Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN tăng cường kết hợp giáo dục học sinh giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm tạo lập thêm môi trường giáo dục gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.33 KB, 33 trang )

PHẦN I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
----o0o----

Song hành với quy luật phát triển của xã hội loài người, khi mà xã hội có
nhiều biến động thì cuộc sống mưu sinh của con người cũng thay đổi; nền kinh
tế thay đổi thì nhu cầu sống của con người cũng thay đổi theo để thích ứng và
sự nghiệp giáo dục cũng không thể nằm ngoài những quy luật đó. Trong những
năm qua nền giáo dục nước nhà có nhiều đổi thay nên hệ thống chương trình
sách giáo khoa cũng như nội dung giảng dạy đều có sự thay đổi, song song với
việc thay sách giáo khoa là việc đổi mới phương pháp giảng dạy để phù hợp
với mục đích yêu cầu của chương trình mới như Luật Giáo dục 2005 đã ban
hành: Giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học ; môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.”.Vậy vấn đề dạy học và giáo dục sao cho có hiệu quả nhằm đáp ứng với
mục tiêu mà Bộ giáo dục đã ban hành khi mà trong thời cuộc xã hội có nhiều
biến động như tình hình hiện nay( Cùng với sự phát triển kinh tế là sự bận rộn
Trang 1


kèm theo, đa phần phụ huynh chăm lo việc phát triển kinh tế gia đình mà sao
nhãng đến việc học tập của con em mình, song song với sự buông thả của gia
đình là hiện thực xã có nhiều vấn nạn không thể không ảnh hưởng đến sự tò
mò hiếu kỳ của trẻ, như các em xem quá nhiều phim ảnh, chơi các trò chơi điện
tử, đua đòi theo kẻ xấu,... mà không có sự kiểm soát đúng mức của gia đình).
Hậu quả là các em học tập yếu đi, không hiểu bài, không nắm được kiến thức
bài học, dẫn đến hổng kiến thức – khó nắm bắt được kiến thức của bài học mới.
Điều này làm cho các em chán học, từ sự chán học dẫn đến các em dễ bị sa
ngã: trốn học, bỏ tiết học đi chơi, dẫn đến bỏ học là điều khó cứu vãn. Thế nên


đề tạo cho học sinh có thói quen tự học; tự tìm tòi để chiếm lĩnh tri thức mới
nhằm phát huy ở học sinh: tính tích cực; tính tự giác, chủ động; sáng tạo . tiến
tới tạo lập môi trường học tập hòa nhập – thân thiện giúp các em thích đi học,
giúp các em hứng thú với học tập, thấy được mỗi ngày đến trường là mỗi ngày
vui, tiến tới hoàn thành công tác phổ cập giáo dục đúng độ tuổi ở các cấp học
theo quy định là một vấn đề không kém phần nan giải, đòi hỏi không những ở
sự lo lắng quan tâm của toàn xã hội (các cấp, các ban ngành đều chung tay lo
cho sự nghiệp giáo dục) ở sự nhiệt tình giàu tâm huyết của thầy cô giáo mà vai
trò của phụ huynh học sinh trong sự nghiệp giáo dục cũng không hề kém
phần quan trọng. Vậy nên cần tăng cường kết hợp giáo dục học sinh giữa
gia đình và giáo viên chủ nhiệm- Tạo lập thêm môi trường giáo dục gia đình
Trang 2


là một việc làm hết sức cần thiết, là cơ sở định hướng cho học sinh có thói
quen học tập, những hành vi đạo đức chuẩn mực cho hiện tại cũng như cho mai
sau.

PHẦN II

CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
----o0o----

1) Cơ sở nghiên cứu:
- Để tiến hành đề tài tôi dựa trên một số tài liệu mang tính chất chỉ đạo,
hướng dẫn của sở giáo dục, phòng giáo dục huyện EAH’LEO- ĐĂKLĂK .
- Lý luận tâm lý giáo dục học.

- Tài liệu học tập thay sách.
- Tài liệu dành cho giáo viên và sách giáo khoa theo chương trình.

- Các tài liệu giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn .
- Căn cứ vào thực tế lớp học mà vận dụng phù hợp các tài liệu đã tham
khảo một cách hợp lý trong dạy học .

Trang 3


2) Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh phần lớn là con em người dân tộc thiểu số tại địa phương
và con em thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn, những học sinh cá biệt,
thiếu sự quan tâm đúng mực của gia đình . Đặc biệt là học sinh lớp 1A2
và lớp 2A4 mà tôi đã chủ nhiệm trong hai năm học vừa qua .
3) Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc các tài liệu về đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học.
- Điều tra tỉ lệ học sinh trước và sau khi nghiên cứu .
- Theo dõi sát tình hoạt động học tập hằng ngày của từng học sinh kịp thời
thông báo với phụ huynh học sinh để có biện pháp giáo dục kịp thời .
- Theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua từng giai đoạn – làm cơ sở để đánh
giá xếp loại học sinh .
- Thu nhận những phản hồi của phụ huynh học sinh về tình hình học tập
của học sinh ở gia đình, những trao đổi của phụ huynh về vấn đề giáo dục để
có định hướng dạy dỗ các em một cách đúng đắn kịp thời .
- Gần gũi, động viên nhắc nhỡ những học sinh chưa ngoan, chưa vâng lời.
Tuyên dương, khích lệ đúng lúc; đúng chỗ đối với những học sinh làm tốt để
nêu gương.
Trang 4


- Ban cán sự lớp hỗ trợ cho giáo viên chủ nhiệm về công tác quản lý lớp và
giúp đỡ bạn trong học tập.

