về quy luật này.
Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I. Lênin đã coi
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt nhân của phép biện
chứng”, bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận
động và phát triển của sự vật; và là “chìa khóa” giúp chúng ta nắm vững thực
chất của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. V.I.Lênin viết “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết
về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển
thêm”. Nội dung của quy luật chỉ ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn là sự tác động qua lại của các mặt đối lập. Chủ nghĩa
Mác cho rằng bất kỳ một sự vật nào cũng chứa đựng mâu thuẫn. Không ở đâu là
không có mâu thuẫn và không bao giờ không có mâu thuẫn. Nhìn sự vật mà chỉ
thấy sự đồng nhất, đồng nhất tuyệt đối là lối nhìn hời hợt, nông cạn, bề ngoài.
Mâu thuẫn là một khái niệm để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các
mặt đối lập. Các mặt đối lập là những bộ phận, những nhân tố có thuộc tính hoặc
có khuynh hướng vận động trái ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật, tác
động qua lại với nhau tạo nên sự vận động và biến đổi của sự vật đó. Sự tồn tại
các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật. Tất cả các
sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau.
Chẳng hạn, trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa, trong kinh tế thị trường có
cung và cầu, v.v Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách
khách quan và phổ biến cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện
chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát
triển của nhận thức.
Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến, nên mâu thuẫn có tính đa dạng
và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng
khác nhau. Trong mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một mâu thuẫn, mà
có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm,
có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì
vậy, cần phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ
thể.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa
đấu tranh với nhau. Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự thống
nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các
mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này là tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của mặt
kia.
Trong quy luật mâu thuẫn, khái niệm “thống nhất” và “đồng nhất” thường
được dùng cùng một nghĩa. Nhưng cũng có lúc, khái niệm “đồng nhất” được
hiểu theo nghĩa là sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập
tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống
nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập.
Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “đồng
nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự
triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hóa
lẫn nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn
luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại
giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
Thứ hai, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động và sự phát
triển.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động
khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện
chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống
nhất gắn liền với sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: “Sự thống nhất
( ) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu
tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự
vận động là tuyệt đối”.
Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: lúc
đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt; sau đó phát triển lên thành
hai mặt đối lập; khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và
có điều kiện thì giữa chúng có sự chuyển hóa - mâu thuẫn được giải quyết. Mâu
thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và lại một quá trình mới làm
cho sự vật không ngừng vận động và phát triển. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ
được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay
thế.
Chẳng hạn, bất kỳ một sinh vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển
được khi có sự tác động qua lại giữa đồng hóa và dị hóa. Sự tiến hóa của các
giống loài không thể có được, nếu không có sự tác động qua lại giữa di truyền
và biến dị. Tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không
có sự cọ sát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng
sai
V.I.Lênin viết : “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối
lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có sự
đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể
tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ
cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do
đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển
hóa), thì không có sự phát triển. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết
quả của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các
hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn
nhau và cũng có thể chuyển hóa lên hình thức cao hơn
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của hai mặt đối
lập, trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu
tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt
đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên
tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật
chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp, gián đoạn.
Trong thực tế do có sự đồng nhất một cách sai lầm giữa đấu tranh với va
chạm đụng độ, rối loạn, mất ổn định, bè phái mất đoàn kết nên người ta ác cảm,
không có cảm tình với đấu tranh. V.I.Lênin khẳng định : “không thể đồng nhất
sự đấu tranh với các hiện tượng bè phái mất đoàn kết, vì các hiện tượng này
không tạo ra sự phát triển”. Trong phong trào cộng sản quốc tế trước kia có
người, có nơi quy sự khác biệt chính kiến về mâu thuẫn biến bạn thành thù nhằm
phục vụ lợi ích cá nhân, nhằm thực hiện mưu đồ chính trị cá nhân - ác cảm với
đấu tranh.
Mâu thuẫn là sự tác động qua lại, là sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập nhưng không phải chỉ có đấu tranh tức là quá nhấn mạnh vào đấu
tranh dân tộc, giai cấp, trong thống nhất có đấu tranh (đấu tranh trong sự thống
nhất), trong đấu tranh có thống nhất (bao hàm sự thống nhất).
Tóm lại: mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể
thống nhất của các mặt đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự
chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Mẫu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên
muốn nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự
vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt,
những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra
những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V.I.Lênin
viết: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận của nó , đó
là thực chất của phép biện chứng".
