Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đề cương môn luật so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.06 KB, 42 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP LUẬT SO SÁNH
1.
Luật so sánh là gì? Phân tích các đối tượng của luật so sánh.
Khái niệm: Là môn khoa học pháp lý tổng quát sử dụng phương pháp so sánh là trọng yếu để nghiên cứu các
vấn đề pháp luật thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước một cách
riêng biệt và nghiên cứu việc sử dụng cũng như hiệu quả của phương pháp so sánh luật
Đối tượng:
- Pháp luật nước ngoài: Do mỗi nước, mỗi khu vực có nền tảng kinh tế - xã hội – lịch sử khác nhau dẫn đến
một hệ thống pháp luật có sự khác biệt lớn. Pháp luật nước ngoài là đối tượng nghiên cứu quan trọng của
LSS, nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật các nước
- Phương pháp so sánh: phương pháp chủ yếu dùng để nghiên cứu LSS, có nhiều mức độ so sánh để rút ra
giải pháp cho luật thực định.
+ so sánh hệ thống: hệ thống pháp luật không chỉ được tạo thành từ các quy phạm mà pháp luật phải luôn
được hiểu là một hệ thống, luôn bao gồm 2 yếu tố tĩnh và động
+ so sánh tiếp cận theo chức năng: Mọi thứ phải so sánh khi nó cùng 1 chức năng, so sánh phải xuất phát từ
nhu cầu điều chỉnh
2.
Phân biệt và chỉ ra mối liên hệ giữa so sánh vĩ mô và so sánh vi mô.
- So sánh vĩ mô: so sánh các hệ thông pháp luật về tinh thần, phong cách, tư duy pháp lý, thủ tục … Cụ thể
là phương pháp xử lý các tư liệu pháp lý, thủ tục giải quyết các tranh chấp, kỹ thuật lập pháp, kiểu pháp điển
hóa, giải thích pháp luật, xem xét tiền lệ, việc đóng góp của nhà trường vào việc phát triển pháp luật, quan
điểm về tư pháp, cách thức giải quyết xung đột, vai trò của luật sư và thẩm phán trong việc chứng minh sự
kiện và thiết lập pháp luật,….
- So sánh vi mô: So sánh các vấn đề pháp lý cụ thể và cách giải quyết chúng, ví dụ như chế định hợp đồng,
nghĩa vụ…
Hai mức độ so sánh này không có ranh giới rõ ràng. Tuy nhiên so sánh vĩ mô là so sánh cái chung của hệ
thống pháp luật, so sánh vi mô là đi vào cái riêng cụ thể. Trên thực tế, khi so sánh người ta phải thực hiện
đồng thời cả hai mức độ nghiên cứu, so sánh vĩ mô sẽ tạo tiền đề để so sánh vi mô hiệu quả.
3.
Đối tượng của Luật so sánh.
Các hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, so sánh các chế định cụ thể dưới phương pháp


của luật so sánh nhằm tìm ra, lý giải sự tương đồng, khác biệt
Nghiên cứu về só sánh như là 1 phương pháp trong luật học so sánh
Quá trình hình thành và phát triển của sự so sánh luật
4.
Phân biệt so sánh hình thức và so sánh chức năng.
Phương pháp so sánh chức năng:
Tìm các chế định pháp luật có chức năng tương đương nhau trong các hệ thống pháp luật khác nhau
So sánh các giải pháp được sử dụng trong các hệ thống pháp luật khác nhau để giải quyết cùng một
vấn đề xã hội nảy sinh tại các xã hội khác nhau để tìm ra ưu điểm và hạn chế.
Các điều kiện để thực hiện phương pháp so sánh theo chức năng
1)
Người nghiên cứu phải xuất phát từ bản thân hệ thống pháp luật nước ngoài( mà đang là đối tượng
để nghiên cứu); không bị ảnh hưởng ở những khái niệm hay học thuyết giáo điều của hệ thống pháp luật
nước mình; và phải tập trung vào các chức năng mà các chế định của hệ thống pháp luật đang nghiên cứu,
thực hiện; nói cách khác, phải phát hiện đc các chức năng của các chế định đó và phân tích đc các giải pháp
để giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh ra các nhu cầu cần điều chỉnh, hơn là tìm đến cấu trúc học thuyết
của chúng.
2)
Người nghiên cứu phải chú ý đến tất cả các nguồn của pháp luật theo quan niệm của hệ thống pháp
luật đang nghiên cứu( có nghĩa là những gì tạo nên pháp luật sống), có thể bao gồm: VBQPPL, án lệ, tập
quán, hợp đồng tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh, thực tiễn thương mại,..
3)
Người nghiên cứu phải am hiểu nhiều ngành khoa học có liên quan như chính trị học, kinh tế học,xã
hội học, nhân chủng học, địa lý học, lịch sử pháp truyền và các ngành khoa học pháp lý khác.
5.
Nêu và phân tích chức năng và mục đích của luật so sánh. Luật so sánh có ý nghĩa như thế nào
đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
* Chức năng của LSS:
Hỗ trợ các cơ quan lập pháp xây dựng luật
Giúp cho quá trình nhất thể hóa và hội nhập pháp luật:



Tìm những vấn đề cụ thể cần thống nhất
Điểm giống và khác nhau
Căn nguyên của sự khác biệt
Giải pháp cho tiến trình nhất thể hóa và hội nhấp pháp luật
Xây dựng nhiều điều ước quốc tế thống nhất một số lĩnh vực pháp luật từ xưa đến nay và hiểu một
cách đầy đủ nội dung của các điều ước quốc tế
Cải cách pháp luật quốc gia. Nó cung cấp cho các nhà làm luật, các nhà lý luận, các thẩm phán và
những người hoạt động thực tiễn pháp lý khác những giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội
Hỗ trợ cho việc đánh giá và áp dụng pháp luật của thẩm phán
Người học có nhận thức tổng quát, linh động, không bị đóng đinh vào một quan niệm nào đó
Những người tham gia các giao dịch quốc tế tránh khỏi những sai lầm và biết được thực chất các
công việc của mình
* Ý nghĩa LSS ở Việt Nam
LSS có ý nghĩa lớn đối với VN hiện nay. Trình độ lập pháp của VN còn yếu kém, pháp điển hóa pháp luật
không tốt, nhiều điều luật chồng chéo nhau hoặc không cần thiết. Cần nghiên cứu tư duy pháp lý, kĩ thuật
lập pháp các nước để bổ sung cho pháp luật hiện hành. Hơn nữa, trong thời kì hội nhập, nếu không am hiểu
về pháp luật quốc tế thì rất dễ bị thua thiệt.
6.
Phân biệt và chỉ ra mối liên hệ giữa luật so sánh với lịch sử nhà nước và pháp luật
Luật so sánh nghiên cứu các hệ thống pháp cùng tồn tại về mặt không gian. Song đây chỉ là nhận xét có tính
chất khái lược.
Luật so sánh và LSNNVPL đc ví như 1 cặp bài trùng, luôn luôn cần có nhau và sử dụng lẫn nhau. Trong các
công trình lịch sử pháp luật, người ta thường dùng phương pháp so sánh để thấy rõ hơn 1 vấn đề lịch sử,
chẳng hạn giáo sư Oliver Oldman cho rằng Bộ Quốc triều Hình luật có nhiều tiến bộ có thể sánh ngang về
mặt chức năng với quan điểm pháp luật Phương Tây cận đại. của các vấn đề pháp lý. Các điểm riêng biệt
của của các hệ thống PL chỉ đc làm rõ thông qua việc phân tích lịch sử.
ở phía kia, LSS cũng luôn luôn cần đến sự phân tích lịch sử để thấy rõ hoàn cảnh xã hôi, động lực thúc đẩy
sự ra đời và phát triển

tuy nhiên, LSS và LSNNVPL là 2 bộ môn riêng biệt mà khó có thể mô tả đầy đủ ranh giới giữa chúng. Nếu
xem việc so sánh các vấn đề pháp luật về mặt thời gian là đối tượng của LSS, thì có nghĩa là quan niệm đó
đã hợp nhất LSNNVPL và LSS
7.
Phân biệt và chỉ ra mối liên hệ giữa luật so sánh và công pháp quốc tế.
CPQT và LSS có rất ít điểm chung,tuy nhiên chúng có những mối quan hệ.
LSS là 1 yếu tố quan trọng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia nhằm hợp tác trong các
lĩnh vực.
Luật so sánh cóa giá trị đối với quá tình xây dựng điều ước quốc tế ( điều ước song phương hoặc đa
phương)
Luật so sánh có giá trị đối với nguồn của pháp luật quốc tế. Đó là nguồn của điều của điều ước quốc
tế, tập quán quốc tếm, luật của các quốc gia trên thế giới.
Luật so sánh giúp xác định nguyên tắc nào là nguyên tắc pháp lý chung của luật quốc tế.
Ví dụ: Các quốc gia theo nguyên tắc chung của công pháp quốc tế, có nghĩa vụ đối xử đối với công
dân nước ngoàitheo chuẩn mực quốc tế tối thiểu phù hợp với các tiêu chuẩn về đạo đức của các gia văn
minh => chỉ có sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật hiện hành mới có thể xá
định các chuẩn mực quốc tế tối thiểu mang tính phổ biến.
8.
Phân biệt và chỉ ra mối liên hệ giữa luật so sánh và tư pháp quốc tế
TPQT là 1 phần của luật thực định còn LSS là một môn khoa học thuần túy.
Là lãnh vực pháp luật đặc biệt điều chỉnh các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Chủ thể của pháp luật dân sự: Cá nhân, pháp nhân. Nếu như có yếu tố nước ngoài thì quan hệ dân sự
không được điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia mà bởi tư pháp quốc tế.
Giải quyết các mâu thuẫn
Ví dụ: Pháp là nơi nhiều nước ngoài gửi tiền nhưng không may xảy ra tranh chấp mà việc giải quyết
những tranh chấp đó ở mỗi hệ thống pháp luật khác nhau (xung đột pháp lý). Thì người ta có sử dụng hai
biện pháp: sử dụng xung đột pháp lý hoặc pháp luật thực chất để giải quyết.


+ Xung đột pháp lý: sử dụng các quy phạm xung đột. quy phạm xung đột là quy phạm không quy định

quyền và và nghĩa vụ của các bên mà chỉ ra hệ thống pháp luật nào được viện dẫn để giải quyết (quy phạm
này cung cấp kiến thức pháp luật của nhiều nước trên thế giới).
+ Pháp luật thực chất: Sử dụng quy phạm thực chất là quy phạm có quy định quyền và nghĩa vụ của các bên
cụ thể hoặc các điều ước quốc gia đã thống nhất.
9.
Trình bày khái quát về lịch sử phát triển của luật so sánh trên thế giới.
Việc sử dụng phương pháp so sánh:

Aristotle(384-322 BC) đã nghiên cứu so sánh 153 bản qui của các thành phố Hy Lạp và các thành
bang

Bộ luật 12 bảng cũng đc làm ra với việc sử dụng phương pháp so sánh

Motesquieu cũng sử dụng phương pháp ss để thiết lạp nên những nguyên tắc chung cho việc tổ chức
chính quyền

Thời trung cổ, ng ta đã ss Luật LM và Luật giáo hội, còn ở Anh vào thế kỷ 16, so sánh ưu điểm của
thông luật và luật giáo hội…
Sự xuất hiện LSS

Giữa thế kỷ 19, trào lưu quốc gia hóa tư tưởng pháp luật xuất hiện phá vỡ khái niệm pháp luật chung
cho toàn thế giới ( jus commune)

Mở rộng quan hệ quốc tế

Cuối thế kỷ 19, LSS trở thành 1 môn khoa học pháp lý bởi lúc này mục đích và phương pháp của nó
đc nghiên cứu có hệ thống và đc sử dụng nhiều trong thực tiễn
10.
Sự hình thành và phát triển của luật học so sánh ở Việt Nam.
Thời kì trước năm 1986, luật so sánh ở Việt Nam chủ yếu là so sánh lập pháp. Trong thời kì phong kiến, các

nhà làm luật của các triều đại phong kiến Việt Nam đã tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài để xây dựng
hệ thống pháp luật của mình. Mặc dù không có nền tảng lý thuyết về so sánh pháp luật như bây giờ nhưng
các nhà làm luật của Việt Nam đã chắt lọc những điểm hợp lý trong pháp luật nước ngoài mà chủ yếu là
pháp luật Trung Quốc để xây dựng hệ thống pháp luật của mình phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh xã hội
của Việt Nam
Ví dụ cho việc tiếp thu pháp luật Trung Quốc trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam là
“Quốc triều hình luật”- Bộ luật có giá trị đặc biệt trong cổ luật của Việt Nam. Mặc dù về hình thức và nội
dung thì Quốc triều hình luật có nhiều điều khoản giống những điều khoản của bộ luật nhà Đường nhưng nó
đã có sự sửa đổi cho phù hợp với nền kinh tế và truyền thống văn hóa của Việt Nam lúc này
Sau cách mạng tháng tám, với sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hệ thống pháp luật Việt
Nam đã từng bước được xây dựng. Có thể nói hầu hết các đạo luật lớn đặc biệt là Hiến pháp và các luật tổ
chức nhà nước Việt Nam đã được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật của nước ngoài nhất là pháp luật
xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, ở miền bắc, luật so sánh học thuật ít được chú trọng. Còn ở miền
nam, trong khoảng thời gian từ năm 1945-1975, các nhà làm luật cũng đã tham khảo pháp luật của các nước
như Pháp, Mỹ trong quá trình xây dựng pháp luật. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động lập
pháp của Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể và hệ thống pháp luật nước ta có nhiều điểm tương đồng với
pháp luật Liên vì khi xây dựng các văn bản pháp luật đều có sự tham khảo pháp luật Liên xô. Thời kì từ năm
1986 đến nay, những yêu cầu của quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật để có thể chủ động hào nhập với nền kinh tế thế giới. Do đó luật so sánh đã phát triển mạnh
hơn trên cả hai phương diện là so sánh lập pháp và so sánh học thuật
Bên cạnh đó, các tổ chức chuyên về luật so sánh đã được thành lập ở các trường đại học, các viện nghiên
cứu ở Việt Nam. Trong đó, ra đời sớm nhất vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước là phòng nghiên cứu luật
so sánh thuộc viện nhà nước và pháp luật thuộc viện khoa học xã hội Việt Nam. Bước sang thế kỉ XXI, nhu
cầu nghiên cứu, ứng dụng và phát triển luật so sánh ở Việt Nam ngày càng cần thiết, nhiều tổ chức chuyên
về luật so sánh đã được thành lập. Cùng với các công trình nghiên cứu và việc thành lạp các tổ chức chuyên
về luật so sánh, ở các cơ sở đào tạo luật, môn học luật so sánh đã được đưa vào chương trình đào tạo vào
những năm đầu thế kỉ XXI. Đến năm 2004, luật so sánh trở thành môn học bắt buộc đối với sinh viên theo
học chương trình cử nhân luật
11.
Vai trò của luật so sánh trong cải cách pháp luật quốc gia. Liên hệ tới Việt Nam.


Giá trị của Luật so sánh đối với quá trình hoàn thành hệ thống pháp luật
- Trong nhiều trường hợp xây dựng và áp dụng pháp luật một cách bế tắc thì ta nghiên cứu so sánh luật để
học hỏi kinh nghiệm nhằm tìm ra các giải pháp pháp lý tối ưu để đem về ứng dụng.


- Nhà hoạt động so sánh luật mà thay vì phải dự đoán và có nguy cơ phải chịu những giải pháp kém thích
hợp, họ có thể khai thác, tham khảo các kinh nghiệm quý báo, phong phú trong hệ thống pháp luật nước
ngoài do vấn đề mà nước khác đã giải quyết. Nbhững kinh nghiệm nào đó có thể học được ở đó có thể tìm
thấy những giải pháp đơn giản hơn, ít tốn kém hơn và đã được áp dụng có hiệu quả ở nước ngoài.
Ví dụ: Các quyết định "đùng một cái" chịu nhiều rủi ro chẳng hạn quyết định của Thủ đô Hà Nội cấm một số
phương tiện ngoại thành không được đi vào Thủ đô => phản ứng gay gắt của nhân dân (và nó được xóa bỏ
ngay).