- Mọi thành viên trong gia đình học sinh cùng giáo viên dạy dỗ học sinh.

PHẦN III
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
----o0o----

A) NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

- Giúp học sinh có thói quen tự học ở mọi nơi mọi lúc .
- Tạo ra môi trường học tập mà mỗi học sinh chủ động trong hoạt động
học tập của mình một cách sáng tạo và đầy lòng tự tin.
- Hình thành môi trường học tập thân thiện,hòa nhập theo nhóm học sinh.
Cung cấp cho ban cán sự lớp các kĩ năng cơ bản ban đầu: Theo dõi, quản lý,
giám sát, báo cáo, giúp đỡ bạn học yếu, kĩ năng giao tiếp v,v... .Thông qua
những kĩ năng này giúp cho các em biêt hỗ trợ tương tác lẫn nhau trong hoạt
động học , giúp cho các có em tính mạnh dạn, tự tin hơn trong cuộc sống .

Trang 5


- Trong giờ học giáo viên chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn, gợi ý còn học
sinh tự tìm tòi chủ động trong mọi tình huống hoạt động học tập phát hiện kiến
thức và lĩnh hội kiến thức bài học .
- Hình thành cho học sinh có thói quen đi học chuyên cần, đúng giờ hơn.
Nhằm nâng cao hiệu quả chống học sinh bỏ học, tiến tới hoàn thành nhiệm vụ
phổ cập giáo dục đúng độ tuổi ở địa phương.
- Có thái độ đúng đắn hơn trong học tập, có ý thức tự phấn đấu vươn lên,
nắm được những kỹ năng kỹ xảo phát huy đầy đủ nhất các năng lực ở học sinh.
- Gây cho học sinh niềm hứng thú trong học tập, từ đó giúp cho các em
thấy được giá trị đúng đắn của việc học tập là cần thiết .

- Giúp cho phụ huynh học sinh nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động học
hằng ngày ở lớp của con em mình .
- Định hướng cho phụ huynh biết cách thức kiểm tra bài học và hướng dẫn
cách học cũng như chuẩn bị đồ dùng học tập cần thiết cho con em để cho các
em có kết quả học tập tốt hơn .Qua đây hình thành được môi trường giáo dục
gia đình.
- Làm cơ sở đúng đắn và chính xác nhất để nhận xét đánh giá kết quả học
tập – hành vi đạo đức của học sinh để lưu vào sổ chủ nhiệm, sổ điểm,hồ sơ học
bạ, báo cáo,…

Trang 6


B - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1 ) Đặc điểm trước khi nghiên cứu
Do ảnh hưởng của trình độ dân trí – nhận thức về học vấn ở địa phương còn
thấp. Phụ huynh học sinh còn mãi bận rộn với việc phát triển kinh tế gia đình
do ảnh hưởng của lối sống tự do theo phong tục tập quán của một số gia đình
( như nuông chiều con cái ở góc độ chưa đúng mức, khi con sai phạm thì chưa
có thái độ kiên quyết) dẫn đến việc quan tâm đến việc học tập của con em còn
nhiều hạn chế. Ý thức học tập của học sinh ít nhiều bị ảnh hưởng trong trạng
thái buông thả của gia đình. Học sinh chưa chú trọng lắm đến việc học tập của
bản thân: Các em thường xuyên nghỉ học, bỏ tiết học đi chơi, ở lớp chưa chịu
khó tập trung nghe giảng, nói chuyện, đùa nghịch trong lớp học, đánh bạn vô lý
do, làm việc riêng, về nhà chưa học bài và làm bài theo yêu cầu,… Kết hợp
giáo dục giữa nhà trường – gia đình và giáo viên chủ nhiệm chưa sát sao nên
dẫn đến hiệu quả giáo dục chưa cao là điều đáng tiếc .

