HƯỚNG DẪN QUY TRÌNH SẢN XUẤT THEO TIÊU CHUẨN
VIETGAP TRÊN CÂY NHÃN (Dimocarpus longan)
(Ban hành kèm theo Quyết định số /QĐ-SNNPTNT ngày tháng năm 2020
của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
I. YÊU CẦU SINH THÁI
1. Yêu cầu về khí hậu:
Nhiệt độ thích hợp cho nhãn sinh trưởng và phát triển là từ 21-27oC;
mùa hoa nở cần nhiệt độ cao 25-31 oC; Mùa Đông cần một thời gian nhiệt độ
thấp để phân hóa mầm hoa.
Ánh sáng: Nhãn cần nhiều ánh sáng, thoáng. Ánh sáng chiếu được vào
bên trong tán giúp cây phát triển và thường sai trái, ánh sáng còn giúp đậu trái,
vỏ bóng và vị ngọt, ngon. Tuy nhiên giống nhãn Bắc là cây ưa sáng nhưng lại sợ
ánh sáng trực xạ còn giống nhãn Nam nếu bị rợp cây cho ít trái, chỉ những cành
nhận đầy đủ ánh nắng mới cho trái tốt.
Lượng mưa thích hợp cho nhãn từ 1.300 đến 1.600 mm, nhãn là cây ưa
ẩm nhưng không chịu úng và rất nhạy cảm với việc ngập nước kéo dài. Ngược
lại, nếu gặp khô hạn trong thời gian dài sẽ làm cho cây sinh trưởng chậm, ra hoa
và đậu trái khó khăn. Trong thời kỳ nhãn nở hoa nếu gặp mưa thì hoa bị rụng và
tỷ lệ đậu quả kém. Nhãn rất nhạy cảm với gió, những cơn gió xoáy mạnh làm
rụng quả và gẫy cành.
2. Yêu cầu về đất đai đối với cây vải nhãn
Nhãn có tính thích ứng rộng, có thể trồng trên nhiều loại đất từ vùng nước
ngọt quanh năm đến vùng nhiễm mặn. Tuy nhiên, đất trồng nhãn thích hợp nhất
là đất cát, cát pha, cát giồng, đất cồn và phù sa ven sông, đất có độ pH từ 5,5 6,5. Nhãn không thích hợp trên đất sét nặng. Người ta thường trồng nhãn ở các
vùng đất thấp, không trồng ở quá cao, ở vùng đồi nhất định phải tưới nước cho
nhãn thì mới ra hoa đậu quả được.
II. GIỐNG
1. Chọn giống
- Phải sử dụng giống cây trồng có nguồn gốc rõ ràng, được phép sản xuất,
kinh doanh tại Việt Nam hoặc giống địa phương đã được sản xuất, sử dụng lâu
năm không gây độc cho người. Trường hợp mua giống tại các cơ sở đã công bố
và được tiếp công bố tiêu chuẩn cây giống xuất vườn ươm.
- Cần lựa chọn giống có khả năng kháng sâu bệnh và sử dụng hạt giống,
cây giống khỏe, sạch sâu bệnh để giảm sử dụng thuốc BVTV.
- Giống chín sớm, chín vụ và chín muộn, trong đó có 2 giống là PHT 99 –
1.1 và PHM 99- 1.1 được trồng phổ biến nhất. Thông qua các đợt bình tuyển đã
lựa chọn được các cây nhãn ưu tú làm cơ sở cho việc nhân giống để trồng. Từ
các cây nhãn đầu dòng đã qua bình tuyển có khả năng sinh trưởng và phát triển
tốt, cho năng suất cao, chất lượng ổn định, cây nhanh ra quả với cơ cấu hợp lý
giữa các trà nhãn chín sớm, chính vụ và nhãn muộn để rải vụ thu hoạch và khắc
phục các yếu tố bất lợi do thời tiết gây ra.
III. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC
1. Chuẩn bị đất đai:
- Chọn vùng sản xuất:
+ Vùng sản xuất rau áp dụng theo VietGAP phải phải cách xa các khu vực
có thể gây ô nhiễm về hóa học, sinh học và vật lý (khói, bụi, chất thải, hóa chất
độc hại từ hoạt động giao thông vận tải, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề, sinh hoạt khu dân cư, bệnh viện, khu chăn nuôi, cơ sở giết mổ tập
trung, nghĩa trang …). Trước khi tiến hành sản xuất, người sản xuất phải tiến
hành đánh giá các yếu tố trên. Bao gồm hiện trạng sử dụng đất của vùng sản
xuất và vùng lân cận và lịch sử trước đó của vùng sản xuất.
+ Phải đánh giá nguy cơ gây ô nhiễm sản phẩm về hóa học và sinh học từ
các hoạt động trước đó và từ các khu vực xung quanh. Trường hợp xác định có
mối nguy phải có biện pháp ngăn ngừa và kiểm soát hiệu quả hoặc không tiến
hành sản xuất (ví dụ sử dụng thuốc BVTV trước đó không đúng chủng loại, liều
lượng, nồng độ, thuốc ngoài danh mục..., hàm lượng kim loại nặng, bón phân
cao....)
+ Đất trồng phải là đất cao, dễ thoát nước, phù hợp với quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây bơ.
+ Định kỳ hàng năm phải tiến hành lấy mẫu đất để phân tích, đánh giá
các nguy cơ về hóa học, sinh học, vật lý. Việc lấy mẫu phải do người lấy mẫu
được cấp chứng chỉ của Cục Trồng trọt – Bộ Nông nghiệp &PTNT cấp, mẫu
phải được phân tích tại các phòng thí nghiệm được chỉ định.
- Chuẩn bị đất, hố trồng, phân bón lót
+ Bộ rễ nhãn có khả năng chịu nước kém, nếu bị ngập trong thời gian dài
sẽ bị thối rễ và làm cho cây bị chết. Do đó, cần trồng nhãn trên cao, mô đất đắp
hình tròn rộng, đường kính mô đất khoảng 1m, cao 50 – 60cm. Đặc biệt, ở một
số vùng có địa hình thấp cần đào mương, lên luống. Tùy theo độ cao của vườn
mà đào mương sâu hay cạn, luống rộng hay hẹp. Thường luống có chiều rộng
8m, mương rộng 1– 2m, sâu 1m. Cần chú ý làm bờ bao quanh, cống thoát nước
cho nhãn trong mùa mưa lũ.
+ Cần đào hố với kích thước (dài x rộng x sâu) là 0,6m x 0,6m x 0,3m –
0,5m. Bón lót mỗi hố 25-50kg phân chuồng hoại mục + 0,5 kg NPK có hàm
lượng đạm và lân cao điển hình là NPK Phú Mỹ 16-16-8+13S+TE và 0,1kg vôi
bột. Hỗn hợp phân trộn đều với đất, phá thành hố sau đó cho hỗn hợp phân đất
xuống hố, đắp ụ cao so với mặt đất 50 – 60cm. Trường hợp không có phân
chuồng, có thể sử dụng phân lân vi sinh thay thế với lượng bón từ 10 – 15 kg/
hố. Đối với trường hợp trồng nhãn trên đất tận dụng (bờ mương, bờ máng…),
cần đắp mô với bề mặt lớn hơn 1,5 m2 và cao hơn mực nước lúc cao nhất là 70
cm. Các công việc trên thực hiện xong trước 10 -15 ngày trồng cây nhãn.
2. Kỹ thuật trồng1.
- Thời vụ trồng: Cây nhãn có thể trồng quanh năm, trong đó thời gian
trồng thích hợp nhất là đầu mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 6) và cuối mùa mưa
(từ tháng 10 đến tháng 11) .