Giá trị của Luật so sánh đối với quá trình nhất điển hóa pháp luật
- Hài hòa hóa là quá trình làm cho các nguyên tắc của hai hay nhiều hệ thống pháp luật trở nên có nhiều
điểm tương đồng khi giải quyết cùng nột vấn đề.
- Nhất điển hóa pháp luật là quá trình thống nhất ban hành các nguyên tắc pháp lý tương tự nhau giữa hai
hay nhiều hệ thống pháp luật.
Ví dụ: Công ước Warsaw 1929 về thống nhất các quy định về vận chuyển hàng không quốc tế hầu như được
tất cả các quốc gia thông qua đã tập hợp được số lượng rất lớn các quyết định tư pháp của nhiều nước có liên
quan tới việc giải thích công ước
12.
Các cách thức phân loại các hệ thống pháp luật trên thế giới được các nhà luật học so sánh nổi
tiếng trên thế giới tiếp cận như thế nào?
Việc phân loại các hệ thống pháp luật thực chất là hoạt động so sánh cấp vĩ mô, tức là căn cứ vào các đặc
điểm như tư duy pháp lý, kĩ thuật lập pháp … mà phân chia thành các họ pháp luật có các điểm tương đồng.
Khi tiến hành phân loại các hệ thống pháp luật nhất thiết phải chọn một cách tiếp cận nhất định
Phân loại của luật gia XHCN: căn cứ vào chế độ chính trị, phân loại các hệ thống pháp luật thành Hệ
thống Pháp luật XHCN và một hệ thống đối lập với nó là Hệ thống Pháp luật Tư sản.

Hệ thống Pháp luật châu Âu lại được phân loại thành bốn nhóm khác nhau dựa vào thời gian, cách
thức và mức độ mà giai cấp tư sản thành công trong việc thiết lập quan hệ sản xuất tư bản trong lòng chế độ
phong kiến. Các nhóm đó bao gồm: (1) Anh và các nước Phương Bắc; (2) Pháp; (3) các nước nói tiếng Đức
ở Trung Âu, Hungary và một phần Đông Âu; (4) các nước ở Đông- Nam châu Âu.
Dựa vào những yếu tố căn bản ảnh hưởng tới pháp luật như: tôn giáo, luân lý và công lý, có quan
niệm phân loại các hệ thống pháp luật trên thế giới thành ba loại: Hệ thống Pháp luật Hồi giáo và Ấn Độ (bị
ảnh hưởng của tôn giáo); Hệ thống Pháp luật Trung Hoa (bị ảnh hưởng của luân lý); và Hệ thống Pháp luật
Pháp-La tinh, Hệ thống Pháp luật Anh–Mỹ, cũng như Hệ thống Pháp luật Xã hội Chủ nghĩa (bị ảnh hưởng
của công lý)
Lévy-Ullmann phân biệt ba họ pháp luật khác nhau: Họ Pháp luật Lục địa, Họ Pháp luật của các
nước nói tiếng Anh và Họ Pháp luật Hồi giáo.
Căn cứ vào nội dung mà tại đây có sự chú ý thích đáng tới nguồn gốc, xuất xứ và các yếu tố chung
của pháp luật. Đại biểu cho quan niệm này là Arminjon, Nolde, Wolff chia các hệ thống pháp luật trên thế
giới thành bảy họ khác nhau như: Pháp, Đức, Bắc Âu, Anh, Nga, Đạo Hồi và Đạo Hindu.
René David và John E.C. Brierley căn cứ vào tiêu chí kỹ thuật (như thuật ngữ, nguồn và phương
pháp của pháp luật) và tiêu chí chính trị, xã hội (bổ sung cho tiêu chí thứ nhất, là điều kiện đủ với sự xem
xét tới các nguyên tắc triết học, chính trị, kinh tế và mục tiêu xây dựng kiểu loại xã hội), sắp xếp các hệ
thống pháp luật trên thế giới thành Họ Pháp luật La Mã - Đức, Pháp luật XHCN, Common Law, Pháp luật
Đạo Hồi, Pháp luật Ấn Độ, Pháp luật Viễn Đông, Pháp luật châu Phi và Madagascar.
Konrad Zweigert và Hein Koetz cho rằng phải dựa vào phong cách pháp lý để phân loại các hệ thống
pháp luật trên thế giới, bao gồm các yếu tố: (1) Lịch sử phát sinh và phát triển của hệ thống pháp luật; (2)
Cách thức tư duy pháp lý đặc trưng và nổi bật; (3) Các chế định đặc biệt; (4) Các loại nguồn mà hệ thống
pháp luật chấp nhận và cách thức sử dụng chúng; và (5) Ý thức hệ của hệ thống pháp luật. Vì thế các ông đã
phân loại các hệ thống pháp luật trên thế giới thành các họ như: Họ Pháp luật La Mã, Họ Pháp luật Đức; Họ
Pháp luật Anh–Mỹ; Họ Pháp luật Bắc Âu; Họ Pháp luật XHCN; Họ Pháp luật Viễn Đông; Họ Pháp luật Đạo
Hồi; Họ Pháp luật Hindu.
13.
Tại sao nói việc phân chia các hệ thống pháp luật trên thế giới thành các nhóm khác nhau chỉ mang
tính chất tương đối?
14.

Phân tích sự hình thành và các giai đoạn phát triển của hệ thống pháp luật La Mã – Đức.
15.
Nêu một số tên gọi khác của hệ thống pháp luật La Mã – Đức và giải thích.



Civil law: nhấn mạnh căn nguyên của hệ thồng pháp luật này có xuất phát từ các bộ luật tư nổi tiếng
như bộ tổng luật Corpus Juris Civilis

Hệ thống pháp luật Châu âu lục địa: hình thành phát triển chủ yếu ở Châu Âu lục địa, khác hắn với
luật của Anh

Hệ thống pháp luật La Mã- Đức: Hai dòng pháp luật trụ cột là La Mã – Đức, mang nhiều yếu tố hàn
lâm.

Hệ thống pháp luật thành văn: Văn bản pháp luật thành văn là một loại nguồn căn bản của hệ thống
pháp luật này.
16.
Cơ cấu, vai trò của Bộ tổng tập luật dân sự (Corpus Juris civilis) của Hoàng đế Justinian (483565).

Cơ cấu:
Code: tập hợp các luật được Hoàng đế La Mã ban hành và đã chỉnh sửa, bổ sung, hủy bỏ những quy
định cũ, lạc hậu.
Digest : những luận giải, giải thích pháp luật của các luật gia La Mã
Institutes: Các sách về luật của các luật gia La Mã
Novels: những luật mới do Hoàng đế Justinian mới ban hành

Vai trò của Bộ tổng luật này:
17.
Phân biệt giai đoạn luật tập quán trước thế kỷ XIII và giai đoạn hình thành các trường phái

pháp luật tiếp nhận truyền thống của Luật La Mã từ thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XVIII.

Giai đoạn luật tập quán trước thế kỷ XIII:
Những tư liệu như: Bộ luật Justinianus, Tổng luận luật học Justinianus ( Digest), sách sưu tập các chế định
Justinianus, Luật mới Justinianus, Đại toàn quốc pháp Justianus, sách cầu nguyện ở Pháp và bán đảo Iberia
là những tác phẩm tiêu biểu cho LLM. Tuy nhiên, việc tìm hiểu và làm sáng rõ những qui phạm pháp luật
không đc coi trọng do kết quả của vụ việc phụ thuộc vào những yếu tố như ý trời, lời thề của đương sự, thut
tục tu thân, thử thách của tòa án hoặc đơn giản là phụ thuộc vào sự độc đoán của chính quyền, những quyết
định của tòa án k đc đảm bảo thực thi bởi chính quyền.
Trong bóng đêm của thời kỳ trung cổ, xã hội dường như quay lại với 1 chế độ nguyên thủy. giữa các cá nhân
và các nhóm xã hội với nhau, những trang chấp được giải quyết theo luật của kẻ mạnh và quyền lực độc
đoán của thủ lĩnh. Trong thời đại đó, trọng tài có ý nghĩa quan trọng hơn là pháp luật.

Giai đoạn hình thành các trường phái pháp luật tiếp nhận truyền thống của Luật La Mã từ thế kỷ XIII
đến cuối thế kỷ XVIII:
Xã hội nhận thức được sự cần thiết của pháp luật, xã hội đó bắt đầu hiểu ra rằng chỉ có pháp luật mới có thể
đảm bảo đc trật tự và an toàn mà ý trời đòi hỏi và cần thiết cho sự phát triển. Hình mẫu lý tưởng về xã hội
Thiên chúa giáo dựa trên cơ sở bác ái, nhân từ cũng như ý tưởng xây dựng một thành phố của chúa trời bị
gạt bỏ. Bản thân nhà thờ cũng nhận rõ hơn sự khác bị giữa xã hội tôn giáo của những người theo đạo và xã
hội phi tôn giáo. Vào thế ký XIII người ta đã thôi k lẫn lộn giữa tôn giáo và đạo đức với trật tự dân sự và
pháp luật nữa, vai trò độc lập của pháp luật đc công nhận. Các triết gia và luật gia đòi hỏi các mối quan hệ
xã hội phải đc dựa trên pháp luật, chấm dứt tình trạng vô chính phủ và chuyên quyền ngự trị bao thế kỷ qua,
xã hội công dân phải dựa trên cơ sở pháp luật: pháp luật cần phải đảm bảo đc trật tự và tiến bộ trong xã hội
công dân
18.
Kể tên và nêu tư tưởng chủ yếu của các trường phái pháp luật thúc đẩy sự ra đời của Họ pháp
luật La Mã- Đức. Các trường phái này ảnh hưởng thế nào đối với Họ pháp luật này?
Định nghĩa: Họ pháp luật được xây dựng trên di sản của Luật La mã và coi trọng pháp điểm hóa mà tại họ
pháp luật này, luật vật chất và luật tư được chú trọng. Vai trò của thẩm phán phần lớn bị giới hạn trong việc
áp dụng pháp luật vào những trường hợp cụ thể.

*Corpus juris civilis: Do Hoàng đế Justinian ban hành vào thế kỉ thứ VI, nền tảng của Luật La mã
Các trường phái pháp luật có ảnh hưởng đến sự hình thành:
Trường pháp luật học sư (glossators): ra đời vào thế kỉ 13 tại Italia. Tập trung giải thích các chế định
pháp luật theo nghĩa nguyên thủy trong Corpus juris civilis, bãi bỏ một số chế định không phù hợp (nô lệ)
hoặc đã được điều chỉnh bởi luật giáo hội. Có nhiều thành tựu trong nghiên cứu, chú giải luật La mã.


Trường phái hậu luật học sư (post – glossators): Thế kỷ 14. Tìm cách giải thích Luật La Mã cho phù
hợp với xã hội đương thời. Tìm kiếm các giải pháp trong luật La Mã và kế tục, hoàn thiện nó. Đóng góp
nhiều vào lĩnh vực thương mại và xung đột pháp luật.
Trường phái nhân văn (humanist): Thế kỷ 16. Tìm cách khôi phục nguyên bản luật La Mã. Rất giống
Glossator.
Trường phái pháp điển hoá hiện đại (Pandectist): thế kỷ 16 ở Đức. Quan tâm đến việc làm thế nào để
áp dụng các QPPL trong thực tiễn, làm cho nó không mâu thuẫn với tập quán pháp ở Đức. Thế hiện trong
Bộ luật Dân sự Đức 1896.
Trường phái pháp luật tự nhiên (Natural Law School): thế kỷ 17,18. Tư tưởng chủ đạo là ngoài pháp
luật do nhà nước ban hành còn có pháp luật cao hơn là pháp luật tự nhiên cùng tồn tại với thế giới và con
người, quyền tự nhiên là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Đặt nền móng cho việc phân chia luật công và luật
tư cùng nhiều môn khoa học pháp lý. Ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển của luật La Mã, đặt ra các chế định
hạn chế quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền tự do cá nhân, thúc đẩy pháp điển hoá...
19.
Trường phái pháp luật học sư/chú giải (Glossators).
Ra đời vào thế kỉ 13 tại Italia. Tập trung giải thích các chế định pháp luật theo nghĩa nguyên thủy trong
Corpus juris civilis, bãi bỏ một số chế định không phù hợp (nô lệ) hoặc đã được điều chỉnh bởi luật giáo hội.
Có nhiều thành tựu trong nghiên cứu, chú giải luật La mã.
Cố gắng lập lại ý nghĩa ban đầu của các đạo luật La Mã. Nhiều chương của Bộ luật Justinianus bị lãng quên
vì chúng hoặc nói về những quan hệ không còn tồn tại( ví dụ chế độ nô lệ) hoặc về những quan hệ do Luật
giáo hội điều chỉnh ( vợ chồng, di chúc). Kết quả do công việc của những người theo trường phái này là tạo
ra công trình của Accursin vào thế kỷ 13 tổng hợp gần 96000 câu chú giải.
20.

Trường phái pháp luật hậu học sư (Post – Glossators)
Thế kỷ 14. Tìm cách giải thích Luật La Mã cho phù hợp với xã hội đương thời. Tìm kiếm các giải pháp
trong luật La Mã và kế tục, hoàn thiện nó. Đóng góp nhiều vào lĩnh vực thương mại và xung đột pháp luật.
Luật La Mã được cải biên, chỉnh lý lại. Như vậy, nó chuẩn bị cho sự phát triển hoàn toàn mới tiếp theo ( luật
thương mại, tư pháp quốc tế) đồng thời cũng được hệ thống hóa, trái ngược hẳn với sự lộn xộn của bộ sách
tổng luận luật học Justinianus và tinh thần thực nghiệm, tiểu tiết của các nhà luật học thành Rôm. Từ đây các
luật gia cố gắng sử dụng Luật La Mã theo bối cảnh mới
21. Trường phái pháp luật nhân văn
22.
Trường phái pháp điển hóa hiện đại (Pandectists).

23.

Trả lời:
- Là trường phái của các nhà pháp điển hiện đại.
- Xuất hiện ở Đức vào TK XVI.
- Trường phái này kế tục sự tiến bộ của trường phái hậu luật học sư (post – glossators) – đó là việc
nghiên cứu và tiếp thu những giá trị ở các quy định của Luật La Mã và giải thích sao cho phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới, nhưng thay vào đó, trường phái này phát triển các quy định
của Luật La Mã theo hướng hiện đại hơn để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới.
- Các nhà pháp điển của trường phái này đã thêm vào Luật La Mã một chút “tính Đức” bằng việc
cải cách với những khái niệm, thuật ngữ chính xác, khoa học mà chỉ những vị bác học, giáo sư
mới có thể hiểu được, dẫn đến hệ quả pháp luật khó đi vào dân và thực tiễn cuộc sống.
Trường phái luật tự nhiên (Natural law).
Trả lời:
- Quyền tự nhiên là: dân chủ, quyền tự nhiên của con người – quyền sống, tự do, mưu cầu hạnh
phúc, quyền sở hữu tài sản…
- Thực chất trường phái này đã manh nha xuất hiện từ thời Cổ đại – thời của Aristot và Ciceron khi
cho rằng thứ pháp luật cao hơn cả pháp luật do con người tạo ra chính là quy luật tự nhiên.
- Thực sự phát triển vào thế kỷ XVII, XVIII, đề cao quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm

phạm của con người. Pháp luật là sản phẩm của lí trí con người, phải lấy luật tự nhiên làm cơ sở,
nền tảng.
- Trường phái này bảo vệ và đề cao quyền con người, quyền công dân trong xã hội nên tất yếu nó
sẽ hạn chế và chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước mà xâm phạm đến quyền tự nhiên của
con người. Tư tưởng này đặt nền móng cho sự phân chia luật công – luật tư cùng với các ngành


24.