2) Biện pháp nghiên cứu


Trang 7


a . Giúp cho phụ huynh thấy được vai trò và trách nhiệm của mình khi kiểm
tra bài cũ cho con em, chuẩn bị bài vở đồ dùng học tập cho học sinh trước khi
đến lớp.
b . Hướng dẫn cho phụ huynh học sinh cách thức kiểm tra bài bài học của
học sinh đã học ở lớp, cách chuẩn bị bài học cho buổi học kế tiếp ngày hôm
sau ( Mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia ).
c . Diễn giải cho bố mẹ các em thấy được cần có đầy đủ đồ dùng học tập là
cần thiết để giúp cho quá trình học tập thực hiện thuận tiện và hiệu quả học tập
mang tính khả quan hơn .
d . Hướng dẫn ban cán sự lớp ( Lớp trưởng, lớp phó, các tổ trưởng ) những
việc làm cần thiết để hỗ trợ giáo viên trong quá trình thực hiện như: Trong thời
gian sinh hoạt 15 phút đầu giờ, kiểm tra việc làm các bài tập ở nhà của các
bạn. Dò bài giúp bạn, xem bạn đã nắm được bài học ở nhà theo yêu cầu của cô
giáo chưa. Trong tiết học phát hiện các bạn nói chuyện riêng, làm việc riêng,
hăng say phát biểu xây dựng bài,… để đánh dấu vào ô đã quy định ở Sổ báo
bài . Báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm những bạn cần nhắc nhỡ để
giáo viên ghi ý kiến của mình vào mục cần trao đổi với phụ huynh học sinh.
e. Gần gũi, động viên giúp đỡ học sinh còn yếu, chưa ngoan. Tuyên dương,
khích lệ học sinh thực hiện tốt các hoạt động của trường; lớp để ra; chăm
ngoan; học giỏi để nêu gương .
Trang 8


f . Giáo viên cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa ngoan, học tập
yếu, hay bỏ học, đi học muộn để có biện pháp giáo dục kịp thời .


3) Qúa trình nghiên cứu :
Qua 10 năm làm giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy- bản thân tôi lúc nào
cũng trăn trở là làm thế nào để giảng dạy và giáo dục học sinh sao cho có hiệu
quả cao, vậy là tôi đã áp dụng nhiều biện pháp, song điều đã làm tôi lưu tâm
nhất đó là cần tăng cường kết hợp giáo dục học sinh giữa giáo viên chủ
nhiệm với phụ huynh học sinh ( như đến gia đình học sinh, mời phụ huynh
đến lớp, ở các cuộc họp phụ huynh hoặc mọi lúc mọi nơi nếu có cơ hội được
gặp phụ huynh học sinh,…) nhằm trao đổi cùng với phụ huynh những vấn đề
tồn tại ở bản thân học sinh ( như khả năng học tập- lĩnh hội kiến thức, khả năng
ghi nhớ bài học, ý thức tự giác hay không tự giác trong học tập, ngoan hay
chưa ngoan, đồ dùng học tập của các em còn thiếu những gì ,…) để rồi cùng
nhau trao đổi nhằm tìm ra biện pháp thiết thực để giúp đỡ các em có cơ sở học
tập tốt hơn nhằm mang lại hiệu quả cao. Cho nên về cuối năm hiệu quả giảng
dạy và giáo dục ở các lớp tôi chủ nhiệm thường cao hơn so với chất lượng
chung của toàn trường như :
+ Như lớp 1A6, năm học 2000-2001.
+ Lớp 1A3 năm 2001-2002, lớp 1A2 năm học 2003 – 2004 .
Trang 9


+ Lớp 5A2 năm học 2004 – 2005 .
+ Lớp 4A4 năm học 2005 – 2006, Lớp 5A4 năm học 2006 – 2007 .
+ Lớp 1A2 năm học 2008 – 2009, lớp 2A4 năm học 2009 – 2010 .
+ Cũng như hai em Hoàng Thị Diệu, Nguyễn Thị Yến Tuyển học lớp 5A2
năm học 2006 – 2007, từ sống trong hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn
sau nhờ có sự kết hợp hợp lý giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình mà hai em
đều đạt học sinh giỏi cấp tỉnh với kết quả cao .
Qua nhiều năm thực hiện biện pháp trên, tôi nhận thấy việc thực thi của
mình còn có nhiều bất lợi: giáo viên phải mất nhiều thời gian đến từng gia đình
học sinh, mời phụ huynh đến lớp thì làm mất thời gian của phụ huynh, trong

khi bố mẹ các em cũng như bản thân người giáo viên còn phải đảm trách biết
bao nhiêu là công việc khác nữa. Thế rồi, tôi đã đi đến quyết định là cần làm
Sổ báo bài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kết hợp giáo dục giữa
giáo viên và phụ huynh học sinh diễn ra thuận tiện và có hiệu quả hơn. Đó
cũng chính là kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình dạy học của mình.
Kinh nghiệm này tôi đã thực hiện có hiệu quả đó là thực thi ở lớp 1A2 và lớp
2A4 của mình .