- Khoảng cách, mật độ: Tuỳ thuộc vào giống cây, độ màu mỡ của đất đai,
điều kiện khí hậu cũng như khả năng thâm canh, mức độ đầu tư mà xác định
mật độ trồng và khoảng cách trồng hợp lý. Với cây nhãn, mật độ trồng thích hợp
là: 8m x 8m; 8m x 10m hoặc 10m x 10m. Để tăng hiệu quả sử dụng đất nên
trồng xen các loại cây rau màu, cây họ đậu vừa cho thu hoạch, vừa giữ ẩm và
tăng độ màu cho đất hoặc trồng thêm 1 cây vào giữa khoảng cách trên. Sau 7-10
năm, khi cây giao tán tiến hành cắt tỉa bỏ dần những cây ở giữa.
- Cách trồng: Đào hố nhỏ ở chính giữa ụ, đặt bầu vào vị tri giữa hố sao
cho mặt bầu ngang với mặt ụ, dùng dao sắc rạch và bỏ túi nilon ngoài bầu, tháo
bỏ gấy ghép quanh mắt ghép để tránh cho cây nhãn khỏi bị hiện tượng thắt và
sùi thân, vun đất và nén chặt đất xung quanh bầu, ủ 1 lớp rơm rác hoặc cỏ khô
quanh gốc, cắm cọc buộc cố định cây và tưới ngay sau khi trồng. Nếu thời tiết
quá nắng nóng, cần cắm cọc che phủ phía trên cho cây để tránh nắng, tránh
thoát hơi nước.
3. Chăm sóc:
3.1 Bón phân
- Sử dụng phân bón
+ Phải sử dụng phân bón và chất bổ sung được phép sản xuất, kinh doanh
tại Việt Nam. Nếu sử dụng phân gia súc, gia cầm làm phân bón thì phải ủ hoai
mục và kiểm soát hàm lượng kim loại nặng theo quy định.
+ Sử dụng phân bón theo nhu cầu của cây, kết quả phân tích các chất dinh
dưỡng trong đất, giá thể hoặc theo quy trình đã được khuyến cáo của cơ quan có
chức năng.
+ Phân bón và chất bổ sung phải giữ nguyên trong bao bì; nếu đổi sang
bao bì, vật chứa khác, phải ghi rõ và đầy đủ tên, hướng dẫn sử dụng, hạn sử
dụng như bao bì ban đầu.
+ Một số loại phân bón và chất bổ sung như: amoni nitrat, nitrat kali, vôi
sống phải được bảo quản tránh nguy cơ gây cháy, nó, làm tăng nhiệt độ.
+ Các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ phối trộn, bón phân… phải được vệ
sinh sau mỗi lần sử dụng và bảo dưỡng thường xuyên nhằm giảm nguy cơ gây ô
nhiễm vùng sản xuất và nguồn nước.
+ Sau từng vụ phải đánh giá nguy cơ ô nhiễm hóa học, sinh học và vật lý
do sử dụng phân bón và chất phụ gia, ghi chép và lưu trong hồ sơ sản xuất. Nếu
xác định có nguy cơ ô nhiễm trong việc sử dụng phân bón hay chất phụ gia, cần
áp dụng các biện pháp nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm.
- Lượng phân bón theo tuổi cây nhãn
* Thời gian bón: 3 – 5 lần bón/năm
Cây nhãn có yêu cầu đối với các chất dinh dưỡng ở những lượng nhất
định với những tỷ lệ nhất định giữa các chất. Thiếu hay thừa một chất dinh
dưỡng nào đó, cây sinh trưởng và phát triển kém. Các nguyên tố dinh dưỡng
không chỉ tác động trực tiếp lên cây mà còn có ảnh hưởng qua lại trong việc
phát huy hoặc hạn chế tác dụng của nhau. Vì vậy nên bón phân tổng hợp NPK
có chứa các dinh dưỡng đa, trung, vi lượng hợp lý.