25.

luật thuộc nhánh luật công (hiến pháp, hành chính…) nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo
vệ quyền của cá nhân.
Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra ngoài Châu
Âu từ thế kỷ XVIII đến nay.
Trình bày các đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp luật La Mã – Đức.
Trả lời:
 Pháp điển hóa:
- Giai đoạn này là cuộc cách mạng lớn trong sự phát triển tư tưởng pháp luật của nhân loại, nó làm
thay đổi toàn bộ cục diện của hệ thống pháp luật châu Âu.
- Được đánh dấu bởi sự ra đời của các văn bản luật quan trọng. Có thể kể đến bản Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 – cơ sở, nền tảng cho bản hiến pháp của nhiều
nước trên thế giới (đề cao quyền tự nhiên của con người, của công dân)  nền móng ra đời Hiến
pháp (1791). Pháp và Đức lần lượt cho ra đời 1 loạt các bộ luật quan trọng: BLDS Napoleon
1804, BLTTDS, BLHS, BLTM…
- Pháp điển hóa cho phép ý tưởng của trường phái luật tự nhiên biến thành hiện thực ( ra đời các
ngành luật thuộc nhánh luật công), chấm dứt tình trạng manh mún của pháp luật, sự tràn lan của
luật tập quán, giảm pháp luật châu Âu thành một số hệ thống nhất định.
 Sự phát triển ra ngoài lục địa Châu Âu:
- BLDS của Pháp đặc biệt có ảnh hưởng tới Bỉ, Hà Lan, Ý, Luxembourg, Ba Lan, Rhenan...

- Do Pháp có nhiều thuộc địa ở Bắc Phi, Trung Phi, Tây Phi, ĐNA, Nam Mỹ nên PL của Pháp đã
có ảnh hưởng rất lớn đến pháp luật ở các nước thuộc khu vực đó.
- BLDS Đức làm mất hiệu lực của hàng loạt luật địa phương và được tiếp nhận ở Liên Xô, Tiệp
Khắc, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc…
 Đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp luật La Mã – Đức (Civil Law):
- Có sự phân chia luật công – luật tư: Do quan niệm mối quan hệ giữa công quyền với nhau hoặc
giữa công quyền với tư nhân không thể đặt lên cùng một bàn cân với mối quan hệ tư - tư, cần
phải có sự phân định rạch ròi. Hơn nữa, ở cả 2 mảng pháp luật này đều có mục đích, đối tượng,
nguyên tắc và phương pháp điều chỉnh khác nhau.
- Trình độ pháp điển hóa, kỹ thuật lập pháp cao: thể hiện ở giai đoạn pháp điển hóa – phát triển
pháp luật TK XVIII cho đến nay, đã xây dựng rất nhiều những bộ luật quan trọng ở các quốc gia
thuộc hệ thống Civil Law mà vẫn còn
- Chịu sự ảnh hưởng của truyền thống pháp luật La Mã (luật tư): Luật La Mã – pháp luật của 1
nền văn minh tuyệt vời lúc bấy giờ có tầm ảnh hưởng vô cùng sâu rộng với những giá trị còn lưu
giữ và được tiếp thu đến tận ngày nay. Hào quang của luật La Mã rất lớn cộng với lãnh thổ thuộc
địa của đế quốc La Mã trải dài qua nhiều quốc gia với thứ ngôn ngữ la- tinh rất được giáo hội ưa
chuộng  Luật La Mã tác động rất lớn đến tư tưởng của các nhà lập pháp ở các nước thuộc hệ
thống Civil Law.
Phân tích các nguồn pháp luật của hệ thống pháp luật La Mã – Đức. So sánh với nguồn pháp
luật của hệ thống pháp luật Common Law (Anh-Mỹ).
Trả lời:
 Nguồn luật của họ pháp luật:
Có nhiều quan niệm về nguồn pháp luật: 1- nguồn của các quan điểm, tư tưởng PL; 2- nguồn tạo nên
quy phạm PL; 3- nguồn chứa đựng, thể hiện pháp luật.
Theo quan niệm 3 thì nguồn pháp luật của hệ thống Civil Law bao gồm các loại nguồn cơ bản sau:
- Pháp luật thành văn: rất được coi trọng ở hệ thống PL này – nguồn đầu tiên và độc nhất của họ
pháp luật này. Bao gồm các loại văn bản sau:
+ Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước – văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất với
những quy phạm có tính tối thượng – trình tự ban hành, sửa đổi hiến pháp đặc biệt hơn so với
các đạo luật thông thường (hội đồng bảo hiến hay Tòa án hiến pháp). Sự giám sát tính hợp

hiến của những luật khác được xây dựng là một minh chứng cho tính tối thượng và uy quyền
của hiến pháp.
+ Công ước quốc tế: Vai trò của công ước quốc tế có thể sánh với ý nghĩa của hiến pháp. Tuy
nhiên quan niệm về hiệu lực của công ước quốc tế so với nội luật của mỗi quốc gia lại có sự
khác nhau: ở một số nước như Pháp, Hà Lan – công ước quốc tế có hiệu lực cao hơn nội luật;


-

-

-

-

các cấp Tòa ở Tây Đức lại coi công ước quốc tế có hiệu lực ngang hàng với các đạo luật
trong nước nhưng hiến pháp lại ưu tiên luật quốc tế hơn nội luật. Nhưng nhìn chung thì các
nước châu Âu đều có quan điểm chung thống nhất là công ước quốc tế có hiệu lực dưới hiến
pháp nhưng trên đạo luật quốc gia.
+ Bộ luật: Ở thời điểm mới xuất hiện, “bộ luật” dùng để chỉ tuyển tập những luật khác nhau,
một bộ luật bao trùm toàn bộ pháp luật (bộ luật Justianus). Đến thời kỳ phong kiến, bộ luật
được dùng để chỉ một văn bản luật tổng hợp chứa đựng hệ thống các QPPL điều chỉnh các
loại quan hệ XH khác nhau. Và hiện nay thì bộ luật là một văn bản luật tổng hợp chứa đựng
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực pháp luật nhất định. Yếu tố phân
biệt bộ luật với các đạo luật thông thường đó là các quy phạm của các bộ luật thường dưới
dạng các nguyên tắc chung để áp dụng pháp luật.
+ Đạo luật (luật): luật là những văn bản QPPL do nghị viện ban hành theo trình tự, thủ tục
nhất định. Số lượng luật được ban hành lớn hơn rất nhiều so với bộ luật (luật tổ chức nghị
viện, luật tài chính...) tuy nhiên các đạo luật không có hiệu lực thấp hơn các bộ luật, chúng
bình đẳng với nhau từ góc độ giải thích luật.

+ Quy chế, sắc lệnh: Những luật loại văn bản này có hiệu lực thấp hơn luật, tuy nhiên cũng
có những sắc lệnh được ban hành thuộc lĩnh vực luật theo sự ủy quyền của nghị viện thì có
hiệu lực như luật (sắc lệnh – luật).Theo Hiến pháp của Pháp – tồn tại quyền lập qui không
thuộc quyền lực lập pháp – một quyền tự trị theo bản chất tự nhiên của mình.
+ Thông tư: ở họ pháp luật Civil Law có sự phân biệt rõ ràng giữa luật và thông tư – một loại
văn bản giúp giải thích luật, thể hiện cách hiểu của luật.
Tập quán pháp luật: là những quy tắc xử sự hình thành một cách tự phát, tồn tại lâu đời, được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành thói quen tự nhiên và mang tính bắt buộc chung
như QPPL. Trong dòng họ pháp luật Civil Law tồn tại nhiều quan niệm về vai trò của tập quán
pháp luật: 1- Tập quán chính là nền tảng của pháp luật; 2- Tập quán chỉ là một bộ phận của hệ
thống pháp luật. Theo Rene’ David – tập quán là một trong những yếu tố cho phép tìm ra giải
pháp công minh.
Án lệ: Án lệ là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như tiền lệ làm cơ
sở để thẩm phán sau đó xét xử áp dụng cho các trường hợp tương tự. Theo quan niệm của các
nước thuộc họ pháp luật Civil Law, quy phạm do thực tiễn xét xử tạo ra không có được uy tín và
sự ổn định như các quy phạm lập pháp. Nó rất dễ bị thay đổi, hủy bỏ ở bất kỳ thời điểm nào phụ
thuộc vào vụ việc mới. Án lệ chỉ được áp dụng khi thẩm phán thấy nó phù hợp với vụ án đang
xét xử. Án lệ không là nguồn cơ bản của pháp luật. Tuy nhiên, theo sự phát triển của pháp luật
châu Âu, án lệ ngày càng đồ sộ và giữ vai trò là một nguồn không thể thiếu của pháp luật. Từ vai
trò quan trọng đó đã hình thành những tuyển tập thực tiễn xét xử của tòa án – phân biệt được
quyết định nào là hữu ích, quên đi những quyết định không còn phù hợp (tuyển tập được ban
hành ở Pháp, CH Liên bang Đức, Tây Ban Nha, Ý…)
Học thuyết: Trong một thời gian dài trong quá khứ, học thuyết từng là nguồn chính của pháp luật
– khi mà chưa xuất hiện những luật thành văn. Khi mà các trường đại học tổng hợp ở châu Âu
nghiên cứu và tìm ra các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật Châu Âu vào TK XIII – XVIII
cùng với sự xuất hiện của tư tưởng dân chủ và pháp điển hóa hệ thống pháp luật, thì vị trí thống
trị của học thuyết đã được thay thế bằng luật. Từ giai đoạn đó cho đến tận ngày nay, nhìn vào
tổng thể hệ thống pháp luật thì có thể nhận thấy học thuyết vẫn luôn là một nguồn quan trọng của
pháp luật, nó kết tinh những khái niệm, tư duy pháp luật, phương pháp giải thích pháp luật… mà
các bộ luật, luật thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau vẫn tiếp thu và giữ gìn những giá trị đó

cho đến tận ngày nay.
Nguyên tắc chung của pháp luật: Những nguyên tắc chung của pháp luật được thừa nhận và áp
dụng trong thực tiễn cuộc sống chứng tỏ sự tuân theo và hướng đến công bằng, công lý của pháp
luật, nó không chỉ thể hiện tính chất của pháp luật thành văn chứa đựng nó mà còn thể hiện bản
chất của họ pháp luật Civil Law. Nguyên tắc chung có thể thành văn được chứa đựng trong hiến
pháp, bộ luật, luật… hoặc không thành văn (nằm ngoài các quy định của pháp luật) chứa đựng
trong án lệ, tập quán hay luật La Mã cổ đại.
 So sánh với nguồn pháp luật của họ Common Law:


-

-

-

-

26.

Common Law và Civil Law đều có chung những loại nguồn như: văn bản lập pháp, tiền lệ pháp,
tập quán pháp, học thuyết pháp lý. Tuy nhiên vị trí của 1 số loại nguồn lại có sự khác nhau ở hai
hệ thống này phụ thuộc vào bản chất.
Văn bản lập pháp: đối với họ Civil Law là nguồn cơ bản và nguồn quan trọng nhất, nó đã trở
thành đặc trưng pháp luật của dân luật. Common Law thì lại không ưa chuộng luật thành văn, tuy
nhiên qua quá trình nghiên cứu và thực tiễn pháp luật, người ta thấy rằng pháp luật các nước
thuộc Common Law đang dần tiến tới luật thành văn.
Tiền lệ pháp: họ pháp luật Civil Law không coi trọng tiền lệ pháp, nó chỉ được coi là một loại
nguồn bổ sung cho quá trình xét xử của thẩm phán khi mà pháp luật khiếm khuyết. Còn với
Common Law thì đây là nét đặc trưng lớn nhất và độc nhất của họ pháp luật này. Tiền lệ pháp

chính là nguồn cơ bản để giải quyết các tranh chấp trong thực tế.
Ở họ Civil Law còn có 1 loại nguồn nữa mà Common Law không có: nguyên tắc chung của pháp
luật. Nó xuất phát từ tư duy pháp lý và cách tiếp cận pháp luật của họ pháp luật này. Civil Law
tiếp cận pháp luật từ cái khái quát đến cụ thể, chung đến riêng, và nhà làm luật nghĩ rằng không
thể bao quát được tất cả các trường hợp sẽ xảy ra trong cuộc sống cho nên cần phải có những
nguyên tắc chung của pháp luật quy định trong hoặc ngoài luật để hướng dẫn cho quá trình xét
xử, giải thích và tiếp cận pháp luật của thẩm phán.
Ở Common Law cũng có 1 loại nguồn của ở Civil Law không được coi là nguồn theo nghĩa là
nơi thể hiện pháp luật: lẽ công bằng (lẽ phải)
Đối với Common Law lẽ công bằng là nguồn cuối cùng được áp dụng nếu như tiền lệ pháp
không có tương tự, tất cả nguồn khác đều không có quy định thì sẽ dùng đến lẽ công bằng để bù
đắp khiếm khuyết của pháp luật. Lẽ công bằng đặt áp lực rất lớn lên thẩm phán và lẽ công bằng
chưa chắc đã công bằng bởi nó xuất phát từ ý chí chủ quan của thẩm phán lên vụ việc cần giải
quyết.
Nguyên tắc chung của pháp luật La Mã – Đức có khi nào lại gần với lẽ công bằng? Bản thân tôi
nghĩ rằng, nguyên tắc chung của pháp luật được xây dựng dựa trên quy luật tự nhiên, lẽ phải để
khái quát thành nguyên tắc, định hướng cho tư duy pháp luật của thẩm phán. Cả 2 loại nguồn này
đều cung cấp cho thẩm phán thẩm quyền rất lớn, đó là xét xử bằng ý chí của mình, bằng niềm tin
về lẽ phải của bản thân.

Trường phái luật tự nhiên có vai trò như thế nào đối với họ pháp luật La Mã- Đức nói riêng và
đối pháp luật của các nước trên thế giới nói chung?
Trả lời:
- Trường phái luật tự nhiên có vai trò vô cùng to lớn đối với quá trình phát triển của họ pháp luật
La Mã – Đức:
+ Sự xuất hiện của trường phát luật tự nhiên vào giai đoạn pháp luật thành văn XVII – XVIII đã tác
động rất lớn đến cấu trúc của họ pháp luật Civil Law. Trường phái luật tự nhiên với quan niệm đề cao
quyền tự nhiên cơ bản của con người – quyền tối thượng, chống lại sự lạm dụng quyền lực công xâm
phạm đến quyền của công dân, con người, là nền tảng để xây dựng những ngành luật thuộc nhánh
luật công và đặc biệt là sự ra đời của hiến pháp  từ đó, hệ thống pháp luật có sự phân chia luật

công – luật tư.
+ Một thành công thứ hai của trường phái luật tự nhiên đối với họ pháp luật La Mã – Đức đó là công
cuộc pháp điển hóa. Pháp điển hóa là nút kết cho quan điểm cốt lõi của trường phái này. Nhờ pháp
điển hóa mà hệ thống pháp luật của các quốc gia thuộc họ pháp luật La Mã – Đức trở nên phù hợp
với lợi ích của xã hội, rõ ràng, dễ tiếp nhận, gọn gàng, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống pháp luật
này ra ngoài lúc địa châu Âu.
- Vai trò của trường phái luật tự nhiên đối với pháp luật của các nước trên thế giới:
+ Từ ý nghĩa tốt đẹp của trường phái luật tự nhiên đối với họ pháp luật La Mã – Đức và sự ảnh
hưởng của họ pháp luật này đến pháp luật của nhiều nước trên thế giới, có thể dễ dàng thấy được sự
ảnh hưởng của trường phái luật tự nhiên không chỉ dừng lại ở phạm vi các quốc gia thuộc học pháp
luật La Mã – Đức.
+ Các quốc gia đã từng là thuộc địa của các nước thuộc hệ thống pháp luật La Mã – Đức ở châu Mỹ đã tiếp nhận những chế định pháp luật thuộc dòng họ Civil Law và xây dựng các bộ luật theo hình
mẫu châu Âu, châu Phi, châu Á – các bộ luật của châu Âu được coi là những mô hình để họ cải cách
hệ thống pháp luật.