* Đối với lớp 1A2 ( năm học 2009 – 2010)

Trang 10


Trước tình hình của lớp có nhiều bất lợi cho việc nâng cao chất lượng giáo
dục .Phần lớn gia đình của các em còn nhiều khó khăn về kinh tế, bố mẹ mãi lo
làm ăn mà hạn chế quan tâm việc học hành của con cái .
-Từ sự quan tâm lỏng lẻo của gia đình; các em thích đi học thì đi; không đi
học thì thôi nên các em cứ thế mà nghỉ học vô lý do, cứ đi học một ngày lại
nghỉ đến hai ba ngày ( như em Y Tin, em Y Sui , em Quốc Mạnh, em H Lê , em
Y Yơng , em Y Pốk, em Y Viên , em H Thúy , em Y Tâng, em Y Vơn… mặc
dầu giáo viên đã nhiều lần đến nhà, mời phụ huynh đến lớp để trao đổi về
vấn đề giúp đỡ, mong phụ huynh quan tâm cho con đi học đều hơn .
- Bên cạnh vấn đề bỏ học vô lý do thì hiện tượng các em đi học muộn cũng
không kém mà một phần lớn là do sự chuẩn bị chưa chu đáo từ phía phụ
huynh, từ phải chờ ăn sáng ở nhà cho đến xong mới đi học, dẫn đến các em
thường xuyên đi học muộn khi mà lớp học đã vào học 1, 2 tiết ( như : em H Lê
, em H Duyên, em Y Yơng , em Y Pốk, em HThúy, em Y Tâng, em Y Vơn, em
Đông Nhân ,… thậm chí còn có phụ huynh theo con đến trường dỗ dành cho
con ăn ngoài cửa lớp trong khi lớp đang học.
- Như vậy từ phía phụ huynh chưa thấy tầm quan trọng của việc đi học

chuyên cần và đúng giờ dẫn đến ý thức tác phong của học sinh bị chểnh mảng.
Việc đi học chưa chuyên cần, đi học muộn đã dẫn đến lớp trong giờ học các em
không chú ý học hay đùa nghịch, hay nói chuyện, hay ăn quà vặt trong giờ học;
Trang 11


làm việc riêng có thái độ không đúng đắn trong giờ học dẫn đến các em tiếp
thu bài học một cách thụ động và làm ảnh hưởng không kém đến giờ học của
cả lớp ( như em Y Yơng , em H Lê , em Trí, em H Duyên, em Y Vơn , em
Đông Nhân, em Đạt, ….) .
- Ở lớp không tập trung học, về nhà các em ít được sự quan tâm đúng mức
của gia đình nên các em thường xuyên không học bài và không làm bài ở nhà
dẫn đến hiệu quả học tập không cao ( em H Lê ,như em Y Yơng , em Đạt, em
Trí, em H Duyên, em Y Vơn , em Đông Nhân, cá biệt như em Quốc Mạnh hầu
như thường xuyên không học bài và không làm bài ở nhà, dẫn đến là em Mạnh
viết bài rất chậm, giáo viên đã nhiều lần đến nhà em Quốc Mạnh, nhiều lần gởi
giấy kết hợp giáo dục đề ra biện pháp để phụ huynh giúp đỡ cho em học ở nhà,
viết giấy mời phụ huynh đến trường, hầu mong có sự hỗ trợ của phụ huynh
nhưng vẫn không gặp được, mãi đến gần cuối học kỳ 1 mới được gặp phụ
huynh em Mạnh thì nhận được sự quan tâm rất hời hợt “ Tôi nghĩ cháu đã
học bài ; làm bài đầy đủ và đã học giỏi rồi, do bận nhiều công việc; không
biết cháu học đến đâu nên tôi không xem bài vở cho cháu được,…” ) .
- Từ sự chuẩn bị chưa chu đáo cho các em nên khi đi học các em thường
thiếu đồ dùng học tập ( như bảng con, phấn viết, vở viết, sách giáo khoa,…)
dẫn đến gây khó khăn cho quá trinh học tập ở lớp. Các em thường thiếu đồ

Trang 12


dùng như em Y Tin, em Y Sui , em Quốc Mạnh, em H Lê , em Y Yơng , em Y

Pốk, em Y Viên , em H Thúy , em Y Tâng, em Y Vơn…
Trước thực trạng của lớp, là một giáo viên chủ nhiệm bản thân tôi không thể
không lo lắng, tôi luôn trăn trở mong tìm ra phương án có hiệu quả: Gởi giấy
kết hợp giáo dục đến gia đình học sinh, gởi giấy mời để gặp phụ huynh trao đổi
để tìm ra giải pháp tối ưu nhằm giáo dục những học sinh còn học yếu; chưa
ngoan hoặc đến gia đình các em gặp trực tiếp phụ huynh, song những biện
pháp đã thực hiện đem lại hiệu quả chưa cao lại gây ra nhiều khó khăn bất lợi
cho giáo viên cũng như phụ huynh ( giáo viên phải dành thời gian để đi đến
từng gia đình các em, có khi gặp được phụ huynh; có khi lại không gặp được
phụ huynh, phụ huynh dành thời gian làm việc của mình để đến trường vv…) .
Từ những bất cập đã trải qua, vậy làm thế nào đây- sao cho thuận lợi cả
đôi bên giữa phụ huynh học sinh và giáo viên trong công tác phối hợp giáo dục
các em nên người. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, thế là nhân buổi họp phụ huynh
học sinh (ngày 8 tháng 1 năm 2009). Tôi đã đề xuất, nói lên những ý kiến
những mong muốn của mình mong phụ huynh cùng hợp tác giáo dục các em.
Sau khi trao đổi bàn bạc với phụ huynh học sinh, cuối cùng đi đến thống nhất
và được 100% phụ huynh phấn khởi đông tình là: Cần tăng cường hợp tác
giáo dục giữa cha mẹ học sinh với cô giáo chủ nhiệm nhiều hơn nữa thông
qua “Sổ báo bài”, “ Sổ báo bài ” này với nội dung: hằng ngày học sinh mang
Trang 13