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu
thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập,
mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa
chúng. Đồng thời, cũng phải xem xét các mâu thuẫn cụ thể với vai trò, vị trí và
mối quan hệ của nó. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật,
hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một
cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các
mặt đối lập và với những điều kiện chín muồi.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn,
không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù
hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện
và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật
là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng
thái chín muồi của mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã
chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội
vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng không để cho việc mâu thuẫn và tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ
chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình
thức cụ thể rất khác nhau). Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải
quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều
kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. Phải tìm
ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng
loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Vận dụng vấn đề này vào thực tiễn đơn vị mình, chúng tôi nhận thấy nó có
ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn to lớn, không chỉ giúp lãnh đạo, chỉ huy
nhận thức, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong tập thể đơn vị, tạo
sự thống nhất và động lực mạnh mẽ để phát triển mà còn góp phần xây dựng tổ
chức Đảng, tổ chức chỉ huy trong đơn vị vững mạnh, toàn diện. Đặc biệt là đối
với chế độ phê bình và tự phê bình trong tập thể đơn vị và mỗi cá nhân. Bởi vì,
tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tổng kết
thực tiễn, phát triển lý luận, xây dựng đường lối chính sách phù hợp, tổ chức
thực hiện hiệu quả, khắc phục sai lầm, khuyết điểm, phát huy ưu điểm để Đảng
thật sự là đội tiền phong cách mạng chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn dân tộc. Tự phê bình và phê bình trong sinh họat đảng là quy
luật xây dựng, phát triển đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong Đảng, mỗi đảng viên nếu không có đấu tranh giữa cái đúng và sai,
giữa thiện và ác, phải trái, tốt xấu, tiến bộ và lạc hậu thì không có bất kỳ sự vận
động phát triển nào. Công tác đấu tranh tự phê bình và phê bình là một trong
những quy luật, động lực cho sự phát triển vững mạnh của đảng ta và đó cũng là
nguyên tắc sinh hoạt đảng. Cần học tập quán triệt quan điểm tự phê bình và phê
bình của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tự phê bình trước, phê bình sau. Tự phê bình là
mỗi đảng viên phải tự thấy rõ mình để phát huy mặt ưu điểm, khắc phục nhược
điểm. Tự phê bình mà tốt thì mới phê bình người khác được. Khi phê bình phải
có quan điểm khách quan tránh cá nhân chủ quan và phải có quan điểm xây
dựng né tránh dĩ hoà vi quý. Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp
nhau tiến bộ.
Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải "mở rộng phong trào phê bình và tự
phê bình ở trong tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, các cơ quan, đoàn thể trong đơn
vị. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống
và từ dưới lên". Lãnh đạo, người đứng đầu phải gương mẫu, đi tiên phong trong
đấu tranh phê bình và tự phê bình, đồng thời phải biết lắng nghe ý kiến của cấp
dưới, quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: "Chúng ta không sợ sai lầm,
chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì
phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình".
Thường xuyên duy trì và thực hiện nghiêm nề nếp, chế độ phê bình và tự
phê bình, không làm chiếu lệ và hình thức. Với những ý kiến phê bình đúng của
quần chúng thì các tổ chức đảng, người đứng đầu cần tiếp thu nghiêm túc và có
biện pháp sửa chữa. Đối với những ý kiến không đúng thì phân tích và giải thích
đầy đủ với thái độ thực sự "trọng dân" và có ý thức trách nhiệm.
Là một người lãnh đạo, chịu trách nhiệm chính về sự phát triển của tập thể
đơn vị, chúng tôi nhận thức sâu sắc hơn hết về vấn đề này. Để góp phần lãnh
đạo đơn vị phát triển đi lên, chúng tôi thiết nghĩ càn phải đi sâu sát, nắm bắt tình
hình mọi mặt đơn vị, kịp thời phát hiện và giải quyết tốt các mâu thuẫn nảy sinh,
cản trở sự phát triển của đơn vị, nhất là những vấn đề nảy sinh, ảnh hưởng đến
lợi ích của cán bộ, nhân viên trong đơn vị. Từ đó tạo ra sự thống nhất ý chí và
hành động để đơn vị phát triển đi lên. Bản thân những cán bộ lãnh đạo, người
đứng đầu đơn vị như chúng tôi cần gương mẫu tự phê bình và phê bình, thẳng
thắn nhìn nhận thiếu sót, khuyết điểm, chân thành tiếp thu ý kiến đóng góp của
cấp dưới và tích cực sửa chữa, rèn luyện bản thân, để làm tròn trách nhiệm đối
với tập thể đơn vị, đáp ứng sự tin tưởng và tín nhiệm của đơn vị.