27.

28.

29.

+ Trường phái luật tự nhiên cổ vũ, thúc đẩy những tư tưởng bảo vệ quyền con người trên thế giới
phát triển, từ đó phong trào quyền con người, quyền công dân đã trở thành một làn sóng trên toàn thế
giới và được hầu hết tất cả mọi nơi trên thế giới công nhận.
Tại sao nói trường phái pháp luật tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc hình thành các tư
tưởng về quyền con người.
Trả lời:
Để giải thích được tại sao trường phái pháp luật tự nhiên lại có vai trò quan trọng trong việc hình
thành các tư tưởng về quyền con người thì trước hết cần cắt nghĩa để hiểu được luật tự nhiên là gì.

Theo Edmund M.A.Kwaw thì luật tự nhiên là luật mà có sự tồn tại của nguyên tắc đạo đức
khách quan mà dựa trên bản chất cốt yếu của vũ trụ, của vạn vật, của nhân loại và tự nhiên và
luật thông thường của con người chỉ trở thành sự thực trong chừng mực mà nó tuân thủ theo các
nguyên tắc đó.
- Tuy nhiên hiểu một cách đơn giản thì luật tự nhiên là những nguyên tắc đạo đức, chính trị được
con người đồng thuận và chấp nhận rộng rãi, nó mang tính phổ quát và thống nhất trong cách
hiểu.
- Luật tự nhiên có nguồn chính là sự phán xét, sự nhận thức của lương tâm, lương tri con người,
nguyên tắc đạo lý tự nhiên nhắc nhở con người làm những điều tốt, tránh xa điều xấu.
- Quyền con người được nhắc là quyền tự nhiên vì nó bắt nguồn từ bản chất của con người, nói
cách khác do luật tự nhiên tạo ra quyền tự chủ cá nhân nên được coi là nguồn của pháp luật về
quyền con người. Quyền tự chủ cá nhân tức là – con người theo bản năng của mình sẽ không thể
làm gì phá hủy cuộc sống của họ, chính vì thế luật tự nhiên là một công cụ hữu ích để bảo vệ con
người.
- Chính vì nhận thức đó mà trường phái luật tự nhiên đã được chính thức xuất hiện và đóng vai trò
to lớn trong việc thúc đẩy bảo vệ quyền con người, cổ vũ và khơi dậy những tư tưởng về quyền
con người.
Giải thích pháp luật ở La Mã - Đức.
Trả lời:
- Với đặc trưng nguồn pháp luật của họ pháp luật La Mã – Đức là pháp luật thành văn với hệ thống
các loại văn bản luật đa dạng từ hiến pháp cho đến các bộ luật, đạo luật, nó thiết lập khuôn khổ
pháp luật cho các thẩm phán chứ không quy định chi tiết bởi nhà lập pháp không thể dự liệu
được tất cả các trường hợp trên thực tế.
- Pháp luật của Civil Law khái quát, tổng quan và dễ tìm, chính vì thế trong một số trường hợp mà
nhà làm luật đã dự liệu sẽ có lúc các chi tiết cấu thành không đủ hoặc bị loại bỏ ngẫu nhiên, tạo
khoảng trống, từ đó vai trò của các thẩm phán được nâng cao trong việc giải thích pháp luật. Quy
phạm pháp luật mang tính khái quát  ít chính xác hơn  quyền giải thích của thẩm phán càng
rộng.
- Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực là đề cao trách nhiệm, vai trò của thẩm phán sẽ là sự giảm đi
tính ổn định của pháp luật do tính chính xác không được chắc chắn.

- Để tăng sự ổn định của pháp luật, trong họ pháp luật La Mã – Đức xuất hiện sự tồn tại của “ các
quy phạm vòng ngoài” - chính là thực tiễn xét xử của tòa án – sự giải thích pháp luật của thẩm
phán với hạt nhân chính là các quy phạm luật thành văn.
Các quy phạm vòng ngoài về hiệu lực có thể ngang bằng hoặc chi tiết, cụ thể và hiệu quả hơn hạt
nhân, tuy nhiên vai trò của nó không thể thay thế cho hạt nhật – quy phạm luật thành văn được,
bởi lẽ đặc trưng của họ La Mã – Đức là hệ thống pháp luật khái quát, tổng quan và gọn nhẹ, mà
điều đó chỉ có thể có được khi nguồn cơ bản của pháp luật là luật thành văn. Điều đó đặt ra yêu
cầu, các quy phạm vòng ngoài được xây dựng qua quá trình giải thích pháp luật của thẩm phán
phải đặt trong khuôn khổ pháp luật nhất quán.
Trình bày và phân tích cấu trúc của họ pháp luật La Mã – Đức.
Trả lời:
 Một trong những đặc trưng của họ pháp luật La Mã – Đức, đó chính là cấu trúc phân chia
luật công – luật tư.
- Tại sao lại có sự phân chia này?
+ Xuất phát từ quan niệm đã có từ rất lâu trong lịch sử pháp luật La Mã – Đức: mối quan hệ giữa
người bị trị - cai trị không thể đặt lên cùng một bàn cân với mối quan hệ giữa tư nhân và tư nhân.


+ Theo quan niệm của trường phái luật tự nhiên: pháp luật là sản phẩm trí tuệ của con người,
xuất phát từ trật tự tự nhiên  nó phải đứng trên nhà nước. Giai đoạn đầu, luật công chưa phát
triển mà chỉ có luật tư, bởi lẽ trong xã hội chưa xuất hiện các thiết chế dân chủ, vai trò và quyền
uy của nhà vua và nhà thờ là tối cao. Vào TK XVII, XVIII, khi trường phái luật tự nhiên phát
triển thì luật công mới thực sự phát triển với các ngành luật như Hiến pháp, Hành chính, Hình sự.
 Từ đó pháp luật có sự phân chia sâu sắc luật công – luật tư.
-

Đặc điểm, nguyên tắc để phân biệt luật công, luật tư:

Luật công
Luật tư

+ Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân.
+ Tự do thỏa thuận ý chí.
+ Đảm bảo sự phân chia quyền lực, kiềm chế đối + Bình đẳng trong thể hiện ý chí và thực
trọng giữa 3 nhánh quyền lực.
hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí.
Nguyên
+ Đảm bảo tư pháp độc lập với hành pháp, lập + Thiện chí, trung thực.
tắc
pháp.
+ Tôn trọng đạo đức, truyền thống
+ Đảm bảo quyền công dân, quyền con người.
+ Không xâm phạm lợi ích của hợp pháp
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền.
của chủ thể khác.
+ Bảo vệ lợi ích công
+ Bảo vệ lợi ích tư nhân
Đặc
+ Phương pháp mệnh lệnh
+ Quy phạm cụ thể, chi tiết
trưng
+ Bất bình đẳng giữa các chủ thể
+ Phương pháp tự do thỏa thuận ý chí
+ Bình đẳng giữa các chủ thể
 Các chế định pháp luật đặc thù:
Họ pháp luật La Mã – Đức có các chế định pháp luật đặc thù như:
+ Chế định luật nghĩa vụ - chế định đặc thù.
+ Chế định pháp nhân.
30.
Công thức hoá qui tắc pháp lý ở các nước thuộc họ pháp luật La Mã- Đức là gì?
Trả lời:

- Công thức hóa quy tắc pháp lý ở các nước thuộc họ pháp luật La Mã – Đức là quá trình đi từ các
nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật đến các quy phạm pháp luật để áp dụng vào thực tiễn
thông qua quy tắc pháp lý  giải quyết tình huống pháp lý, quá trình ấy cần phải lựa chọn giải
pháp nào là đúng đắn, dần dần hình thành các quy tắc pháp lý mang tính bắt buộc – định hướng,
dẫn dắt quá trình giải quyết, xét xử của thẩm phán.  Quy tắc pháp lý chính là bước trung gian
để đi từ nguyên tắc chung đến các quy phạm pháp luật. Quy tắc pháp lý cần phải có sự khái quát
đủ để cung cấp các nguyên tắc cho các quy định cụ thể.
- Bản chất của nó gần giống với pháp điển hóa ở chỗ: từ những nguyên tắc chung nhất, cơ bản
nhất của pháp luật, các thẩm phán thông qua những quy tắc pháp lý nhất định để có thể đi đến
quy phạm pháp luật phù hợp với vụ việc cần giải quyết.
31.
So sánh các đặc điểm của qui tắc pháp lý thuộc các họ pháp luật La Mã- Đức, Anh- Mỹ, Xã
hội chủ nghĩa và Đạo Hồi.
Trả lời:
- Civil Law: quy tắc pháp lý tạo ra một khung pháp lý và cung cấp cho thẩm phán các hướng dẫn
để ra quyết định.
- Common Law: thẩm phán tạo ra các quy tắc pháp lý cho các tranh chấp cụ thể.
- XHCN:
- Hồi giáo:
32.
Tại sao có thể gọi họ pháp luật La Mã- Đức là họ pháp luật thành văn?
Trả lời:
Trong hệ thống nguồn pháp luật của họ La Mã – Đức, pháp luật thành văn là loại nguồn cơ bản và
đặc trưng nhất.
Ngược về lịch sử của họ pháp luật La Mã – Đức, chúng ta có thể thấy vai trò to lớn của các trường
đại học tổng hợp cùng với giá trị tuyệt vời của Luật La Mã cổ đại đối với pháp luật thành văn – La
Mã – Đức ngày nay. Hào quang của luật La Mã đã được các giáo sư luật, các luật gia ở trường đại
học tổng hợp ở các quốc gia lục địa châu Âu nghiên cứu, giảng dạy theo hướng gắn liền với tôn giáo,
đạo đức với mục đích không chỉ áp dụng thực tiễn mà còn là mục đích xã hội, nhân đạo. Trong suốt 5
thế kỷ đằng đẵng nghiên cứu luật La Mã, đã tồn tại 5 trường phái nghiên cứu khác nhau như: trường

phái chú giải (glossators), trường phái hậu học sư (post – glossators), trường phái nhân văn, trường


33.

34.

phái pháp điển hóa hiện đại, trường phái luật tự nhiên. Trong đó, trường phái luật tự nhiên cho đến
cuối cùng đã thắng thế và tác động rất lớn đến cấu trúc và tính chất của toàn bộ nền khoa học pháp lý
của các nước châu Âu lục địa.
Việc nghiên cứu, giảng dạy trong nhiều năm đã mang lại tư duy pháp lý thống nhất cộng thêm sự đòi
hỏi phải có một thứ luật rõ ràng, chặt chẽ khác với tôn giáo, đạo đức, tập quán để phục vụ cho hoạt
động giao thương buôn bán giữa các cá nhân trong cộng đồng, hệ thống pháp luật chung của toàn
châu Âu – Jus Commune đã ra đời. Một trong những lí do của việc luật thành văn ra đời đó là các
nước châu Âu lục địa rất coi trọng lý luận pháp luật (cấu trúc của một bộ luật phải thỏa mãn được sự
logic, đi từ lý luận đến thực tiễn…), chính vì thế, họ ưa chuộng luật thành văn bởi nó chứa đựng
được một cách tổng quan và đầy đủ trí tuệ pháp lý của họ pháp luật La Mã – Đức.
Sau khi trường phái luật tự nhiên thắng thế và rất được đề cao, quá trình pháp điển hóa đã diễn ra và
đạt tới đỉnh cao là cho ra đời rất nhiều văn bản pháp luật có giá trị như Hiến pháp, luật Hành chính,
BLDS, BLTM…
Chế định nghĩa vụ của họ pháp luật La Mã - Đức.
Trả lời:
Nghĩa vụ là trách nhiệm, bổn phận của một người phải trao trả cho người khác cái gì đó, thực hiện
hoặc không thực hiện một công việc vì lợi ích của người kia.
Chế định nghĩa vụ là một chế định riêng có của họ pháp luật La Mã – Đức, xuất phát từ luật La Mã
và trở thành môn khoa học pháp lý chính ở các nước thuộc họ La Mã – Đức, thuật ngữ “nghĩa vụ”
còn rất lạ lẫm với các họ pháp luật khác trên thế giới.
Chế định có những nét sau đáng lưu ý:
- Nghĩa vụ nảy sinh từ:
+ Pháp luật (nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi không nuôi con)

+ Hợp đồng
+ Hành vi pháp lý đơn phương của một bên trong quan hệ nghĩa vụ
+ Vi phạm ngoài hợp đồng
- Nội dung của chế định nghĩa vụ được thể hiện rất sâu sắc trong BLDS Napoleon năm 1804 với
chế định hợp đồng. Từ những tiến bộ về phân loại hợp đồng trong chế định hợp đồng, các luật
gia châu Âu đưa ra được sự phân biệt các loại hợp đồng:
+ HĐ đơn vụ - 1 hay nhiều bên chủ thể chỉ có quyền, 1 hay nhiều bên chủ thể kia chỉ có nghĩa
vụ; HĐ song vụ - các bên trong hợp đồng có quyền và nghĩa vụ qua lại.
+ HĐ ngang giá- phần nghĩa vụ của 2 bên là tương đương; HĐ không ngang giá – không biết
trước được giá trị của đối tượng của hợp đồng có tương đương với phần nghĩa vụ của bên kia hay
không.
+ HĐ không có đền bù – 1 bên thực hiện cho bên kia một lợi ích mà không nhận lại từ bên kia 1
lợi ích nào cả; HĐ có đền bù – 1 bên thực hiện cho bên kia một lợi ích và nhận lại từ bên kia một
lợi ích tương đương.
+ HĐ có tên – có PL điều chỉnh & HĐ không có tên – không có sự điều chỉnh của PL.
Bên cạnh đó còn rất nhiều các phân biệt các loại hợp đồng của hệ thống pháp luật nhiều nước
thuộc họ Civil Law.
- Về hiệu lực của hợp đồng: các bên trong giao kết hợp đồng không chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng mà còn phải tuân theo những nguyên tắc chung, tập quán hay theo quy định của
pháp luật.
- Đã xuất hiện những biện pháp bảo đảm để thực hiện hợp đồng: cầm cố, đặc cọc tiền, tiền phạt…
 Chế định luật nghĩa vụ là một chế định rất đặc thù và phát triển của hệ thống pháp luật lục địa
châu Âu bởi tính khoa học và chặt chẽ của nó.
Chế định pháp nhân của họ pháp luật La Mã - Đức.
Trả lời:
- Chế định pháp nhân là sản phẩm sáng tạo của luật gia thời La Mã cổ đại, cội nguồn của hệ thống
pháp luật La Mã – Đức.
- Pháp nhân là thực thể trừu tượng được tạo nên từ sự tập hợp của nhiều thể nhân và được giao
năng lực pháp luật theo ý chí của các thể nhân thành viên. Có nghĩa là sự kết hợp của các thể
nhân tạo nên một chủ thể pháp luật mới – pháp nhân (không phải tập hợp thể nhân nào cũng là

pháp nhân).


-

35.
36.