- Cách bón:
+ Phân chuồng: Cuốc rãnh xung quanh tán cây sâu 20cm, rộng 30cm và
bón phân sau đó lấp đất lên, có thể bón kết hợp với đạm, lân và kali.
+ Phân đạm, lân và kali: Nên sử dụng phân bón NPK, hòa nước tưới hoặc
xới nhẹ đất, bón phân và lấp đất lại, sau khi bón phải tưới nước ẩm.
+ Nên thực hiện 4-5 lần bón chính: Sau thu hoạch, thúc hoa, giai đoạn
nuôi quả và trước khi thu hoạch.
+ Sau thu hoạch: Là giai đoạn cây cần nhiều đạm và lân để ra rễ, đâm
chồi. Cung cấp đủ đạm và lân sẽ giúp cây cho nhiều lộc, lộc mập, khỏe….Nên
bón trước hoặc sau khi tỉa cành và khi lộc thu đợt 1 đã chuyển màu xanh.
+ Trước khi xử lý ra hoa: Cần cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, giúp cây thật
sung tốt để cho cây phát hoa dài, khoẻ mạnh, dễ ra hoa, đậu trái. Cần bón phân
lân và kali, giảm phân đạm. Nếu bón thừa đạm sẽ làm cho cây ra lộc, khó ra
hoa. Khi xử lý ra hoa chỉ bón kali.
+ Giai đoạn cây nuôi quả cần nhiều đạm để giúp quả phát triển, đồng thời
cần kali để tăng cường vận chuyển dinh dưỡng nuôi quả, nâng cao năng suất,
chất lượng . Khi quả nhỏ bòn nhiều đạm, ít kali; khi quả to giảm đạm, tăng kali.
+ Trước khi thu hoạch: Khoảng 1 tháng trước khi thu hoạch bón bổ sung
kali để giúp tăng năng suất,chất lượng, sáng màu quả. Có thể phun phân kali
qua lá.
+ Cần bón theo tán cây, cách gốc từ 1-1,5 m vì rễ ở gần gốc khả năng hấp
thu dinh dưỡng kém, chi rễ tơ ở bên ngoài mới hút dinh dưỡng tốt nhất.
+ Lưu ý: không có phương pháp nào xác định chính xác nhu cầu lượng
phân bón bằng việc quan sát màu sắc lá cây:
3.2 Tưới nước:
- Nước tưới cần dựa trên nhu cầu của cây và độ ẩm của đất. Cần áp dụng
phương pháp tưới hiệu quả, tiết kiệm như: nhỏ giọt, phun sương và thường
xuyên kiểm tra hệ thống tưới nhằm hạn chế tối đa lượng nước thất thoát và rủi
ro tác động xấu đến môi trường.
- Nước tưới (gồm cả nước mặt và nước ngầm) có hàm lượng kim loại
nặng không vượt quá giới hạn tối đa cho phép. Nước sử dụng sau thu hoạch đạt
yêu cầu theo quy định về chất lượng nước sinh hoạt .
- Không được chăn thả vật nuôi gây ô nhiễm nguồn nước trong vùng
trồng. Nếu bắt buộc phải chăn nuôi thì phải có chuồng trại và có biện pháp xử lý
chất thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường nguồn nước và sản phẩm sau
khi thu hoạch.
3.3 Tạo tán: Nhằm tạo cho cây nhãn có bộ tán thấp, hình mâm xôi, thuận
lợi cho việc chăm bón, tỉa cành, phun thuốc và thu hoạch, khi cành ghép dài
chừng 30 -40 cm nên bấm ngọn để định cành cấp 1 cho cây. Khi cành cấp 1 dài
30 – 40 cm lai bấm ngọn tiếp để tạo cành cấp 2, từ đây sẽ mọc ra cành cấp 3.
Nên để 3-4 cành cấp 1; 6 -8 cành cấp 2 và 12 – 16 cành cấp 3.