Trong mỗi sự vật hiện tượng luôn tồn tại những mật đối lập,chúng
tồn tại và thống nhất với nhau tạo nên cơ sở tồn tại cho sự vật đó,biểu hiện
tính ổn định tương đối cho sự vật đó.Các mặt đối lập luôn tác động qua lại
với nhau và sự tác động qua
lại giữa chúng tạo thành mâu thuẫn biện chứng
của sự vật. Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau
dể tạo thành sự vật mới hơn . Cứ nh- vậy các sự vật , hiên tượng trong thế
giới khách quan thường xuyên biến đổi và phát triển không ngõng . Vì vậy
mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực phát triển của mọi quá
trình phát triển.
Mâu thuãn bao giê cũng được giải quyết bằng hình thức đấu
tranh.Tuy nhiên phải xác dịnh điều
kiện lịch sử cụ thể để sử dụng hình thức
đấu tranh cho phù hợp phù hợp trong từng vô việc cụ thể,từng mâu thuẫn
cụ thể.
Nội dung 3 : Đề ra đường lối đổi mới, trong Văn kiện ĐH VI, Đảng coi
việc “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan” là một trong những bài học kinh nghiệm quý báu.
Dựa vào mối quan hệ giữa vật chất và ý thức phân tích bài học trên và nêu ý
nghĩa của nó trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay.
Việc vận dụng những quan điểm của triết học trong xác định đường lối của
mỗi chính đảng, mỗi quốc gia dân tộc là điều rất quan trọng ; việc đề ra đường
lối đó nếu xuất phát từ thực tiễn khách quan, phù hợp với thực tiễn khách quan
thì đó là đường lối đúng đắn, giúp cho chính đảng đó, quốc gia, dân tộc đó phát
triển và ngược lại. Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng, tại Đại hội VI của
Đảng, Đảng ta đã xác định bài học “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Đây là một bài học quý
báu của Đảng. Để thấy được bài học này, Đảng ta đã vận dụng khéo léo chủ
nghĩa Mác – Lê nin trên cơ sở tổng kết thực tiễn lúc bầy giờ ở nước ta.
Trước hết trên quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta đã vận dụng mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức làm nền tảng để rút ra bài học quý báu này. Như
vậy, để hiểu được sâu nội hàm của bài học này, chúng ta cần phân tích và làm rõ
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cũng như ý nghĩa của nó trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm
trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học
trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết
học. Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là
thế giới vật chất . thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý
thức con người .
Lênin –người đã bảo vệ và phát triển triết học Mác đã nêu ra định nghĩa
“vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
để làm cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác » (Lênin toàn tập 8, Nhà
xuất bản tiến bộ Maxcơva-1980. trang 151).
Định nghĩa trên thể hiện mấy nội dung cơ bản sau :
Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái quát
nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng
trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày .
Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan” , “tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”, đó củng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là
vật chất và cái gì không phải là vật chất .
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác “tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” . điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất ) là
cái có trước (tính thứ nhất), còn “cảm giác” (ý thức) là cái có sau (tính thứ hai )
và nó tồn tại không lệ thuộc vào ý thức con người.
“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,đươc
cảm giác của chúng ta chép lại ,chụp lại, phản ánh”.Điều đó nói lên “thực tại
khách quan” (vật chất) được biểu hiên thông qua các dạng cụ thể bằng “cảm
giác” (ý thức) con người có thể nhận thức được . Và “thực tại khách quan” (vật
chất) chính là nguồn gốc nội dung của “cảm giác” (ý thức).
Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng, vô tận luôn vận động
và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa
học đi nghiên cứu thế giới vật chất, tim ra những kết cấu mới, những thuộc tính
mới và những qui luật hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng
vật chất của nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật biên chứng khẳng định ý thức của con người là sản
phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật biên
chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông
qua hoạt động thực tiển, nên bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là
nội dung của ý thức là do thế giới khách quan qui định , nhưng ý thức là hình
ảnh chủ quan , là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý , vật chất
như chủ nghĩa duy vật bình thường quan niệm.
Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan , củng có
nghĩa là ý thức là sự phản ánh tư giác , sáng tạo thế giới .
Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận
thông tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có, ý thức sẽ tạo ra tri thức mới về
vật chất. Ý thức có thể tiên đoán, tiên liệu tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, những huyền thoại, những giả thiết khoa học …. Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song
đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế
giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối
tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và
chuyển vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực
hoá mô hình tư duy-đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần
tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội,
phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chinh là bản chất xã hội của ý
thức.
Quan điểm Mác xit cho rằng vật chất quyết đinh ý thức, ý thức là sản
phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người. Bộ óc con
người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc –đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động và thực tiển của xã hội .
Từ nội dung trên chúng ta có thể thấy vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng với nhau, thể hiện ở một số điểm sau:
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức
thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội
nhất định. Những ước mơ phong tục, tập quán, thói quen nầy nẩy sinh trên
những điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiển xã hội – lịch sử . Chủ nghĩa xã
hội khoa học đời củng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về kinh tế
chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng , văn hoá
nhân loại cùng với thiên tài của cácmác và Ăngghen .
Do thưc tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của
nó củng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng
quyết định ý thức . Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất . Với
tính độc lập tương đối của mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiển của con người .
Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hảm thâm chí phá
hoại sự phát triển bình thường của sự vật .
Vai trò của ý thức là ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình
thành mục tiêu , kế hoạch , ý trí biện pháp hoạt động của từng người . Cho nên
trong điều kiên khách quan nhất định ý thức – tư tưởng trở thành nhân tố quan
trọng có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành
công hay thất bại.
Sức mạnh của ý thức con người không phải ở trổ tách rời điều kiện vật
chất thoát li điều kiện khách quan mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có
phản ánh đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng
tạo và có hiệu quả . “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan
mà còn tạo ra thế giới khách quan” (Lênin).
Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác
xit. Trong nhận thức và thực tiễn , chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách
quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Đồng
thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của
con người trong việc nhân thức ,tác động cải tạo thế giới. Quan điểm khách quan
trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của
ý thức, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui luật khách
quan, xa rời hiện thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất.
Ở nước ta, trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng
ta mắt bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong
việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu
kinh tế ;về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng sản
xuất còn nhỏ bé , chưa phát triển , còn chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế
hàng hoá chưa phát triển . Chúng ta chỉ muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều kiện thực tế
của đất nước .
Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư ,
thường chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh , không tính đến điều kiện và khả
năng thực tế đề ra những chỉ tiêu kế hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất .
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có
hiện tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi
đúng ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng
bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài
để phát triển lực lượng sản xuất .
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu
kém về lý luận ,do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ
quan liêu bao cấp .
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học:
« Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan » (VKĐH 6, trang 30 ).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng, phải thừa nhận và
tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự nhiên và xã hội,
không được xuất phát từ ý muốn chủ quan .
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng
đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư
duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ.
Mỗi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực
tế khách quan của đất nước và phù hợp qui luật. Chúng ta biết rằng ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó
càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác, đầy đủ trung thực và sử
lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu
quả. Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và
vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách quan.
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng ta xác
định : “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
qui luật khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách
quan ). Như vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ vật chất và ý thức,
cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo
cách mạng nước ta, Đảng ta đã rút ra bài học trên.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, bài học mà Đảng ta xác định nêu trên có ý
nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện nay, tình hình và
cục diện thế giới có nhiều biến đổi không ngừng tạo ra cho chúng ta cả thời cơ
và thách thức, từ đó, cách mạng nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng phát huy
sự hiệu quả lãnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng, tranh thủ đươc
thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước ta đang
phải đối diện để từ đó có những bước đi thích hợp đưa nước ta từng bước xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, trrên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức. Vận dụng vào thực tiễn nước ta, Đảng ta thấy rõ mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và tình hình chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc
đổi mới từ đổi mới về tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật
chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin
của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH. Bên cạnh
đó, với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các
chủ trương, chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Cụ thể như : Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản
xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong
một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác
định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý
luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị
kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan
hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và
cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ SX phải phù hợp với lực lượng SX,
Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố
trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập
trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất
lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu.
Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc
bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc
tạo ra sản phẩm hàng hóa
Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh
lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng đổi mới, sửa đổi lối làm
việc. Thực trạng của tình hình chính trị - kinh tế - xã hội trong những năm qua
và những biến đổi tích cực đã khẳng định tính đúng đắn về việc gắn lý luận và
thực tiễn.