Sự hình thành pháp nhân có ý nghĩa làm đơn giản hóa đời sống pháp luật và làm đời sống pháp
luật được ổn định lâu dài do tư cách pháp lý của pháp nhân dài hơn thể nhân và pháp nhân …
- Dòng họ pháp luật La Mã – Đức phân chia thành luật công – luật tư  pháp nhân cũng chia
thành pháp nhân tư pháp (công ti dân sự, thương mại, các hiệp hội, các tổ chức nghiệp đoàn, các
quỹ) và pháp nhân công pháp (nhà nước, chính quyền các cấp, các đơn vị hành chính sự
nghiệp…)
Học thuyết, tư tưởng phân quyền và nhà nước pháp quyền ở họ pháp luật La Mã – Đức.
Trả lời:
Các tư tưởng, học thuyết về sự phân chia luật công-luật tư.
Trả lời:
Lịch sử phân chia luật công – luật tư:
 Học thuyết phân chia lợi ích:
- Từ thời cổ đại, Ciceron đã đưa ra quan điểm pháp luật gồm có 2 bộ phận: quy định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ cá nhân và quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ công.
- Đến thời kỳ phát triển của Luật La Mã, các luật gia La Mã đã đưa ra học thuyết phân chia pháp
luật thành luật công và luật tư dựa trên cơ sở lợi ích. Học thuyết này phân biệt: luật công – lợi ích
nhà nước, lợi ích công cộng, luật tư – lợi ích cá nhân.
 Học thuyết quan hệ giữa các chủ thể:
- Đến thế kỷ XIX, những tư tưởng về sự phân chia giữa luật công và luật tư của Luật La Mã được
kế thừa và phát triển thông qua học thuyết dựa trên quan hệ giữa các chủ thể. Học thuyết này
phân chia: Nếu là quan hệ có tính thứ bậc giữa nhà nước và công dân thì đó là quan hệ pháp luật
do luật công điều chỉnh, còn quan hệ mà các bên tham gia là quan hệ bình đẳng thì đó là quan hệ

pháp luật của luật tư điều chỉnh.


37.

-

Học thuyết đương đại hiện nay ở Đức về phân chia luật công và luật tư là học thuyết dựa trên cơ
sở phân loại hành vi của chủ thể.

-

Theo học thuyết này, luật công là tổng thể những qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các
chủ thể được nhà nước trao quyền nhằm thực thi chức năng, nhiệm vụ công. Luật tư là tổng thể
những qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể dựa trên các qui phạm của luật dân
sự.

Các lĩnh vực pháp luật và các nguyên tắc pháp luật của công pháp và tư pháp.
Trả lời:

Lĩnh
vực
pháp
luật

Nguyên
tắc

Đặc
trưng


Học thuyết hành vi của chủ thể

Công pháp
+ Hiến pháp
+ Luật Hành chính
+ Hình sự

Tư pháp
+ Dân sự
+ Thương mại
+ Hôn nhân, gia đình

+ Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân.
+ Tự do thỏa thuận ý chí.
+ Đảm bảo sự phân chia quyền lực, kiềm chế đối + Bình đẳng trong thể hiện ý chí và thực
trọng giữa 3 nhánh quyền lực.
hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí.
+ Đảm bảo tư pháp độc lập với hành pháp, lập + Thiện chí, trung thực.
pháp.
+ Tôn trọng đạo đức, truyền thống
+ Đảm bảo quyền công dân, quyền con người.
+ Không xâm phạm lợi ích của hợp pháp
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền.
của chủ thể khác.
+ Bảo vệ lợi ích công
+ Bảo vệ lợi ích tư nhân
+ Phương pháp mệnh lệnh
+ Quy phạm cụ thể, chi tiết
+ Bất bình đẳng giữa các chủ thể

+ Phương pháp tự do thỏa thuận ý chí
+ Bình đẳng giữa các chủ thể


38.

39.

Sự phân chia luật công và luật tư có ảnh hưởng thế nào tới hệ thống tư pháp của các nước
thuộc họ pháp luật La Mã - Đức.
Trả lời:
Sự phân chia luật công – luật tư là một trong những nét đặc trưng tiêu biểu của họ pháp luật La Mã –
Đức. Sự phân chia luật công – luật tư ảnh hưởng đến không chỉ cấu trúc pháp luật mà còn tác động
rất lớn đến hệ thống tư pháp của họ pháp luật này. Cụ thể:
- Phân chia luật công – luật tư với các ngành luật đặc trưng như: luật công – hiến pháp, hành
chính, luật tư – dân sự, thương mại  Hệ thống tòa án của La Mã chia làm 3 hệ thống tòa: Tòa
hiến pháp, Tòa hành chính, Tòa tư pháp  Tổ chức hệ thống tòa án cũng dựa trên sự phân biệt
luật công và luật tư.
Tòa tư pháp – tranh chấp dân sự, thương mại…, tòa hành chính – tranh chấp hành chính, tòa hiến
pháp – kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp.
- Tổ chức hệ thống tòa án tương ứng với sự phân chia luật công – luật tư nhằm đảm bảo sự độc lập
của hệ thống tòa án, hơn nữa luật công- tư có phương pháp điều chỉnh, đối tượng… khác nhau,
mà xã hội ngày càng phức tạp, các tranh chấp ngày càng nhiều  phân chia như vậy sẽ giúp các
tòa chuyên môn hóa hơn và tránh quá tải quá trình giải quyết các tranh chấp.
- Tuy nhiên, Tòa án công pháp lại tách ra thành tòa hiến pháp và tòa hành chính, bởi lẽ tòa án hiến
pháp là một tòa đặc biệt, cơ cấu tổ chức cũng riêng biệt với chức năng quan trọng là kiểm hiến
chính vì thế các chức danh tư pháp trong tòa hiến pháp đều là những người giữ chức vụ quan
trọng trong hệ thống cơ quan nhà nước bổ nhiệm thời gian ngắn. Ngoài ra thủ tục xem xét các
vấn đề về hợp hiến thì cần phải có một thủ tục đặc biệt, không như thủ tục giải quyết tranh chấp
thông thường.

So sánh phong cách tư duy pháp lý của các họ pháp luật La Mã- Đức, Anh - Mỹ.

Trả lời:

Civil Law

Common Law

Cách thức diễn dịch – tìm quy phạm pháp luật 
giải thích, phân tích, áp dụng vào trường hợp cụ
thể.
Phương pháp suy luận
Hệ thống hóa
Tư duy trừu tượng trong từng chế định

Cách thức quy nạp – phân tích vụ việc, tìm ra án
lệ để giải quyết.

Tiền lệ
Linh động, thích nghi
Tư duy theo từng vụ việc và mối quan hệ giữa
các bên
Hệ thống pháp luật là 1 thực thể trọn vẹn, toàn Tìm ra con đường từ từ qua từng vụ việc
diện
Coi trọng lý luận, ngữ nghĩa
Hoài nghi sự khái quát hóa (quá rộng, không
chính xác, cụ thể)
40.

Nêu đặc trưng trong tổ chức cơ quan tư pháp ở Cộng hòa Pháp. Tại sao hệ thống tòa án hành

chính của Pháp lại độc lập, nằm ngoài hệ thống tòa án tư pháp (thông thường)?
Trả lời:
 Tổ chức tư pháp của Cộng hòa Pháp mang những nét chung của tổ chức tư pháp của họ pháp
luật La Mã – Đức như:
- Có 1 hệ thống tòa án đơn nhất
- Có 3 hệ thống tòa án: Tòa án hiến pháp, tòa hành chính, tòa tư pháp
- Tòa tối cao theo mô hình phá án
- 3 cấp xét xử:
+ Cấp sơ thẩm: Tòa sơ thẩm thẩm quyền hạn chế; Tòa ST thẩm quyền rộng; Tòa chuyên môn
+ Cấp phúc thẩm
+ Tòa phá án: thẩm quyền xem xét quyết định của các tòa án cấp dưới
 Điểm đặc trưng của hệ thống tư pháp của Cộng hòa Pháp chính là Tham chính viện – Tòa có
cấu trúc tự trị - bởi lẽ Tham chính viện có cấu trúc tổ chức riêng, thẩm quyền giải quyết tranh


41.

42.

43.

44.

chấp hành chính riêng biệt – các tranh chấp hành chính mà chỉ có Tham chính viện mới có
thẩm quyền giải quyết.
- Thẩm quyền xét xử các tranh chấp hành chính được đưa về cho Tham chính viện  tòa án hành
chính tối cao của Pháp. Tham chính viện là cơ quan tham mưu cho Chính phủ Pháp.
- Cơ cấu tổ chức:
+ Có khoảng 300 thành viên nhưng có 2/3 trong số đó hoạt động thường xuyên tại Tham chính
viện, còn lại 1/3 giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan hành chính ở TW.

+ Gồm 6 ban, 5 ban – chức năng hành chính (nội vụ, tài chính, công chính, xã hội, nghiên cứu)
và 1 ban – chức năng tài phán (10 tiểu ban).
- Các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tham chính viện:
+ Khiếu kiện đối với nghị định, pháp lệnh của Chính phủ
+ Khiếu kiện đối với các quyết định là văn bản QPPL của các bộ trưởng cũng như quyết định là
văn bản áp dụng PL
+ Khiếu kiện về tính hợp hiến, hợp pháp của VB hành chính

- Thẩm quyền đặc biệt: quyền giải quyết kháng nghị giám đốc thẩm đối với các quyết định xét xử
chung thẩm của mọi tòa án hành chính. Sau khi hủy án, có thể trực tiếp xét xử lại về mặt nội
dung vụ việc nếu thấy có lợi cho “công tác quản lý xét xử”.
Sự phân biệt giữa Luật dân sự và Luật thương mại trong các quốc gia thuộc họ pháp luật La
mã – Đức.
Trả lời:
Trong suốt thế kỷ XIX ở các quốc gia thuộc họ pháp luật La Mã – Đức đã diễn ra quá trình hợp nhất
hóa luật dân sự và luật thương mại.
Luật Dân sự tạo nền tảng cho luật Thương mại và Luật thương mại là sự áp dụng, triển khai những
nguyên tắc chung của luật Dân sự vào việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực mua bán.
Nếu thiếu đi luật dân sự thì luật thương mại sẽ không thể hoàn chỉnh được. Chính vì bản chất quan
hệ giữa 2 ngành luật đó mà đã hình thành xu hướng đó hợp nhất hóa luật thương mại và luật dân sự
như ở Thụy Sỹ, Hà Lan, Ý. Với xu hướng hợp nhất thì các nước này hoặc là hợp nhất chung thành 1
bộ luật trái vụ, hoặc hợp luật thương mại vào BLDS.
Theo quan điểm của Rene’ David thì quá trình hợp nhất 2 luật này tạo ra một sự giới hạn cho sự phát
triển ở nhiều lĩnh vực của luật thương mại trong đó quan trọng nhất là thương mại quốc tế - đặc trưng
phân biệt sâu sắc với luật dân sự.
Đào tạo luật và nghề luật trong các quốc gia thuộc họ luật La mã – Đức.
Trả lời:
- Hầu hết những người theo nghề luật như thẩm phán, luật sư, công tố viên, công chứng viên đều
phải trải qua khóa học  cử nhân luật  khóa học chứng chỉ hành nghề hay tập sự  chức danh
tư pháp.

Quá trình để đạt được các chức danh tư pháp khá là gắt gao.
- Thẩm phán: được đào tạo, bổ nhiệm suốt đời (TH cá biệt: thẩm phán thương mại ở Pháp và
thẩm phán ở nông thôn Thụy Sỹ không được đào tạo)
Tổ chức tư pháp ở hệ thống La Mã –Đức
Trả lời:
- Có 1 hệ thống tòa án đơn nhất.
- Tòa sơ thẩm được thiết lập ở mọi nơi, tòa phúc thẩm tổ chức ít tòa hơn, cấp thứ 3 là tòa tối cao
đứng đầu hệ thống.
+ Tòa sơ thẩm có sự khác biệt phụ thuộc vào tính chất của tranh chấp và giá trị của tranh chấp.
+ Tòa phúc thẩm có sự khác biệt dựa trên sự phù hợp với tổ chức các tòa sơ thẩm, điều kiện và tổ
chức mà tòa phúc thẩm ở đó.
+ Tổ chức tòa tối cao theo mô hình phá án và xét xử chung thẩm.
- Có sự xuất hiện của Tòa án Hiến pháp với chức năng kiểm soát việc tuân theo hiến pháp.
- Số lượng tòa chuyên trách nhiều: tòa hành chính, tòa hình sự, tòa tài chính…
- Thường có 3 hệ thống tòa án: Tòa hiến pháp, Tòa tư pháp và tòa hành chính.
Tòa án hiến pháp Đức và Hội đồng bảo hiến ở Pháp.
Trả lời:


-

-

-

 Tòa án hiến pháp Đức:
Là cơ quan xét xử sơ thẩm và chung thẩm các vụ kháng cáo, kháng nghị liên quan đến tính hợp
hiến của các đạo luật , xung đột về thẩm quyền giữa các bang và giữa các bang với liên bang.
Cơ cấu tổ chức:
+ Tòa án hiến pháp liên bang đảm bảo thực hiện Hiến pháp của Liên bang; Tòa án hiến pháp của

các bang bảo đảm việc thực hiện Hiến pháp của bang mình.
Mặc dù không có quan hệ thứ bậc giữa 2 tòa án xong tòa án hiến pháp liên bang vẫn có vị trí
quan trọng vì trên thực tế, văn bản pháp luật của Liên bang có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản
pháp luật của các bang.
+ Thành phần: 16 thẩm phán – mỗi viện của Nghị viện Liên bang bổ nhiệm ½ số thành viên.
+ Thẩm phán có kiến thức uyên sâu về pháp luật, nhiệm kỳ 12 năm, không được tái bổ nhiệm.
Thẩm quyền:
+ Giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước
+ Tranh chấp có tính liên bang: giữa liên bang với bang hoặc 2 bang với nhau
+ Tranh chấp giữa các tổ chức: tranh chấp giữa các cơ quan hiến định với nhau
+ Yêu cầu kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật
+ Khiếu kiện cá nhân trong trường hợp quyền cơ bản bị xâm phạm
 Hội đồng bảo hiến của Pháp:
Hội đồng bảo hiến ở Pháp được thành lập năm 1958.
Chức năng: kiếm soát tính hợp hiến của luật. Chỉ xem xét vụ việc khi có đề nghị của Tổng thống,
Thủ tướng, Chủ tịch Thượng, Hạ viện, 60 thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ.
Cơ cấu tổ chức:
+ 9 thành viên do Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện, Hạ viện mỗi người bổ nhiệm 1/3, và các
thành viên Hội đồng không được phép giữ chức vụ này quá 1 nhiệm kỳ.
+ Ngoài ra các cựu Tổng thống Pháp đều là thành viên của Hội đồng bảo hiến, ngoài 9 thành viên
được bổ nhiệm mỗi nhiệm kỳ.

45.
Nêu các giai đoạn phát triển của pháp luật Anh.
Giai đoạn phát triển của pháp luật Anh gồm 4 giai đoạn:
- Trước 1066: giai đoạn Anglo-Saxon
o Từ TK I đến TK V dưới sự chiếm đóng của người La Mã: không có dấu tích đáng kể của
pháp luật.
o TK 5 những bộ lạc Germanic tới sinh sống (Saxon, Jutes, Dances và Angles) mở đầu cho lịch
sử pháp luật của Anh.