đến lớp để giáo viên theo dõi và ghi kết quả tình hình hoạt động học tập trong
ngày; nêu những nhận xét cần thiết sau đó học sinh lại mang về nhà cho phụ
huynh theo dõi và có ý kiến phản hồi, để giáo viên kịp thời có biện pháp giáo
dục thích hợp và ý kiến thống nhất quy định rõ ràng : trách nhiệm và việc làm
cụ thể của giáo viên , trách nhiệm và việc làm cụ thể của học sinh và trách
nhiệm và việc làm cụ thể của phụ huynh học sinh thông qua mẫu :
*Giáo viên : Hằng ngày theo dõi sát sao, đánh giá kịp thời tình hình học tập ở
lớp của học sinh trong ngày (chú ý học , hay chưa chú ý học, làm bài đầy đủ

hay chưa làm bài đầy đủ theo yêu cầu, chuẩn bị đồ dùng học tập, thái độ trong
học tập, ý thức đạo đức cá nhân,...)
- Lên kế hoạch bài học cho ngày học tiếp theo.
- Kịp thời nêu ý kiến phối hợp giáo dục với phụ huynh học sinh .
*Học sinh : Hằng ngày ghi tên bài học cho ngày hôm sau , để phụ huynh chuẩn
bị và kiểm tra .
*Phụ huynh học sinh : Hằng ngày nắm bắt tình hình học tập ở lớp của con em
mình, có ý kiến phản hồi phối hợp dạy dỗ các em.
- Hằng ngày kịp thời kiểm tra, hướng dẫn việc học bài và làm bài ở nhà của con
em mình đồng thời chuẩn bị bài học , đồ dùng học tập cho buổi học tiếp theo.

Trang 14


Nội dung: Hằng ngày giáo viên theo dõi quá trình chú ý học hay không
chú ý tập trung trong giờ học, làm bài tập đầy đủ hay không làm bài học bài
đầy đủ, đã ngoan hay chưa ngoan, thiếu đồ dùng học tập những gì, nêu ý kiến
trao đổi, thông báo những vấn đề liên quan, nhận xét ,…để ghi vào “ Sổ báo
bài ” của ngày hôm đó ( trong quá trình thực hiện giáo viên hướng dẫn ban cán
sự lớp hỗ trợ đắc lực như : kiểm tra bài cũ, hướng dẫn bạn học, kiểm tra đồ
dùng của bạn, theo dõi các hoạt động khác nữa rồi báo lại cho giáo viên để giáo
viên có cơ sở nhận xét trao đổi với phụ huynh .)
Khi nhận xét đánh giá giáo viên đều trao đổi nhắc nhỡ học sinh những sai
phạm để các em khắc phục cho lần sau, sau đó học sinh mang về nhà để phụ
huynh kiểm tra và kịp thời giúp đỡ cho các em . Cụ thể là:

Thứ . . . . .ngày……tháng …..năm ……
STT
1
2

3
4
5

Môn

* Chú ý học

Tên bài dạy

*Chưa chú ý học

*Học và làm bài đầy đủ
* Học và làm bài chưa đầy đủ
* Ý kiến trao đổi giữa giáo viên và phụ
huynh. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . .. . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . .
............................
. . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Phụ huynh
Trangđã15kiểm tra
Ký tên


Được sự cho phép và tạo điều kiện của giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà
trường,… Thông qua trao đổi, bàn bạc thống nhất với hội phụ huynh học sinh
của lớp, được sự hưởng ứng phấn khởi của bố mẹ các em. Tôi mạnh dạn thực
hiện ý tưởng của mình :
Bước đầu thực hiện không thể không tránh khỏi những khó khăn như: Học
sinh còn quên mang sổ báo bài. Các em chưa biết cách tự ghi mà giáo viên
hằng ngày phải hướng dẫn các em cách ghi bài học hôm sau đầy đủ. Về nhà lúc