Chú ý: chỉ để lại những mầm nẩy từ mắt ghép ra còn lại những mầm dưới
mắt ghép đều phải cắt bỏ hết.
IV. SÂU BỆNH HẠI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
Áp dụng Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để phòng trừ sâu bệnh
hại nhằm hạn chế tới mức thấp nhất việc sử dụng thuốc BVTV, giữ cân bằng hệ
sinh thái, đảm bảo năng suất, hạn chế ô nhiễm cho người và môi trường, đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nông sản.
1. Biện pháp canh tác kỹ thuật: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, cắt tỉa các lá
già vàng úa tiêu hủy, luân canh cây trồng khác họ, chọn giống khỏe, sức đề
kháng sâu bệnh tốt, giống có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Bón phân cân đối và
hợp lý, tăng cường sử dụng phân hữu cơ sinh học, vi sinh. Chăm sóc theo yêu
cầu sinh lý của cây (tạo cây khỏe). Kiểm tra đồng ruộng phát hiện và kịp thời có
biện pháp quản lý thích hợp đối với sâu, bệnh. Thực hiện ghi chép nhật ký đồng
ruộng
2. Biện pháp sinh học: Sử dụng các chế phẩm sinh học trừ sâu bệnh.
Hạn chế sử dụng các loại thuốc hóa học có độ độc cao để bảo vệ các loài
ong ký sinh của ruồi đục lá, các loài thiên địch bắt mồi như nhện, bọ đuôi kìm…
3. Biện pháp vật lý:
- Sử dụng bẫy màu vàng, bôi các chất bám dính: dùng nhựa thông
(Colophan) nấu trộn với nhớt xe theo tỉ lệ 4/6; bẫy Pheromone dẫn dụ côn trùng
- Dùng bẫy cào đuổi bắt ruồi vào buổi sáng sớm
4. Biện pháp hóa học: Đảm bảo đúng theo những quy định trong sản xuất
áp dụng theo ViệtGAP.
- Chỉ mua thuốc BVTV còn hạn sử dụng có tên trong Danh mục thuốc
BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam còn hiệu lực; ưu tiên lựa chọn thuốc
sinh học, thuốc thảo mộc để phòng chống; sử dụng thuốc theo nguyên tắc “4
đúng”, hoặc hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, nhà sản xuất; mua thuốc tại các cửa
hàng đủ điều kiện buôn bán thuốc BVTV.
- Khi sử dụng thuốc BVTV phải có biện pháp ngăn chặn sự phát tán sang
các ruộng xung quanh; phải có biển cảnh báo khu vực mới phun thuốc; thuốc
BVTV đã pha không dùng hết cần được thu gom và xử lý theo quy định về chất
thải nguy hại.
- Lập danh sách để mua các thuốc BVTV được phép sử dụng trên cây rau,
quả dự kiến trong sản xuất, trong đó bao gồm tên thương mại, hoạt chất, đối
tượng dịch hại.
- Thuốc BVTV phải giữ nguyên trong bao bì; nếu đổi sang bao bì, vật
chứa khác, phải ghi rõ và đầy đủ tên, hướng dẫn sử dụng, hạn sử dụng như bao
bì ban đầu. Các hóa chất không sử dụng hoặc hết hạn sử dụng phải thu gom và
xử lý theo quy định. Bảo quản theo hướng dẫn ghi trên bao bì sản phẩm hoặc
theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Trước khi sử dụng thuốc BVTV: Lựa chọn các loại bình phun xịt và vòi
phun phù hợp và xác định đúng lượng nước thuốc trên đơn vị và diện tích cần
phòng trừ; Chuẩn bị các dụng cụ đo lường để đong, đo thuốc và kiểm tra các
thiết bị phun, rải có hoạt động tốt không bằng nước sạch; kiểm tra điều kiện thời
tiết, không phun thuốc khi có gió to, trời nắng, mưa hoặc chuẩn bị mưa để hạn
chế tối đa nguy cơ gây ô nhiễm cho cây trồng và lao động ở những khu vực
xung quanh. Thời gian phun thuốc thích hợp nhất là lúc sáng sớm hoặc chiều
mát;
- Người phun, rải thuốc phải mang đầy đủ các thiết bị bảo vệ cá nhân:
quần áo bảo hộ dài tay, găng tay, ủng, mũ, khẩu trang bảo vệ mũi, miệng.