 Common có nguồn gốc từ các tập quán và thực tiễn của các bộ lạc này
 Khi có tranh chấp người già thường đứng ra tuyên bố các tập quán chính xác được áp dụng
o Có một vài văn bản tiếng Anglo-saxon được chế tài bởi nhà vua và các quần thần.
- 1066-1485: giai đoạn hình thành common law
o Năm 1066 người Norman chiến thắng người Anglo-saxon thống trị nước Anh.
o Guilliaume lên ngôi lấy tên là William khởi đầu cho thời kỳ hình thành Common Law, tự
xưng là người thừa kế hợp pháp của các vua Anglo-saxon và không hủy bỏ pháp luật truyền
thống hoặc thay đổi đột ngột
o Thiết lập chế độ phong kiến tập quyền, chia ruộng đất cho các quan lại => các tước hiệu
phong kiến được chấp nhận rất sớm ở Anh.
o Luật đất đai hiện đại trong nhiều trường hợp dựa trên giả định rằng tất cả đất đai thuộc sở hữu
của nhà vua và công dân chỉ có quyền sử dụng hạn chế
o Ở giai đoạn đầu có lẽ có hình thành 1 vài hệ thống common law ở các địa phương
o Dưới thời vua Henri II (1154) là giai đoạn phát triển Common Law có tính chất quốc gia
 Ông gửi các thẩm phán tới các nơi mà họ phải cạnh tranh với tòa án địa phương. Do chất lượng xét
xử tốt hơn nên đã thắng, nắm được độc quyền tư pháp và tạo ra một bộ quy tắc chung trong toàn lãnh
thổ.
 Giai đoạn 1154-1307 là giai đoạn quan trọng nhất trong việc hình thành common law.
- 1485-1832: giai đoạn phát triển equity


-

o Lý do: nhiều trường hợp common law đưa ra chế tài không đáp ứng được cho bên bị thiệt hại
=> trình lên nhà vua => việc xem xét vụ việc được các chancellor- mục sư được đào tạo đầy
đủ => equity xuất hiện nhằm giải quyết các vấn đề có tính cách tự nhiên không phụ thuộc vào
chế tài pháp lý mà để lại cho công luận hoặc lương tâm cá nhân.
o Các phán quyết của chancellor (pháp quan) dần hình thành 1 hệ thống pháp luật thứ 2 được
gọi là equity hay chancery justice. Hệ thống này được chính thức hóa với 1 vài dạng tố quyền
nhằm đưa ra các chế tài mà common law không đề cập tới. Học thuyết của equity mang nhiều

yếu tố của luật La Mã do các chancellors bị ảnh hưởng bới canon law – 1 thứ pháp luật có cơ
sở gần với LLMã.
o Khoảng TK 18 2 hệ thống này hợp nhất nhưng dấu tích của quity vẫn còn hiển hiện ở các
nước common law.
Từ 1832 tới nay: giai đoạn hiện đại
o Judicature Acts từ 1873-1875 ra đời xóa bỏ sự phân biệt giữa các tòa án của common law và
equity => tất cả các tòa án của Anh từ đó có quyền áp dụng cả quy tắc của common law và
equity
o Cải cách pháp luật sâu rộng và nhận thức được rằng phải có các đạo luật. => 1 số tổ chức ra
đời: The Law Commission, The Law Reform Committee, The Criminal Law Committee với
thành phần bao gồm các thẩm phán, luật sư, những nhà giảng dạy nghiên cứu có tên tuổi.
o Sự ra đời của trust: một sự sáng tạo của equity.

46. Phân tích các loại nguồn và giá trị của từng loại nguồn của pháp luật Anh.
Tiêu chí phân loại nguồn: dựa vào hình thức tạo ra nguồn: luật thành văn (written and enacted law) và luật
bất thành văn (unwritten and unenacted law)
 Luật bất thành văn có vai trò rất lớn ở Anh

Các loại nguồn cơ bản: văn bản lập pháp (thành văn) và tiền lệ pháp (bất thành
-

Văn bản lập pháp
Chủ quyền thuộc về nghị viện
Đạo luật liên quan tới lợi ích công cộng và thi
hành công lý: đạo luật liên quan tới các địa
phương và con người
Nghị viên ủy quyền lập pháp cho nhà vua,
các bộ trưởng, chính quyền địa phương và
các pháp nhân công.
Các nguyên tắc, thủ tục tòa án có thể được ủy

ban quy tắc do các thẩm phán và các luật sư
thiết lập
Văn bản ủy quyền lập pháp phải trong giới
hạn của các đạo luật, nếu vượt quá có thể bị
tòa án xem xét về mặt giá trị.
Khác với tòa án ở châu Âu lục địa, tòa án
Anh giả định rằng nhà lập pháp đã biểu lộ ý
chỉ hoàn hảo của mình nên giải thích văn bản
lập pháp 1 cách gần gũi

-

-

-

Tiền lệ pháp
Là loại nguồn phổ biến, tạo ra sự khác biệt của
pháp luật Anh.
Học thuyết về tính kiên định (consistency) cho
rằng trường hợp giống nhau phải được xử như
nhau => tuy nhiên thời gian làm cho giải pháp k
còn thích hợp và việc xác định tính giống nhau trở
nên khó khăn
Tiền lệ pháp phân thành 2 nhóm: án lệ và báo cáo
pháp luật
ở mức độ hẹp, án lệ chỉ là những bản án cụ thể
của Tòa án, được áp dụng cho những vụ việc có
tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này, cũng như
xem xét với tư cách là một nguồn của pháp luật

báo cáo pháp luật là tập hợp các quyết định quan
trọng của tòa thượng thẩm để xuất bản

Các loại nguồn bổ sung: tập quán, học thuyết pháp và lẽ phải
Tập quán
- Nguồn gốc của pháp luật Anh
- Ngày nay vẫn được áp dụng, ưu
tiên áp dụng tại 1 số địa phương
nhưng không bị cưỡng bức tuân
thủ và phải có điều kiện nhất
định:
- Không được bất hợp lý

Học thuyết pháp lý
- Ở Anh trong quá khử các học
thuyết pháp lý chỉ được coi là
bằng chứng của những gì
được coi là luật hơn là một
loại nguồn độc lập
- Hiện nay các tác giả có thể
được trích dẫn ở tòa án Anh

Lẽ phải (equity)
- Bù đắp cho khoảng trống
của pháp luật nơi mà luật
chưa điều chỉnh tới
- Làm cho hệ thống pháp luật
Anh trở thành một hệ thống
mở



- Phải chắc chắn, tức là nhân danh
và được xác định bởi 1 nhóm
người nhất định
- Phải tồn tại từ thời thượng cổ

và có những tác giả còn đang
sống

47.
Phân tích câu nói “Writ (trát) là trái tim của Common Law”.
 Ý nghĩa writ (trát) rất quan trọng, là đặc điểm đặc trưng của Common Law. Trát có ý nghĩa ngụ ý tòa
phải phán xét vụ việc công minh; vai trò của Nhà vua bảo vệ lợi ích của thần dân thông qua các chức
trách hoàng gia; ‘no writ, no remedy’
 Trát được sử dụng như một loại giấy thông hành do vua cấp để bên nguyên có thể bước qua cửa Tòa
án Hoàng gia, tiếp cận với công lí nhằm giải quyết những oan khuất của mình. Mỗi loại khiếu kiện sẽ
có một loại trát tương ứng , vì vậy, tùy thuộc vào bản chất của việc khiếu kiện mà bên nguyên cần
giành được loại trát phù hợp mới hi vọng đơn khiếu kiện của mình được Tòa án Hoàng gia thụ lí và
giải quyết. Bước sang thế kỉ XV, thủ tục tố tụng ngày càng bị chi phối mạnh bởi hệ thống trát, do đó,
thủ tục tố tụng thường được coi trọng hơn cả quyền lợi đang bị tranh chấp trong vụ kiện. Nếu đơn
khiếu kiện không rơi vào một trong những vụ việc đã có trát lưu hành, bên nguyên sẽ mất quyền khởi
kiện; hoặc nếu bên nguyên giành được trát nhưng trát đó không phù hợp với bản chất của vụ kiện,
bên nguyên cũng bị tòa bác đơn. Như vậy, một vụ kiện chỉ có thể tiến hành nếu bên nguyên giành
được writ thích hợp, nếu không sẽ mất quyền khởi kiện. Loại writ được phát hành sẽ quyết định hình
thức khởi kiện và thủ tục áp dụng để giải quyết vụ việc. Ban đầu chỉ có 3 loại writ (khế ước, thu hồi
nợ, đòi động sản bị chiếm hữu bất hợp pháp), sau tăng lên nhiều lần do nhu cầu xã hội.
 Có bao nhiêu trát thì có bấy nhiêu tố quyền
 Việc cấp trát còn được xem là hoạt động sáng tạo các quy tắc pháp lý mới.
48. Tại sao người ta lại cho rằng câu châm ngôn nổi tiếng của Holmes “đời sống của pháp luật
không phải là logic mà là kinh nghiệm” rất phù hợp với Common Law.

Câu châm ngôn trên phù hợp với common law vì tư duy pháp lý đặc thù của common law. Common law cho
rằng luật pháp là cái đang xảy ra trong thực tiễn, nên các quy tắc pháp luật sẽ được rút ra từ giải quyết các
tranh chấp pháp lý thực tế, chứ không rút ra từ các lý luận khoa học. Vì vậy, ở common law vai trò của thẩm
phán rất quan trọng trong việc đặt ra và phát triển pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản của common law sẽ
không được tìm thấy trong các bộ luật thành văn do các nhà làm luật xây dựng mà trong tập hợp các phán
quyết của thẩm phán (án lệ). Qua đó, ta thấy được rằng đời sống pháp luật của common law là "kinh
nghiệm" chứ không phải logic.
49.
Sự hình thành của common law ở Anh.
1066-1485: giai đoạn quan trọng nhất của sự hình thành common law
Năm 1066 người Norman chiến thắng người Anglo-saxon thống trị nước Anh.
Guilliaume lên ngôi lấy tên là William khởi đầu cho thời kỳ hình thành Common Law, tự xưng là người thừa
kế hợp pháp của các vua Anglo-saxon và không hủy bỏ pháp luật truyền thống hoặc thay đổi đột ngột
Ở giai đoạn đầu có lẽ có hình thành 1 vài hệ thống common law ở các địa phương
Dưới thời vua Henri II (1154) là giai đoạn phát triển Common Law có tính chất quốc gia
 Ông gửi các thẩm phán tới các nơi mà họ phải cạnh tranh với tòa án địa phương. Do chất lượng xét
xử tốt hơn nên đã thắng, nắm được độc quyền tư pháp và tạo ra một bộ quy tắc chung trong toàn lãnh
thổ.
- Thế kỷ 12, 13 common law được phân biệt với các hình thái pháp lý khác: common law thuộc quyền
tài phán của hoàng gia.
- Sự thiết lập của trát: người bị thiệt hại tới chancery để khiếu nại. Trát được cấp tóm tắt ngắn gọn vụ
việc và chỉ rõ cho sherrif vụ việc gì xảy ra ở đâu, bị đơn là ai và bị kiện về việc gì.
 Trát trở thành trái tim của common law.
50.
Sự hình thành của Equity Law ở Anh.
1485-1832: giai đoạn phát triển equity
Lý do: trong nhiều trường hợp nhiều trường hợp common law đưa ra chế tài không đáp ứng được cho bên bị
thiệt hại => trình lên nhà vua => việc xem xét vụ việc được các chancellor- mục sư được đào tạo đầy đủ =>



equity xuất hiện nhằm giải quyết các vấn đề có tính cách tự nhiên không phụ thuộc vào chế tài pháp lý mà
để lại cho công luận hoặc lương tâm cá nhân.
- Các phán quyết của chancellor (pháp quan) dần hình thành 1 hệ thống pháp luật thứ 2 được gọi là
equity hay chancery justice. Hệ thống này được chính thức hóa với 1 vài dạng tố quyền nhằm đưa ra
các chế tài mà common law không đề cập tới. Học thuyết của equity mang nhiều yếu tố của luật La
Mã do các chancellors bị ảnh hưởng bới canon law – 1 thứ pháp luật có cơ sở gần với LLMã.
Ý nghĩa: trong 1 vụ án có tuyên bố: equity không phải là 1 phần của pháp luật nhưng là 1 đạo đức xác định
phẩm chất, làm vơi đi và cải cách tính khắt khe, khắc nghiệt và góc cạnh của pháp luật và là 1 sự thật phổ
biến… Equity vì vậy không hủy hoại pháp luật, không tạo nên pháp luật nhưng giúp đỡ pháp luật.
51. Mối quan hệ giữa common law và equity law? Nguyên tắc “equitas sequitur legem”
Nguyên tắc: equity (lẽ công bằng) tuân theo luật, tôn trọng pháp luật. Sự can thiệp của Chancery Court
không tạo ra quy phạm pháp luật mới, không thay đổi nội dung pháp luật. Toà án equity law can thiệp vì
“sự công bằng”, mà không làm thay đổi quy phạm pháp luật được toà án common law không hoàn hảo. Nếu
một người xử sự không tốt bằng cách lợi dụng sự không hoàn hảo của pháp luật, thì đó là một xử sự trái với
lương tâm. Trong trường hợp có sự xung đột giữa common law và equity law, equity law sẽ được ưu
tiên áp dụng. Tuy nhiên vị trí của equity vẫn chỉ ở vị trí bổ sung cho luật. Trước mỗi vụ việc thẩm phán và
luật sư Anh vẫn phải xem xét các quy định của common law, sau đó mới xem xét đến equity có tác động thế
nào đến các quy định này.
Mối quan hệ giữa equity và common law: equity là:
+ Nguồn bổ sung quan trọng của common law.
+ Đặt ra chế định uỷ thác (trust).
+ Sự hình thành và phát triển của Equity nhằm sửa đổi và bổ sung cho Common Law, phát triển song song
và hoàn tất Common Law chứ không nhằm mục đích thay thế Common Law.
52. Tại sao không có sự phân chia rõ rệt giữa luật công và luật tư trong hệ thống Common law.
- Theo nghiên cứu của René David: do sự phát triển của hệ thống trát cho phép không chỉ nguyên đơn
hành động mà còn là mệnh lệnh của nhà vua đối với quan chức phải hành động thật đúng và đáp ứng
yêu cầu của nguyên đơn => sự trộn lẫn này là một lý do khiến luật công và tư không được phân rõ
- Theo nghiên cứu của một số luật gia Mỹ:
o Không có sự phân biệt quyền tài sản như ở hệ thống civil law, đặc trưng để phân biệt quyền
lợi công và tư

o Có hệ thống tòa án xem lại các hoạt động lập pháp, hành pháp và các tranh chấp tư, nên
không có sự phân biệt quyền lực theo kiểu Civil Law
o Các học giả lờ đi sự phân biệt này vì cho là không cần thiết cho việc tập hợp các quyết định
xét xử.
53. Tổ chức tòa án ở Anh.
Tổ chức tòa án ở Anh hiện nay:
Ở Anh chỉ có một hệ thống Toà án tồn tại, thụ lý các vụ việc pháp lý phát sinh trên lãnh thổ thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình. Hệ thống toà án Anh theo cấu trúc gồm có Thượng nghị viện, Toà phúc thẩm, Toà án
cấp cao, Toà địa phương. Thực tế hiện nay cho thấy, Thượng nghị viện tự giới hạn mình ở chỗ, nó chỉ ra
quyết định giứ nguyên hoặc huỷ bỏ bản án đã có hiệu lực trước đó của toà án cấp dưới, mà ít khi tự mình
đưa ra một bản quyết định độc lập.
Ở Anh, cấp thấp nhất trong hệ thống toà án là Toà địa phương, với thẩm quyền xét xử giới hạn trong lĩnh
vực dân sự, và thẩm quyền của toà án bao trùm một khu vực hành chính nhất định
Toà phúc thẩm là một bộ phận của Toà án tối cao với hai toà chuyên trách (Toà Dân sự và Toà Hình sự), có
nhiệm vụ tiếp nhận và giải quyết những kháng cáo, kháng nghị từ những vụ án đã được xét xử ở Toà cấp
cao, Toà địa phương.
Toà tối cao ở Anh là sự hợp nhất của Toà phúc thẩm, Toà cấp cao và Toà hình sự trung ương. Trước đây,
khác với ở Mỹ, toà án tối cao ở Anh không phải là cấp cao nhất trong hệ thống tư pháp. Tuy nhiên khi những
điều khoản trong Luật cải tổ Hiến Pháp có hiệu lực vào tháng 10 năm 2009 thì Toà án tối cao sẽ được cơ cấu
lại, và phạm vi thẩm quyền của nó sẽ mang đúng nghĩa là cấp xét xử cao nhất, các phán quyết sẽ mang tính
chất quyết định cuối cùng trong hệ thống pháp luật Anh.