Trang 16


đầu phụ huynh còn quên kiểm tra quên hướng dẫn con em học và quên chuẩn
bị bài cho học sinh nên giáo viên phải nhắc nhỡ các em về nhà nhờ bố mẹ kiểm
tra bài, hướng dẫn các em học và chuẩn bị bài; chuẩn bị đồ dùng học tập cho
các em, song sau rồi cũng quen dần phụ huynh và học sinh đều cũng nhận thức
ra rồi quen với công việc trao đổi qua “ Sổ báo bài ”.
Sau thời gian thực hiện hợp tác giáo dục thông qua Sổ báo bài thì hiệu
quả dạy và học cũng như nề nếp tác phong học tập của học sinh tiến bộ rõ rệt.
Các em đi học chuyên cần hơn. Hiện tượng đi học muộn chỉ còn không đáng
kể. Các em đã biết giữ gìn trường lớp sạch đẹp hơn. Biết nói những lời nói có
giáo dục – có ý thức hơn .Tác phong mặc áo quần; đội mũ nón, mang giày dép
gọn gàng sạch đẹp hơn. Hiện tượng quên đồ dùng giảm khá nhiều .
Đặc biệt là các em đã có sự chuẩn bị chu đáo của gia đình trước khi đến
lớp nên hiện tượng không học bài và không làm bài ở nhà cũng giảm đi nhiều ,
bù vào đó ở lớp các em cũng tập trung học tập và hăng say phát biểu xây dựng
bài mới, biết hợp tác với bạn trong hoạt động học tập mà dẫn đến chất lượng
dạy và học có nhiều khả quan - ưu việt hơn so với học kỳ1.

* Đối với lớp 2A4 ( năm học 2009 – 2010 )
Lớp 2A4 gồm có các học sinh từ các thôn buôn khác nhau, từ các lớp 1
khác nhau của năm trước hợp thành lớp 2A4. Đa phần các em là con nhà lao
Trang 17


động còn gặp nhiều khó khăn và phần lớn là con em các dân tộc thuộc địa
phương. Bố mẹ các em thường bận rộn với công việc làm ăn chăm lo phát triển
kinh tế, làm nương rẫy, công nhân cao su phải đi làm từ sáng sớm, cả ngày đi
làm về mệt mỏi – lại không có cơ sở để kiểm tra việc học tập của con em nên

việc quan tâm đến việc tâm của con em ít nhiều bị hạn chế. Các em chưa được
quan tâm sát sao từ nhiều phía, dẫn đến các em chưa ngoan, như còn ham chơi,
nghịch ngợm, đi học chưa chuyên cần, hay đi học muộn, chưa tập trung học và
làm bài ở lớp cũng như ở nhà dẫn đến hiệu quả học tập thấp .
Từ các nguồn thông tin từ năm học trước của học sinh và phụ huynh lớp
1A2, ngay từ đầu năm học, phụ huynh lớp 2A4 đã có ý kiến và yêu cầu tôi áp
dụng thực hiện liên lạc giáo dục cho học sinh thông qua Sổ báo bài .
Được sự cho phép tạo điều kiện giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường và
sự đồng tình nhất trí cao của phụ huynh học sinh. Từ những tuần đầu tiên của
năm học tôi đã áp dụng phương án kết hợp giáo dục học sinh thông qua Sổ báo
bài cho lớp 2A4.
Bước đầu thực hiện còn gặp nhiều khó khăn nhưng rồi sau đó các em và
phụ huynh cũng quen dần. Chính nhờ có Sổ báo bài mà hằng ngày phụ huynh
nắm được tình hình học tập ở lớp của con em mình, nắm được những nội dung
bài học mà các em đang học để có cơ sở kiểm tra việc học bài và làm bài ở nhà
hướng dẫn các em học bài và làm bài sát với yêu cầu đề ra, chuẩn bị bài và đồ
Trang 18


dùng học tập cho buổi học hôm sau, nắm bắt kịp thời những ý kiến; yêu cầu
của giáo viên để có định hướng dạy dỗ nhắc nhở các em học tập .
Xuất phát từ mối quan tâm đúng đắn sát sao của cha mẹ, của giáo viên chủ
nhiệm đã giúp các em nhận thức được đi học chuyên cần, đúng giờ, chăm học
bài và làm bài đầy đủ, mang đồ dùng học tập đầy đủ, hợp tác học cùng bạn, …
là điều rất cần thiết. Từ đó tạo lập cho các em có thói quen học tập đúng: Tích
cực tìm tòi, chủ động trong học tập, tự giác học, hăng say hứng thú học tập ,…
Nhờ vậy mà quá trình dạy và học diễn ra thuận tiện. Ở các em học sinh cá biệt
đều có nhiều tiến bộ như các em Y Khăn, Y Líp, em H Miền, em Y Thêm, em
Y K Rá,… từ thói quen thường xuyên nghỉ học vô lý do, trong tiết học thường
chạy ra ngoài để đùa nghịch, gây mất trật tự trong giờ học, ăn quà vặt; thích hát

thì hát; thích ngủ thì ngủ trong giờ học, không học và làm bài ở nhà.Vậy mà về
cuối học kì 1 các thói quen trên đã giảm dần, thế vào đó là các em dần ngoan
hơn và chăm học hơn.

C – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
----o0o---*. Đối với lớp 1A2 ( năm học 2009 – 2010)

Trang 19


- So với trước khi nghiên cứu thì số học sinh vắng học ,học không có lý do
đã giảm đi nhiều mà phần lớn là nhờ có sự quan tâm của phụ huynh hơn so với
trước đây :
Ví dụ :
Học sinh vắng học tháng 11/2008
12 em

Học sinh vắng học tháng 2 /2009
7 em

Số học sinh đi học muộn cũng giảm đi đáng kể, đơn cử số học sinh đi học
muộn trên tuần của trước đây so với số học sinh học muộn trên tuần hiện nay
trung bình là :

Trước khi nghiên cứu
15 em / tuần

Sau khi nghiên cứu
1
2 em / tuần


- Về nền nếp tác phong, các em đã biết mặc áo quần gọn gàng sạch sẽ hơn, hết
hiện tượng ăn quà vặt trong giờ học, các em đã tự ý thức hơn trong các hoạt
động ở trường như việc xếp hàng ra vào lớp, việc xếp hàng và tập thể dục giữa
giờ cũng như các hoạt động khác và kết quả rất đáng phấn khởi ở chỗ là các em
đã liên tiếp được nhận cờ luân lưu do Ban phụ trách đội khen tặng như số lần
được nhận cờ luân lưu là:
Trước khi nghiên cứu

Sau khi nghiên cứu
Trang 20


1 lần / 17 tuần

12 lần / 16 tuần

- Nhờ có sự quan tâm đúng mức hơn của phụ huynh học sinh mà hiện tượng
học sinh đi học quên đồ dùng học tập cũng giảm hẳn ( trong trường hợp học
sinh lỡ quên không mang đồ dùng học tập giáo viên kịp thời ghi vào sổ báo bài,
thế là những ngày tiếp theo các em sẽ có đồ dùng học tập đủ để học và hiệu
quả cao hơn so với trước khi chưa áp dụng vở báo bài và số lượt quên đồ dùng
( bút, vở, sách, phấn, thước kẻ ,..) cũng giảm đi đáng kể , cụ thể là:

Trước khi nghiên cứu
50 lượt / tuần

Sau khi nghiên cứu
6 lượt / tuần


- Nhờ học sinh có ý thức tự học hơn và phần nào nắm được cách thức học, ý
thức tự học đã phần nào có ở các em , các em đã phần nào biết hợp tác cùng
nhau trong học tập mà hiện tượng không học bài và không làm bài ở nhà đã
giảm .
Ví dụ: Số học sinh không học bài và không làm bài ở nhà trung bình trong
một tuần là :

Trước khi nghiên cứu
60
70 lượt em / tuần

Sau khi nghiên cứu
5
10 lượt em / tuần

Phần không kém phần quan trọng trong sự tiến bộ là các em đã tự biết
trình bày vở sạch đẹp hơn cụ thể là :
Trang 21


Tháng 11 / 2008

Loại A
6

Tháng 3 / 2009

Loại B
11


Loại C
13

Loại A
16

Loại B
10

Loại C
4

- Đặc biệt ở sự tiến bộ đáng kể của học sinh là kết quả chất lượng học tập
qua các môn học. Các em đã bước đầu biết đọc lưu loát các bài tập đọc, các bài
học ở các môn, các em đã biết tự nêu được các yêu cầu của đề bài, bước đầu
biết suy nghĩ trước những yêu cầu có vấn đề cần giải quyết, biết trả lời dược
những câu hỏi theo yêu cầu của bài học đặt ra ở tất cả các môn học như : Tự
nhiên – Xã hội , Đạo đức , Thủ công , … các em cũng đã biết tự tìm hiểu các
yêu cầu của bài toán và đã làm đúng ở mức độ cao hơn so với học kỳ 1. Kết
quả điểm thi hai môn Toán và Tiếng Việt cuối học kỳ 2 so với kết quả điểm
thi cuối học kỳ 1 là :
Môn Toán :