- Sau khi sử dụng thuốc, người sử dụng thuốc BVTV phải: Cắm biển báo
tại các khu vực mới phun, rải thuốc BVTV. Thu gom, xử lý bao gói thuốc
BVTV đúng quy định. Rửa sạch các dụng cụ phun, rải thuốc ở khu vực cách xa
nguồn nước, nước vệ sinh cần đổ ở nơi an toàn; các loại thuốc chưa sử dụng
phải bảo quản trong kho và đảm bảo còn nguyên vỏ bao bì gốc hoặc ghi đầy đủ
thông tin về thuốc.
1. Sâu hại và biện pháp phòng trừ
1.1. Sâu đục gân lá: Conopomorpha cramenella Snellen.
a. Triệu chứng và tác hại:
Triệu chứng biểu hiện rõ nhất khi lá chuyển sang màu xanh, trông lá
giống như bị cháy khô ở phần chóp, làm chậm sự tăng trưởng của cây và ảnh
hưởng rất lớn đến năng suất.
Sâu thường đục vào gân giữa của lá làm cho phiến lá biến dạng hoặc bị
khô trông giống như lá bị bệnh cháy lá.
b. Đặc điểm hình thái và sinh học:
Bướm nhỏ, sải cánh rộng từ 8-10 mm, cánh màu nâu xám, gốc cánh trước
có một vệt lớn màu vàng, bìa cánh trước và cánh sau có hàng lông dài và mịn
màu đen. Râu đầu rất dài. Hai chân trước màu trắng xám rất dài nên khi đậu đầu
cất cao hơn Sâu nhỏ, kích thước từ 4-6 mm, mình sâu có màu xanh nhạt. Đốt
bụng rất dài và có nhiều lông, dưới chân bụng có những móc câu. Nhộng rất
nhỏ, lúc đầu có màu xanh nhạt, dần dần chuyển vàng nâu khi sắp vũ hóa,
Thời gian phát triển của ấu trùng khoảng 10 ngày, thời gian nhộng từ 6-8
ngày. Bướm cái đẻ trứng vào các lá non vào ban đêm ở phần gân chính của lá
khi lá còn rất non, vẫn còn màu đỏ. Sâu non nở ra đục lòn vào bên trong gân lá.
Sâu thường gây hại nặng vào các đợt ra lá non vào các tháng 8 và 9 dương lịch.
Đến tuổi trưởng thành sâu thường chui ra mặt dưới các lá bị hại hoặc lá lân cận,
kéo một lớp màng mỏng màu trắng và hoá nhộng trong đó.
c. Biện pháp phòng trừ: Áp dụng các loại thuốc có tính thấm sâu hay lưu
dẫn khi đọt non vừa nhú ra, có thể dùng các loại thuốc sau các loại thuốc có gốc
Marshal 200SC, Padan 95SP....pha theo nồng độ hướng dẫn để phun.
1.2. Sâu đục trái: Conogethes punctiferalis Guenée
a. Triệu chứng và tác hại:Khi đang còn ở bên ngoài sâu thường nhả tơ kết
dính các trái non lại. Giai đoạn trái lớn sâu đục vào ăn hạt làm phân đùn ra
ngoài. Trái bị đục còn non thì sẽ bị rụng, trái già thì làm trái bị hư, kém phẩm
chất.
b. Đặc điểm hình thái và sinh học:
Bướm có chiều rộng sải cánh từ 2,5-3 cm, cánh màu vàng, có nhiều chấm
nhỏ màu đen. Sâu non màu trắng hơi ửng hồng, trên lưng có nhiều chấm nhỏ
màu đen, sâu lớn đủ sức dài từ 1,7-2 cm. Nhộng lúc đầu có màu vàng hơi nâu,
dần dần chuyển sang nâu đen khi sắp vũ hóa. Kích thước nhộng từ 1,2-1,4 cm .