54.
Đào tạo luật và hành nghề luật ở Anh.
Nghề luật ở Anh rất được coi trọng, dẫn đầu trong việc phát triển chính quyền

Chia thành 2 nhóm: luật sư tư vấn (solicitor) và luật sư tranh tụng (barrister)
Luật sư tư vấn
Làm việc trực tiếp với khách hàng và chuẩn bị

các vụ việc để tranh luận, giới thiệu luật sư
tranh tụng
-

-

-

-

-

Luật sư tranh tụng
Xuất hiện trước tòa để bào chữa, trước khi ra
nhập hiệp hội luật phải tốt nghiệp các trường:
Lincoln’s Inn, Inner Temple, Middle và Gray’s
Inn
Ở Anh, để trở thành luật sư không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật.
Việc đào tạo luật sư ở Anh không chú trọng tính bài bản mà thiên về thực tiễn, các luật sư Anh được
đào tạo chủ yếu về thủ tục tố tụng và thu thập, xác minh chứng cứ bởi theo pháp luật Anh, về nguyên
tắc, việc thực hiện quá trình tố tụng là trách nhiệm của các bên (thông qua luật sư của mình), vai trò
của thẩm phán trong xét xử chỉ là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng.
Nghề luật sư ở Anh được xây dựng trên mô hình tổ chức tư pháp và tố tụng của Anh được hình thành
từ thế kỷ 12-13. Luật sư Anh gồm hai loại: luật sư bào chữa (barristors) và luật sư tư vấn (solicitors)
– đây là điểm khác biệt xuất phát từ đặc thù của hệ thống án lệ.
Các luật sư Anh chịu sự quản lý của các tổ chức luật sư – Inns of Court và Law Society. Inns of
Court hình thành từ đầu thế kỷ 14, có thư viện luật và là nơi mở các khoá đào tạo cho những người
muốn trở thành luật sư biện hộ. Thời Trung cổ, các sinh viên luật đến London để học và thực tập bên
cạnh các thẩm phán tại Toà án cấp cao đã ăn, ngủ tại Inns of Court – thực ra là khu ăn ở của các luật
gia trong Toà án. Mỗi Inn of Court có một nhà thờ, một thư viện và một đại sảnh – nơi mọi người ăn

uống khi đến bữa, đồng thời cũng là nơi hội họp và giảng dạy về thực tiễn.
Người muốn trở thành luật sư biện hộ phải là một khoá sinh của Inn of Court để được đào tạo và phải
thi đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư biện hộ. Thời gian đào tạo ở các Inn of Court được đo bằng các
“kỳ ăn trưa” thường kéo dài khoảng 3 tuần tuỳ Inn of Court quy định. Thông thường mỗi năm có
khoảng 4 “kỳ ăn trưa” để đào tạo các khoá sinh. Trong mỗi “kỳ ăn trưa”, khoá sinh phải ăn trưa ít
nhất ba lần trong đại sảnh của Inn of Court. Để trở thành luật sư biện hộ, khoá sinh phải trả qua ít
nhất tám “kỳ ăn trưa”. Thời xưa, các bữa ăn trưa được coi là để giảm bớt khoảng cách giữa các luật
sư biện hộ chính thức và các khóa sinh, ngày nay ở Anh việc ăn trưa cùng để đào tạo phần nhiều
mang tính chất nghi lễ.
Việc công nhận luật sư biện hộ do Hội đồng của Inn of Court (Bencher of Inn) thực hiện sau khi
khoá sinh đã thi đỗ kỳ thi lý thuyết và thực hành và trải qua thời gian thực tập một năm. Hội Luật sư
(Law Society) được thành lập từ thế kỷ 18 là tổ chức tập hợp các luật sư tư vấn. Hội đã ban hành Bộ
luật ứng xử (Code of Conduct) bao gồm các quy tắc điều chỉnh hoạt động nghề nghiệp của các luật
sư tư vấn. Để trở thành luật sư tư vấn chỉ cần học 9 tháng tại Trường luật của Hội Luật sư (với các
môn học gắn với thực tế như lập hợp đồng bất động sản, luật thuế, luật thừa kế, luật thương mại, luật
công ty…), thi đỗ kỳ thi chuyên môn do Hội Luật sư tổ chức và trải qua hai năm tập sự ở một trong
những văn phòng luật sư tư vấn với tư cách nhân viên (article clek).
Thẩm phán được lựa chọn từ các luật sư tranh tụng và không theo nhiệm kỳ
Thẩm phán xuất phát từ các nhà thực hành luật chứ không phải các giáo sư luật, được giữ chức vụ
suốt đời. Thẩm phán chỉ bị bãi nhiệm khi cả Thượng viện và Hạ nghị viện yêu cầu lên Nữ Hoàng
(quy chế năm 1700).

55.
Đặc trưng của hệ thống thông luật: nguồn, cách tư duy pháp lý, cấu trúc nội tại
của pháp luật.
- Nguồn: Tiêu chí phân loại nguồn: dựa vào hình thức tạo ra nguồn: luật thành văn (written and
enacted law) và luật bất thành văn (unwritten and unenacted law)
Các loại nguồn cơ bàn: tiền lệ pháp và văn bản lập pháp
Các loại nguồn bổ sung: tập quán, học thuyết pháp lý và lẽ phải
- Tư duy pháp lý:

- Coi pháp luật là cái Sein (cái đang xảy ra trong thực tiễn).
- Chủ nghĩa kinh nghiệm hay lối suy luận quy nạp đi từ trường hợp cá biệt đến cái tổng quát, nguyên tắc
- Hệ mở, gần gũi với đời sống thực tế, chủ động sáng tạo, mềm dẻo và linh hoạt
- Không coi trọng pháp điển hoá.
- Cấu trúc nội tại:


- Không phân chia rõ ràng luật công và luật tư như civil law, có 1 hệ thống tóa án xem xét lại các hoạt động
lập pháp, hành pháp và cả tranh chấp tư.
- Luật bất thành văn, đặc biệt là án lệ được coi trọng áp dụng
- Tòa án và thẩm phán đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra luật.
56.
Sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng của pháp luật Anh trên thế giới.
Common law được mở rộng ra thế giới thông qua hai con đường. Thứ nhất là chinh phục thuộc địa (chủ yếu)
áp dụng cho các nước là thuộc địa của Anh. Đây là con đường chính dẫn đến sự ảnh hưởng của common law
trên thế giới. Thứ hai là các nước chủ động tiếp thu, chấp nhận một cách tự nguyện với việc thiết lập và thúc
đẩy quan hệ chính trị,thương mại với Anh.
Đối với Mỹ, người Anh bắt đầu chiếm các thuộc địa tại Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ XVI. Các thuộc địa đã dần
được hình thành, phát triển và có hai xu hướng pháp luật: một số người chú ý xây dựng xã hội thần quyền
với vai trò to lớn của nhà thờ Cơ đốc giáo tòa án là nhà thờ, người phán xử là các cha cố, dựa vào kinh
thánh và một xu hướng thứ hai là coi trọng pháp luật thành văn thể hiện ở hoạt động pháp điển hóa và ban
hành bộ luật ở Massachusetts năm 1634 và Pensylvania năm 1682. Như vậy thời kì này đã nảy sinh nhu cầu
cần sự điều chỉnh của pháp luật nhưng các thuộc địa không sử dụng luật Anh.
Một số nước tiêu biểu áp dụng common law: Canada, Australia, Hong Kong (đây là thuộc địa cũ của Anh).
57.
Sự hình thành hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
Người Anh xuất hiện ở Bắc Mỹ vào thế kỷ 17 đến năm 1722:
Ở Mỹ lúc này đã có 13 thuộc địa của Anh, nhưng trong quá trình phát triển có nhiều trở ngại như: bất mãn
chế độ thuộc địa của đa số dân, thiếu những luật gia thành thạo dẫn đến kìm hãm sự phát triển, khác biệt về
điều kiện sống khiến án lệ của Anh không phù hợp áp dụng => khiến pháp luật Anh không được chấp nhận

dễ dàng.
Tuy nhiên vào TK 18 đã có sự xuất hiện của luật gia chuyên nghiệp, đồng thời có xuất bản sách của William
Blackstone ở Mỹ (1765-1769) bán rất chạy, có nhu cầu tìm hiểu luật Anh để đối phó với thương gia Anh và
phán quyết dựa trên nền tảng luật Anh.
Sau khi Mỹ tuyên bố độc lập năm 1776 – sau cách mạng:
Tạo nên sự thụt lùi trong việc tiếp nhận luật Anh, một số tiểu bang còn cấm sử dụng luật Anh trong tòa án.
Có một số khuynh hướng chọn lựa luật Pháp và La Mã.
Nửa đầu TK 19 mở rộng giao lưu quốc tế nên các thẳm phán đã gọt giũa luật Anh, nửa sau TK 19 tòa án có
nhiệm vụ trật tự hóa hệ thống và hợp lý hóa chi tiết.
 Pháp luật Anh và pháp luật Mỹ đã trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập. Pháp luật Mỹ vừa có tính
ổn định tương đối (dựa trên Hiến pháp) và vừa có tính điều chỉnh linh hoạt (dựa trên cơ sở án lệ).
Tuy có sự khác biệt nhưng hệ thống pháp luật liên bang Mỹ vẫn sử dụng các nguồn, lý thuyết, tư duy
pháp luật của hệ thống pháp luật Anh.
58.
Các nguồn pháp luật Hoa Kỳ? So sánh với nguồn pháp luật Anh.
Các nguồn pháp luật Hoa Kỳ:
- Hiến pháp: luật cao nhất của đất nước, luật pháp của các tiểu bang phải tuân theo nó, bất kỳ điều
khoản nào của hiến pháp hoặc luật pháp của tiểu bang đều không được trái với Hiến pháp Hoa Kỳ; là
trật tự tối cao đối với mọi sinh hoạt chính trị pháp lý.
- Các đạo luật của các cơ quan lập pháp: phần lớn các đạo luật được thông qua bởi cơ quan lập pháp
liên bang và cơ quan lập pháp tiểu bang. Có rất nhiều các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn
bản pháp luật: các ủy viên hội đồng hành động như cơ quan lập pháp ở các địa hạt khác nhau trong
tiểu bang; hội đồng thành phố lập pháp trong phạm vi thành phố, những quận đặc biệt cũng có năng
lực lập pháp.
- Quyết định của các cơ quan chuẩn lập pháp và chuẩn tư pháp: các quyết định hay quy tắc được đưa
ra bởi những cơ quan, ủy ban, ủy hội. VD: cục bưu điện Hoa Kỳ, Ủy ban chứng khoán và thị trường
chứng khoán. Những quyết định này có thể bị xem lại bởi tòa án nhưng vẫn có giá trị pháp lý cho tới
khi nó vô hiệu. Các quy tắc hay quyết định này được xem là nguồn của pháp luật khi việc vi phạm
chúng sẽ bị tòa án hay pháp luật buộc phải chịu 1 chế tài.
- Quyết định và mệnh lệnh của hành pháp chính trị: những văn bản chi tiết hóa các văn bản lập pháp

và các mệnh lệnh trong việc thực thi chức năng hành pháp ban hành bởi tổng thống, thống đốc bang,
thị trưởng hoặc các quan chức hành pháp khác. Là quyết định điều chỉnh thuế của Tổng thống với


-

các mặt hàng riêng trong các hiệp định thương mại. Là các mệnh lệnh quan trọng trong các trường
hợp khẩn cấp.
Các quyết định tư pháp: ban hành bởi các cơ quan tư pháp nhằm giải thích luật và tạo ra luật khi giải
thích luật. Đây là nguồn của hệ thống luật Hoa Kỳ.
So sánh với nguồn pháp luật Anh:
Giống: các quyết định của tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên nguồn của luật
Khác: Hoa Kỳ coi trọng các văn bản pháp luật thành văn và các quyết định của cơ quan hành pháp
hơn so với Anh, đặc biệt ở Hoa Kỳ Hiến pháp chiếm vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật.

59.
Yếu tố phân quyền trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
Yếu tố phân quyền thể hiện qua hai đặc điểm:
- Hệ thống pháp luật liên bang và tiểu bang: tiểu bang tự quyết định và xây dựng luật riêng tuy
tuy nhiên vẫn phải tuân theo Hiến pháp Hoa Kỳ và trong một giới hạn nhất định.
Hiến pháp có quy định cụ thể về việc cấm các bang thông qua một số loại luật nhất định (tham gia ký
hiệp ước với nước ngòa i, phá t hà nh tiền). Điề u VI (Điều khoản tối cao) cũng không cho phép luật của
bang trái với Hiến pháp và luật liên bang. Tuy vậy, một phần lớn hệ thống pháp luật vẫn thuộc quyền
kiểm soát của bang. Hiến pháp đã cẩn thận quy định nhữ ng lĩnh vực Quốc hội được quyền làm luật. Tu
chính án Hiến pháp thứ mười (năm 1791) quy định rõ ràng luật của bang cần kiểm soát nhữ ng lĩnh vực
khác: “Nhữ ng quyền lực không được Hiến pháp ủy quyền cho Hợp chúng quốc, đồng thời các bang
cũng không bị Hiến pháp cấm nắm giữ quyền lực đó, thì thuộc về các bang, hoặc thuộc về nhân dân,
theo thứ tự lần lượt”.
Tuy nhiên, vẫn còn sự giằng co giữa chính quyền liên bang và các bang về vấn đề nô lệ và quyền tối
thượng của các bang được quyền tách ra khỏi liên minh. Cuộc nội chiến năm 1861-1865 đã giải quyết cả

hai vấn đề này. Nó cũng đặt ra các giới hạn mới đối với vai trò của bang trong hệ thống pháp luật: theo
Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn (1868), “Không bang nào có thể ... tước quyền được sống, quyền
tự do và quyền tài sản của bất kỳ người nào, nếu không theo đúng trình tự pháp lý; hoặc từ chối quyền
được pháp luật bảo vệ công bằng đối với bất kỳ người nào trong khu vực tài phán của nó”. Tu chính án
này đã mở rộng rất lớn khả năng vô hiệu hoá luật bang của các tòa án liên bang. Trong vụ Brown kiện
Hội đồng giáo dục (1954), căn cứ theo “điều khoản bảo vệ công bằng” này, tòa án đã cấm hệ thống giáo
dục bang Arkansas phân tách học sinh theo chủng tộc.
Bắt đầu từ thế kỷ XX, đã xuất hiện một số xu hướng định hình vấn đề nêu trên - đó là sự xuất hiện vấn
đề bang hành chính, một cách lý giải tư pháp mở rộng hơn và mạnh mẽ hơn đối với khái niệm “trình tự
pháp lý” và “bảo vệ công bằng”, cũng như sự mở rộng quyền lực của Quố c hội trong việc điều chỉnh
thương mại. Hai xu hướng này kết hợp với nhau, đã làm tăng vai trò của liên bang trong hệ thống pháp
lý. Nhưng dù sao còn nhiều lĩnh vực trong hệ thống pháp luật vẫn thuộc thẩ m quyề n của bang. Mặc dù
không bang nào được quyền từ chối trao cho công dân các quyền được Hiến pháp bảo vệ, nhiều bang
vẫn giải thích hiến pháp riêng của mình theo hướng trao nhiều quyền và đặc quyền rộng rãi hơn. Các tòa
án bang áp dụng luật của bang vẫn tiếp tục xem xét hầu hết các tranh chấp hợp đồng, cũng như các vụ án
hình sự, và các hành động pháp lý về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Luật gia đình, bao gồm cả kết
hôn và ly hôn, hầu như là một vấn đề thuộc thẩm quyền chuyên biệt của bang. Đối với hầu hết người
Mỹ, đụng đến hệ thống pháp luật có nghĩa là chỉ đụng đến các viên cảnh sát, tòa án bang, chính quyền
khu và phân khu trong phạm vi bang đó.
- Tam quyền đối trọng được phân rõ: lập pháp, tư pháp, hành pháp.
Hiến pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng phân chia quyền lực liên bang
thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp (tạo ra cái gọi là “tam quyền phân lập” và gìn giữ mộ t cách
thiêng liêng hệ thống “kiềm chế và đối trọng”, nhằm ngăn chặn không cho một ngành nào đó có thể lạm
dụng quyền lực của các ngành khác); và mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ thống pháp lý. Trong hệ
thống đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc hội có thể thông qua.
Nhưng ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các đạo luật do Quốc hội thông qua.
Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép các cơ quan hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết
hóa luật định. Và toàn bộ hệ thống được dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh. Mặc
dù Hiến pháp và các đạo luật đều có giá trị cao hơn thông luật, toà án vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc
thông luật bất thành văn để lấp các chỗ trống chưa được Hiến pháp đề cập, cũng như không được Quốc hội

luật hóa.