Điểm
9
10
7
8
5
6

<5

Cuối học kỳ 1

Số học sinh
6
9
10
5

Tỷ lệ%
20,0%
30,0%
33,4%
16,6%

Cuối học kỳ 2

Số học sinh
17
7
5
1

Môn Tiếng Việt
Cuối học kỳ 1

Cuối học kỳ 2
Trang 22


Tỷ lệ%
56,7%
23,3%
16,6%
3,4%


Điểm
9
10
7
8
5
6
<5

Số học sinh
8
7
11
4

Tỷ lệ
26,7%
23,3%
36,7%
13,3%

Số học sinh
14

8
7
1

Tỷ lệ
46,6%
26,7%
23,3%
3,4 %

Qua hai bảng kết quả học tập môn Toán và môn Tiếng Việt so sánh trước và
sau khi nghiên cứu ta nhận thấy có kết quả rất khả quan khi vận dụng phương
án này, rõ nét là số học sinh khá – giỏi ở môn toán tăng 30,0%, học sinh yếu
kém giảm 13,2 % . Môn Tiếng Việt số học sinh khá giỏi tăng 23,3%, học sinh
yếu kém giảm 9,9 % .
*. Đối với lớp 2A4 ( năm học 2009 – 2010 )
Điều thuận lợi, ngay từ đầu năm học các em đã có sự kết hợp giáo dục dạy
dỗ sát sao của bố mẹ và cô giáo. Về cơ bản đã tạo được môi trường học tập hòa
nhập thân thiện ở lớp , về nhà các em được cả nhà đồng lòng giúp đỡ ( môi
trường giáo dục gia đình ) dần hình thành cho các em có thói quen và những kĩ
năng tốt: Các em đã có ý thức tự học, biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập,
biết kiểm tra bài lẫn nhau, biết tự kiểm tra bài học của bản thân, biết tự ý thức
bản thân mình về học tập là cần thiết. Điều đáng phấn khởi là những học sinh
cá biệt có những thói quen tật xấu dần dần cũng trở nên ngoan hơn và chăm
học hơn. Những em có hoàn cảnh khó khăn cũng ý thức được đã nổ lực vươn
lên để tiến bộ hơn. Chính nhờ vậy mà hiệu quả dạy và học cũng tăng cao :
Trang 23


Chất lượng đầu năm học

Giỏi
Số
lượng
3

Khá
Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

10.7 %

lượng
5

17,9%

Trung bình
Số
Tỷ lệ
lượng
14

50,0%

Yếu kém
Số
Tỷ lệ

lượng
6

21,4%

Chất lượng cuối học kì 1
Giỏi
Số
lượng
5

Khá
Tỷ lệ

Số

17,9%

lượng
11

Tỷ lệ
39,3 %

Trung bình
Số
Tỷ lệ
lượng
10


35,7%

Yếu kém
Số
Tỷ lệ
lượng
2

7,1%

Qua hai bảng số liệu trên, ta có số học sinh khá giỏi tăng 28,6 % và học sinh
yếu kém cũng giảm đi đáng kể là 14,3 %.
Từ ý tưởng của bản thân tôi, đã thực hiện vào hoạt động dạy và học ở hai
lớp 1A6 và 2A4 trong hai năm học vừa qua. Kết quả trước và sau nghiên cứu
đã minh chứng thực cho thấy cần tăng cường hơn nữa hoạt động phối hợp giáo
dục giữa giáo viên và phụ huynh học sinh – tạo lập môi trường giáo dục gia
đình là điều hết sức cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả dạy và học, là
tiền đề trang bị cho các em tính tự giác, tính chủ động sáng tạo trong học tập và
những thói quen tốt cho các em hiện tại cũng như cho các cấp học sau này .
Trang 24


Như vậy qua thời gian áp tăng cường kết hợp giáo dục giữa giáo viên chủ
nhiệm với phụ huynh học sinh thông qua Sổ báo bài ở hai lớp 1A2 và lớp 2 A4
chưa phải là dài lắm nhưng bước đầu cũng mang lại kết quả đầy khả thi, song
để tạo lập cho học sinh có thói quen tự học, tự tìm tòi, chủ động sáng tạo trong
học tập, tạo lập cho các em hình thành những thói quen hành vi đạo đức, tác
phong học sinh chuẩn mực là điều không thể đơn giản chút nào, mà đòi hỏi sự
nổ lực cao của phụ huynh học sinh và tấm lòng đầy nhiệt thành – tâm huyết
cao của người thầy, phải hằng ngày kề cận gần gũi với các em; theo dõi sát

từng việc làm trong học tập thái độ- cử chỉ của các em để kịp thời uốn nắn các
em theo hướng đúng ( đơn cử sáng hôm nay 25 / 3/ 2009 sau những ngày theo
dõi toàn thể học sinh, tôi phát hiện ra em Nguyễn Đình Nghĩa (lớp 1A2) từ
một học sinh giỏi ở học kỳ 1, vậy mà qua một tuần, tôi nhận thấy khuôn mặt
em lúc nào cũng lờ đờ; không tập trung vào được bài học, không nhắc lại được
lời của bạn vừa trình bày, về nhà ít hoàn thành bài theo yêu cầu , … thông qua
trao đổi trên Sổ báo bài thì cũng chỉ đỡ phần nào, sau 2 ngày em lại có trạng
thái lờ đờ kém hiểu bài như cũ, và cũng thông qua Sổ báo bài tôi đã kịp thời
gặp phụ huynh trao đổi, sau mới biết cuộc sống gia đình em Nghĩa có sự biến
đổi là bố mẹ em chuyển sang nghề buôn bán; bước đầu còn bận rộn chưa sắp
xếp được công việc để có thời giờ chăm sóc con cái nên em Nghĩa phải trông
em giúp mẹ đến khuya, không có thời gian học và làm bài ở nhà ; phần nữa
Trang 25


×