Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề cương ôn tập Triết học- Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.26 KB, 19 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn?
a) Khái niệm:
- Vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ ốc của con người một cách
năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
b) MQHBC giữa VC và YT: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất có trước, ý
thức có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện:
+ Vật chất là là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật
chất như thế nào thì tư tưởng hình thành như thế ấy. Vật chất phát triển tới đâu thì ý thức
phát triển tới đó. Khi hiện thực vật chất, cơ sở vật chất có sự thay đổi đổi thì ý thức, tư tưởng
cũng thay đổi theo.
 Tóm lại, vật chất quyết định cả nguồn gốc, nội dung, bản chất và khuynh hướng
vận động, phát triển của ý thức. Vật chất còn là điều kiện, môi trường để hiện thực hóa ý
thức, tư tưởng.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
+ Ý thức phản ánh hiện thực khách quan, giúp con người có tri thức về thế giới,
hiểu được bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật hiện tượng, từ đó giúp con
người hình thành mục tiêu, phương hướng và biện pháp tác động, cải tạo thế giới.Vì ý thức
có sự tác động trở lên vật chất, nên trong hoạt động thực tiễn phải luông không ngừng nâng
cao nhận thức, nổ lực học tập, tránh bệnh chủ quan duy ý chí
+ Mặc dù được hình thành từ điều kiện vật chất nhưng ý thức co vai trò quan trọng đối
với hiện thực khách quan: nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, nó sẽ định hướng
đúng cho hoạt động thực tiễn của con người, giúp con người thành công; ngược lại, nếu ý
thức phản ánh sai lệch hiện thực thì nó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn của con
người: con người hành động sai, phản quy luật, thất bại, gây hậu quả nghiêm trọng.


c) YNPPL trong hoạt động thực tiễn:
- Khi thừa nhận vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức nên trong hoạt động
thực tiễn, con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng hiện thực khách quan và
qui luật khách quan để nhận thức và giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra, tránh chủ
quan, duy ý chí, duy lý tưởng.
- Nhưng ý thức cũng có sự tác động trở lại đối với vật chất, do đó trong hoạt động thực tiễn
phải luôn tăng cường tính tích cực của ý thức, không ngừng tìm tòi học hỏi, nâng cao nhận


thức các quy luật khách quan và vận dung chúng vào hoạt động của mình. Trong nhận thức
và hành động phải phát huy tính năng động chủ quan của ý thức.
Câu 2: Hai nguyên lý cơ bản của phép BCDV

 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Định nghĩa:
- Quan điểm DVBC khẳng định: các sự vật, hiện tượng dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu thì chúng cũng không thể tồn tại biệt lập, tách rời mà tồn tại trong sự tác
động qua lại, chuyển quá lẫn nhau theo những mối liên hệ xác định.
- Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau
làm điều kiện, tiền đề cho nhau của mọi sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật,
một hiện tượng trong thế giới.
b) Tính chất:
- Tính khách quan: mỗi sự vật hiện tượng đều chịu sự tác động hàng ngày, ngày giờ của các
sự vật hiện tượng khác không phụ thuộc ý chí con người có muốn hay không  mối liên hệ
tồn tại độc lập, khách quan.
- Tính phổ biến: bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Và
mối liên hệ này xãy ra trong mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh từ thiên nhiên, xã hội đến tư duy
con người…
- Tính đa dạng, phong phú: sự đa dạng, phong phú trong quá trình tồn tại,vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Trong thế giới khách quan

tồn tại rất nhiều “cặp mối liên hệ” khác nhau tùy theo cách phân chia: MLH tất nhiên - ngẫu
nhiên, MLH chủ yếu - thứ yếu, MLH trực tiếp - gián tiếp… Ngay cả trong một sự vật cũng
có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ.
c) Ý nghĩa PPL: trong hoạt động và nhận thức phải xuất phát từ quan điểm toàn diện và lịch
sử cụ thể:
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật phải đặt trong mối liên hệ
qua lại giữa các mặt của sự vật đó và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Từ đó, khái quát để rút ra kết luận về bản chất chi phối sự vận động và phát triển của
sự vật đó.
 tuy nhiên, cần tránh xem xét dàn trải các mối liên hệ,phải xem xét có trọng tâm,
trọng điểm, đánh giá đúng vị trí,vai trò của từng mối liên hệ  tìm ra mối liên hệ cơ bản,
chủ yếu quy định khuynh hướng vận động của sự vật.
- Quan điểm lịch sử cụ thể: đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật phải chú ý đúng mức
đến hoàn cảnh lịch sử, đến điều kiện không gian thời gian làm nảy sinh sự vật đó. Bởi chỉ
khi chúng ta nắm bắt được hoàn cảnh ra đời, điều kiện tồn tại thì chúng ta mới có thể xác lập
những phương pháp cụ thể, phù hợp với từng đối tượng đểcải tạo có hiệu quả đối tượng đó.

 Nguyên lý về sự phát triển


a) Định nghĩa:
- Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của SVHT trong thế giới.
b) Tính chất:
- Tính khách quan: sự phát triển của sự vật có nguồn gốc từ trong bản thân sự vật đó.Vì
thế,sự phát triển là một tiến trình khách quan, không phụ thuộc ý chí, nguyện vọng của con
người.Dù con người có muốn hay không thì sự vật vẫn luôh phát triển theo khuynh hướng
chung của thế giới VC.
- Tính phổ biến: quá trình phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy, ở bất cứ
SVHT nào trong TGKQ.