60.
Sự khác biệt của đào tạo luật ở Mỹ so với đào tạo luật ở các nước thuộc họ họ
pháp luật La Mã - Đức.
Đào tạo luật ở Mỹ:
- Các luật sư Mỹ, dù có khác biệt về chuyên môn, danh tính và thu nhập nhưng đều làm một nghề có
tính thống nhất và cùng có bằng cấp, học vấn và được đào tạo cơ bản chính thức như nhau .
Hầu hết các bang ở Mỹ đều đòi hỏi người muốn trở thành luật sư phải hoàn thành 4 năm cao đẳng
sau đó là 3 năm ở một trong 185 trường luật được Hội Luật gia Hoa Kỳ công nhận, cuối cùng phải
đỗ kỳ thi công nhận luật sư.
- Ở các trường luật đều dạy giống nhau trong năm đầu tiên với các khóa học về tài sản, hợp đồng, các
vụ án dân sự, trình tự thủ tục, luật hình sự và tất cả được dạy chủ yếu theo phương pháp giảng tích
cực (đối thoại với sinh viên) và phương pháp tình huống (case study). Theo yêu cầu của giáo sư,
sinh viên phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, bao gồm: các bản án (case method), các văn bản pháp
luật, học thuyết pháp lý liên quan, một số bài viết về kinh tế và xã hội học (modified case method).
Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng phương pháp Socrate, theo đó sinh viên làm việc theo
nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo sư, trình bày về những gì họ đã học. Giáo sư sẽ đặt câu hỏi cho các
học viên, thay đổi tình tiết các vụ việc…Đối với sinh viên từ năm thứ ba trong trường luật có thể áp
dụng phương pháp thực hành trực tiếp (clinical method), theo đó một sinh viên tham gia tư vấn và
đại diện cho khách hàng thực sự trong khuôn khổ trợ giúp tư pháp dưới sự theo dõi của luật sư –
đồng thời là giáo sư. Các trường luật hướng tới việc đào tạo những con người có khả năng tư duy,
có trình độ lý luận, có năng lực làm việc độc lập. Sinh viên phải nỗ lực trong nghiên cứu, tìm tòi,
phân tích các văn bản luật cũng như tình tiết vụ việc cụ thể để có thể đưa ra các quan điểm, ý kiến và
cách lập luận thuyết phục nhất. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề
trong chương trình trường luật để sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn đã

thể
làm

việc
được.
Giáo dục pháp luật ở Mỹ có truyền thống đào tạo sinh viên luật suy nghĩ và hành động như những
luật sư ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hầu hết các trường luật ở Mỹ đều kết luận rằng
việc kết hợp các giảng viên chính thức (đa số đều có kinh nghiệm trong nghề luật trước khi tham gia
giảng dạy luật) và những thẩm phán có kinh nghiệm tham gia giảng dạy là phù hợp nhất để đào tạo
nghề cho các luật sư tương lai.
Khác biệt với đào tạo pháp luật ở các nước thuộc họ La Mã – Đức:
- Chú trọng việc thực hành và đào tạo các kỹ năng của luật sư ngay từ bậc đại học. Ở các nước LM-Đ
bậc đại học đào tạo lý thuyết nhiều hơn.
- Thiên về đào tạo thực hành, đào tạo luật sư hơn các nước họ LM – Đức. => mang tính thực tiễn trong
khi ở các nước LM-Đ đào tạo mang tính hàn lâm.
- Quy trình đào tạo không phức tạp như ở Pháp.
61.
So sánh các đặc điểm của pháp luật Anh và pháp luật Hoa Kỳ.
- Giống:
+ Cùng họ pháp luật common law.
+ Coi trọng vai trò của thẩm phán, án lệ.
+ Thủ tục tố tụng tranh tụng.
- Khác:
+ Mỹ là nhà nước liên bang nên tồn tại hai hệ thống pháp luật của Liên bang và tiểu bang, Anh chỉ có
một vì là nhà nước đơn nhất.
+ Hệ thống toà án Mỹ cùng gồm 2 cấp liên bang và tiểu bang, tổ chức toà án Anh rất phức tạp.
+ Mỹ có sự tách bạch quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Anh thì không vì Thượng viện kiêm luôn
chức năng xét xử phúc thẩm.
+ Tuy thuộc họ common law nhưng Mỹ coi trọng luật thành văn, có hiến pháp thành văn, Anh thì không.
62.
Trình bày nguyên tắc “stare decisis” và vai trò của nó trong pháp luật Anh.
Nguyên tắc stare decisis: Toà án cấp dưới phải tuân thủ án lệ do toà án cấp trên đặt ra, tuân thủ các phán
quyết được đặt ra trước đó. Tạo nên hệ thống pháp luật thống nhất



Nguyên tắc tiền lệ cũng ràng buộc với chính tòa cấp trên, có nghĩa là tòa án cấp trên cũng phải tuân thủ tiền
lệ do chính mình tạo ra. Cụ thể hơn, các nước theo hệ thống thông luật đã đưa ra một số nguyên tắc trong
việc xây dựng án lệ gồm những quy định sau: 7
– Mỗi tòa án bị buộc phải tuân thủ theo các quyết định của tòa án cấp cao hơn trong cùng hệ thống hoặc của
chính tòa án đã ra tiền lệ;
– Những quyết định của tòa án thuộc hệ thống khác chỉ có giá trị tham khảo;
– Chỉ có những phần quyết định dựa trên chứng cứ pháp lý (ratio decidendi) của vụ án thì mới có giá trị bắt
buộc để ra quyết định cho vụ án sau này;
– Những nhận định hoặc quyết định của tòa án trước đó đối với một vụ án không dựa trên cơ sở pháp lý mà
chỉ dựa trên cơ sở bình luận của thẩm phán (obiter dictum) sẽ không có giá trị bắt buộc tòa án cấp dưới phải
tuân thủ;
– Yếu tố thời gian không làm mất đi tính hiệu lực của tiền lệ.
Như vậy, không phải tất cả những phần nêu ra trong một bản án đều bắt buộc trở thành tiền lệ pháp. Sẽ có
những phần bắt buộc và những phần không bắt buộc (tuy rằng phần không bắt buộc này vẫn thuyết phục các
bên tham gia vụ án tuân thủ). Theo sự giải thíchvề tiền lệ pháp trong luật so sánh8, “ranh giới cơ bản khi giải
thích tiền lệ pháp theo luật Anh là giữa cơ sở pháp lý (ratio decidendi) và sự giải thích thêm – phần bình
luận của thẩm phán (obiter dictum)”. Cơ sở pháp lý là nguyên tắc pháp lý để tòa quyết định vụ việc và nó
mang tính chất bắt buộc. Còn phần bình luận chỉ là việc nêu ra những lý lẽ, giải thích thêm của thẩm phán
về vụ việc đã qua và do đó nó không mang tính bắt buộc cho những trường hợp sau này. Những lý do mà
các thẩm phán đưa ra để giải thích thêm nằm ngoài phạm vi của cơ sở pháp lý và họ cũng không cần kiểm
tra cũng như xem xét đến hậu quả của nó. Mục đích của việc đưa ra luận cứ này chỉ mang tính chất là giải
thích hay minh họa để phân biệt giữa vụ việc này với vụ việc khác mà thôi.
Theo các nhà làm luật Anh thì tiền lệ pháp có rất nhiều ưu điểm.
- Thứ nhất, các đối tượng liên quan trong vụ án có thể biết trước các hậu quả pháp lý của vụ việc vì họ
biết các quyết định này không phải là các quyết định tùy tiện của các thẩm phán mà các thẩm phán
đã dựa vào các quyết định của các vụ việc trước đó.
- Thứ hai, tiền lệ được đưa ra từ thực tiễn, trong khi các đạo luật lại ít nhiều căn cứ vào lý thuyết và
suy luận mang tính lô gích; tiền lệ hình thành từ các hoàn cảnh khác nhau trong đời sống do đó nó

điều chỉnh được hầu hết các quan hệ xã hội phát sinh.
- Thứ ba, tiền lệ tạo điều kiện cho thẩm phán đưa ra nhiều tư tưởng mới trong lĩnh vực áp dụng pháp
luật tùy theo điều kiện, hoàn cảnh xã hội phát sinh ra các quan hệ pháp luật.
- Thứ tư, đó là tính linh hoạt của tiền lệ pháp, thuộc tính này phụ hợp với sự thay đổi nhanh chóng của
xã hội. Trong khi sự thay đổi các văn bản quy phạm pháp luật cần phải một thời gian nhất định thì
tiền lệ pháp lại đáp ứng ngay những đòi hỏi của thực tiễn.
Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức tiền lệ pháp gặp phải những bất cập nhất định.
- Thứ nhất, do các quyết định và bản án quá nhiều và liên tục tăng theo thời gian nên gây rất nhiều khó
khăn trong quá trình vận dụng.
- Thứ hai, bên cạnh tính linh hoạt thì nó cũng chứa đựng sự cứng nhắc vì thẩm phán buộc phải tuân
thủ theo những tiền lệ mà họ cho rằng không đầy đủ hoặc không mang giá trị pháp lý cao.
- Thứ ba, thẩm phán sẽ khó khăn khi nhận định trong những điều kiện hoàn cảnh như nhau nhưng tình
tiết vụ việc lại hoàn toàn khác nhau; trong trường hợp này, thẩm phán phải so sánh và hình thành nên
một tiền lệ mới, và như vậy sẽ làm phức tạp thêm khi áp dụng luật.
- Thứ tư,nó không mang tính hệ thống và tính khái quát vì án lệ được hình thành theo những tình tiết
của mỗi vụ việc
63.
-

-

Sự khác biệt điển hình giữa hệ thống pháp luật Anh và Mỹ.

Nguồn:
o ở Mỹ Hiến pháp có vai trò tối thượng trong việc hình thành luật pháp, là nguồn cơ bản nhất
của luật.
o Mỹ có coi trọng các văn bản pháp luật thành văn: các đạo luật trong hơn Anh; Anh có xu
hướng ưu tiên nguồn luật bất thành văn rút ra từ các thực tiễn xét xử của tòa án.
Hệ thống tư pháp:
o Mỹ chỉ có 2 cấp xét xử liên bang và tiểu bang còn hệ thống tư pháp của Anh phức tạp hơn.

Hệ thống pháp luật:


o Mỹ có hệ thống pháp luật tiểu bang và liên bang riêng biệt và tam quyền phân lập. Anh thì
không, ngoài ra Anh còn có tòa án riêng biệt xem xét các hoạt động lập pháp, tư pháp.
64.
Sự tương đồng và khác biệt về nguồn luật của pháp luật Anh và Mỹ.
Những điểm tương đồng
- Trong cấu trúc nguồn luật của 2 quốc gia đều có án lệ, các văn bản pháp luật (VBPL) và các tác phẩm
của các học gia pháp lý có uy tín.
- Án lệ là nguồn luật được sử dụng phổ biến nhất. Án lệ của Anh và Mĩ đều có chung nguyên tắc Stare
decisis, đều được ghi chép, xuất bản để sử dụng.
- Cả Anh và Mỹ đều thừa nhận và sử dụng các tác phẩm của các học giả pháp lí giống như là một nguồn
luật. Các tác phẩm này thường được trích dẫn bởi các luật sư và thẩm phán trong quá trình hành nghề
luật.
- Luật thành văn ngày càng được coi trọng trong hệ thống nguồn luật của 2 quốc gia.
Những nét khác biệt
- Số lượng nguồn luật của HTPL Anh phong phú hơn: Mỹ có 3 loại (Án lệ,Luật thành văn và các tác
phẩm của học gia pháp lý), còn Anh có tới 5 loại (Án lệ, Luật thành văn, Luật Liên minh Châu Âu, Tập
quán pháp địa phương và các tác phẩm có uy tín).
- Điểm khác biệt trong một số loại nguồn cụ thể:
+ Án lệ
Ở Anh, án lệ được áp dụng một cách tuyệt đối, còn ở Mỹ chỉ chấp nhận thụ động án lệ – một thứ cứng
nhắc và ra đời từ rất lâu không phù hợp với người Mỹ. Cùng áp dụng "nguyên tắc stare decicis" trong
việc sử dụng án lệ, tuy nhiên ở Anh nguyên tắc này được thực hiện chặt chẽ, khắt khe hơn. Theo pháp
luật Anh, án lệ của cấp trên có tính bắt buộc đối với cấp dưới và ngay cả chính mình. Vì vậy, các thẩm
phán ở Anh không muốn phủ nhận những phán quyết trước đó của mình hoặc đào sâu hơn khi xét xử vụ
án. Ở Mĩ, phán quyết của các tòa án tối cao ở cấp bang và liên bang không chịu sự ràng buộc của chính
mình; tòa án bang không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các tòa án ở các bang khác, tuy nhiên các phán
quyết phù hợp của các tòa án bang khác thường được viện dẫn, giá trị thuyết phục phụ thuộc vào việc tòa

án nào đã đưa ra quyết định đó.
+ Luật thành văn
Anh không có hiến pháp thành văn còn Mỹ thì ngược lại. Các qui định có bản chất của hiến pháp Anh có thể
tìm thấy trong đặc quyền Hoàng gia, trong một số truyền thống, án lệ cũng như văn bản pháp luật do Nghị
viện ban hành.
Ở Mỹ: Liên bang và các bang đều có hiến pháp viết. Hiến pháp Mỹ được coi là đạo luật cơ bản của quốc gia.
Do đó, bất kể nguồn luật nào trên nước Mỹ đều không được trái với nội dung Hiến pháp.
Các VBPL ở Anh gồm: VBPL do Nghị viện trực tiếp ban hành và VBPL Nghị viện ủy quyền ban hành.
Luật do Nghị viện ban hành có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra. Luật thường bổ sung hay
thay thế án lệ. Các VBPL địa phương do chính quyền địa phương ban hành. Ở Mỹ, có rất nhiều đạo luật
cả ở cấp Liên bang và cấp Bang. Ngoài Hiến pháp Mỹ, các đạo luật do Quốc hội Mỹ thông qua có giá trị
pháp lí cao nhất, cao hơn phán quyết của Tòa án cấp Liên bang và cấp Bang và cao hơn các đạo luật
tương ứng của các Bang. Mỗi Bang của Mỹ đều có quyền ban hành luật riêng áp dụng trong Bang.
65.
Các loại nguồn của pháp luật Đạo Hồi có gì khác biệt với các họ pháp luật khác?
Tại sao?
Các loại nguồn của pháp luật đạo Hồi:
- Kinh Coran: thánh kinh của đạo Hồi, được xem như hiến pháp.
- Sunna: Ghi chép lối sống, cách hành xử của Mohammed.
- Ijima: Gải thích các nguồn luật cơ bản.
- Qias: Các suy luận pháp lý để giải thích luật.
Nguồn của luật Hồi giáo khác với các họ pháp luật khác ở mấy điểm sau:
- Luật mang tính chất thần thánh, do Thượng đế đặt ra, là thiêng liêng bất khả xâm phạm, tín đồ chỉ có
thể tuân theo chứ không được sửa đổi.
- Không có sự tách bạch giữa tôn giáo và pháp luật.
- Không có lý luận pháp luật hoàn chỉnh.
- Không thừa nhận tiền lệ pháp, tập quán pháp là nguồn của luật.
Lý do:



×