Trưởng thành hoạt động chủ yếu vào ban đêm, thường đẻ trứng ở các lá
đài của chóp trái hoặc nơi dính giữa trái và lá. Sâu có thể đục trái từ khi trái còn
nhỏ đến lúc gần thu hoạch. Sâu thường đục vào bên trong trái ăn cả phần hột.
Sâu hóa nhộng bằng cách kết tơ gần cuống trái hoặc bên trong phần hột đã bị
đục.
c. Biện pháp phòng trừ:
- Dùng biện pháp bao trái: Dùng túi ni lon hoặc túi vải lớn để bao bọc cả
chùm trái cho đến khi thu hoạch.
- Sử dụng thuốc khi tỷ lệ quả bị đục từ 5-10%, dùng các loại thuốc sau:
Marshal 200SC, Padan 95SP, Lorsban40EC, Cyperan 25EC,.... Sử dụng theo
nồng độ khuyến cáo.
1.3. Bọ xít năm cạnh: Tessaratoma papillosa (Drury)
a. Triệu chứng và tác hại: Cả ấu trùng và trưởng thành đều chích hút đọt
non, cuống hoa và trái làm trái bị rụng, hoa bị khô. Trên trái non làm cho trái bi
sượng và trên trái chín sẽ gây thối trái và rụng
b. Đặc điểm hình thái và sinh học: Trưởng thành là loài bọ xít lớn, dài từ
25-28 mm và ngang từ 13-18 mm, thân hình lục giác, màu nâu vàng, chân và
râu trung bình. Kim chích dài xếp ở dưới ngực và kéo dài đến giữa đôi chân sau.
Bọ xít chúng tiết ra mùi hôi rất khó chịu khi bị khua động và có thể gây
phỏng da nếu tiếp xúc. Trưởng thành cái đẻ trứng thành từng hàng màu nâu trên
lá hoặc đọt non. Âu trùng nở ra sống theo bầy đàn tập trung và chích hút nhựa
trên các phần non của cây. Loài này chuyên tấn công nhãn, trái vải và đôi khi
chôm chôm.
c. Biện pháp phòng trừ:
Dùng thuốc vào lúc cây ra chồi non, ra hoa và quả còn non. Loài này rất
khó trị vì bay rất nhanh và cơ thể to, khoẻ nên rất khó trị, mật độ cao thì phải
tiến hành sử lý thuốc ngay, dùng các loại thuốc sau: Butal 25EC; Excel Basa
50ND, Actara 25WG, Legend 800WP…. Chú ý cần phun kép 2 lần cách nhau
5- 7 ngày mới đạt hiệu quả cao, pha theo nồng độ khuyến cáo .
2. Bệnh hại nhãn và biện pháp phòng trừ
2.1. Bệnh thối nhũn trái: Do nấm Phytophthora sp
a. Triệu chứng và tác hại:
Bệnh gây hại ở những chùm nhãn bên dưới gần mặt đất, hoặc trong tán
cây. Bệnh tấn công từ bên dưới của trái, sau đó lan dần lên và trái rụng khi vết
bệnh chiếm khoảng 1/3 trái. Vết bệnh đầu tiên có màu hơi sậm như nhũn nước,
sau đó có màu đen xám (đất), ấn nhẹ vào vùng bệnh vỏ trái mền nhũn và bể
nước chảy ra có mùi chua đặc trưng.
b. Điều kiện phát sinh bệnh: Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa,
hoặc trong những ngày có mưa dầm; sương mù nhiều, thiếu nắng. Bệnh gây hại
trên nhãn long, nhãn da bò, đặc biệt gây hại rất nặng trên nhãn xuồng cơm
trắng.
c. Biện pháp phòng trừ:
Vệ sinh vườn, cắt tỉa cành bên dưới tạo sự thông thoáng trong vườn.
Bệnh thường gây hại trên cành non. Dùng cây chống đỡ các chùm nhãn gần mặt
đất.
Phun thuốc khi bệnh gây hại: Riomill MZ 72 WP, Aliette 80Wp…., nếu
bệnh nặng phun kép cách nhau từ 7-10, pha thuốc theo nồng độ khuyến cáo.
2.2. Bệnh thối gốc: (Tương tự bệnh thối gốc chảy nhựa ở trên cam,
chanh)
2.3. Bệnh đốm rong: Do tảo Cephaleuros virescenns
a. Triệu chứng và tác hại: Bệnh gây hại đầu tiên ở mặt dưới của lá, lúc
đầu là những chấm nhỏ màu xanh, sau đó lớn dần có hình tròn hoặc bầu dục,
trên vết bệnh có lớp tơ mịn như nhung màu xanh rêu, giữa vết bệnh có màu đỏ
gạch. Ngay vết bệnh ở mặt trên lá có viền màu đen, dày, tâm vết bệnh màu trắng
xám..
b. Điều kiện phát sinh của bệnh: Bệnh phát sinh vào lúc thời tiết mưa
ẩm, vườn trồng dày, thiếu chăm sóc.
c. Biện pháp phòng trừ: Không trồng dày, nên xén tỉa cành tạo tán, tạo
điều kiện thông thoáng cho vườn. Cắt bỏ các cành vô hiệu và các lá già bên
dưới. Bón phân cân đối và đầy đủ cho cây, không nên phun phân bón lá định kỳ.
Phun thuốc khi cây bị bệnh nặng: Dùng các loại thuốc có gốc đồng (Champion
77WP, COC 85 WP....)
V. THU HOẠCH, BẢO QUẢN
- Thu hoạch sản phẩm phải đảm bảo thời gian cách ly đối với thuốc
BVTV theo quy định hiện hành hoặc hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Cần thu hoạch vào thời điểm sản phẩm có chất lượng tốt nhất: Phải thu
hoạch đúng độ chín, không nên để trái chín quá lâu trên cây vì phẩm chất sẽ
giảm và không bảo quản được lâu. Thu trái vào những ngày nắng ráo, nêu thu
hái vào buổi sáng hoặc buổi chiều khi trời đã dịu nắng, tránh thu hái vào buổi
trưa nắng nóng.
- Trong thời gian thu hoạch: Phải kiểm soát tránh sự xâm nhập của động
vật vào khu vực sản xuất, nhà sơ chế và bảo quản sản phẩm. Trường hợp sử
dụng bẫy, bả để kiểm soát động vật cần đặt tại những vị trí ít có nguy cơ gây ô
nhiễm cho sản phẩm.
- Nơi bảo quản sản phẩm phải sạch sẽ, ít có nguy cơ ô nhiễm sản phẩm.
Trường hợp sử dụng các chất bảo quản chỉ sử dụng các chất được phép sử dụng
theo quy định hiện hành.
- Muốn bảo quản trái nhãn được lâu, giữ được ngoại hình đẹp, phẩm chất
tươi ngon, phải chú ý ngay từ khi chưa thu hoạch trái, trước khi thu hoạch phải
luôn đảm bảo đủ nước và phân bón cho cây, không nên bón quá nhiều phân
đạm, tăng cường thêm phân lân, kali, ngừng tưới nước trước khi thu hoạch
khoảng 1 tuần. Để hạn chế một số nấm bệnh tiếp tục tấn công trái sau thu hái,
nên dùng thuốc trừ bệnh Benlate pha với nồng độ 0,1%, nhúng cả chùm trái vào
rồi vớt ra, hong nơi thoáng mát cho khô, sau đó để vào sọt, thùng giấy…