- Tính đa dạng, phức tạp: mỗi SVHT có quá trình phát triển không giống nhau. Ở những
không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì sự phát triển của SVHT cũng khác nhau. Sự
phát triển có thể diễn ra dần dần, cũng có thể nhảy vọt, rất quanh co phức tạp, thậm chí có
những bước lùi tạm thời.
- Sự thay đổi về chất: CNDVBC cho rằng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi
dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình này diễn ra theo đường xoáy trôn
ốc,nghĩa là trong quá trình phát triển, dường như có thời điểm sự vật quay trở về điểm khởi
đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
- Nguồn gốc sự phát triển nằm trong bản thân SVHT: CNDVBC khẳng định quá trình phát
triển của SVHT thực chất là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn phát sinh trong
bản thân SVHT đó, nói cách khác đây là quá trình tự thân của mọi SVHT.
- Sự phát triển mang tính kế thừa
c) Ý nghĩa PPL:
- Trong nhận thức và hành động phải xem xét đối tượng trong trạng thái vận động và phát
triển, tìm ra xu hướng biến đổi và chuyển hóa của chúng.
- Nắm bắt được khuynh hướng phát triển tương lai của đối tượng, chỉ ra được cái mới đang
nãy sinh từ cái cũ khẳng định sự tất thắng của cái mới và tính tạm thời của cái cũ.
- Cổ vũ, tạo điều kiện cho cái mới phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, e sợ cái mới.
Câu 3: Quy luật QHSX phù hợp với LLSX
a) Các khái niệm:
- PTSX: PTSX là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất. Trong cách thức
đó, con người vừa có quan hệ với tự nhiên (tức là LLSX), vừa có quan hệ với chính con
người (tức là QHSX). Do đó, PTSX chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất
định và QHSX tương ứng.
- LLSX:

 Là (biểu hiện) mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.


 LLSX bao gồm: người lao động (với kỹ năng lao động của mình) và tư liệu lao

động (mà trước hết là công cụ lao động)  trong quá trình sản xuất, sức lao động của con
người kết hợp với công cụ lao động tạo thành LLSX.
 Có thể nói, LLSX là sự thống nhất giữa con người và tư liệu lao động, trong đó
con người là yếu tố quyết định.
- QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, gồm 3 mặt: QHSH về
TLSX, quan hệ về tổ chức - quản lý sản phẩm và quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
 3 mặt này thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định, trong đó
QHSH về TLSX là quan hệ cơ bản,đặc trưng cho QHSX của từng xã hội.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
- LLSX và QHSX là 2 mặt của PTSX, chúng tồn tại song song, tác động qua lại một cách
biện chứng tạo thành quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX,
trong đó LLSX quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của QHSX.
- Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó

 Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển bắt nguồn từ
sự phát triển của LLSX.
 Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp
bỗng trở thành xiềng xích, kìm hãm LLSX  yêu cầu khách quan của xã hội là phải thay thế
QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX
tiếp tục phát triển.
 Để đảm bảo sự phù hợp giữa QHSX và LLSX thì trình độ và tính chất của LLSX
như thế nào thì của QHSX mới phải có trình độ và tính chất tương tự.
- Khi LLSX thay đổi dẫn đến sự xuất hiện của PTSX mới thì QHSX tất yếu cũng phải thay
đổi theo.Ví dụ:
- Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:

 QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến hệ thống tổ chức, quản lý và
phân công lao động xã hội cũng như ảnh hưởng phương thức phân phối của cải vật chất 
qua đó, tác động đến sự phát triển của LLSX.
 Sự tác động đó diễn ra theo 2 chiều hướng: nếu QHSX phù hợp với LLSX thì sẽ

tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và TLSX, qua đó thúc
đẩy QHSX phát triển. Ngược lại QHSX sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của LLSX.
c) Ý nghĩa:
- Là quy luật cơ bản và phổ biến nhất trong sự vận động và phát triển của XH, tác động lên
toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
- Liên hệ thực tiễn:

 Là cơ sở cho quá trình xây dựng chế độ sở hữu đa dạng phù hợp với nền KT nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay.


 Sự tác động ngược trở lại của QHSX là cơ sở lý luận cho chức năng quản lý, điều
tiết nền KT của NN. Phát huy vai trò của QHSX đối với LLSX chính là phát huy vai trò của
NN trong nền KTTT hiện nay.
 Là cơ sở lý luận của mô hình KT nhiều thành phần.
/>Từ một nền nông
thực tế chỉ rõ, lực
hậu, mà ngay khi
với
trình

nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, nước ta đi lên CNXH. Kinh nghiệm
lượng sản xuất bị kiềm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc
quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so
độ
phát
triển
của
lực
lượng

sản
xuất.

Thực tế lực lượng sản xuất nước ta còn thấp kém lại phát triển không đồng đều, cho nên cần
phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến
quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của
CNXH. Từng bước xã hội hóa XHCN, quá trình đó không phải bằng gò ép, mà được thực hiện
từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản
nhà nước, các hình thức hợp tác,… để dần dần hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, trong
đó, kinh tế nhà nước và tập thể đóng vai trò là nền tảng. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì
của xã hội cũ không còn phù hợp, thực hiện chủ trương chuyển hóa cái cũ thành cái mới
theo định hướng XHCN

Câu 4: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, mỗi xã hội, có những quan hệ hết sức đa
dạng, phong phú, luôn vận động và biến đổi. Song những quan hệ đó, tựu trung lại là những
mối quan hệ vật chất cơ bản và những quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội. Những quan
hệ đó thể hiện ở quan hệ của cơ sở hạ tần và kiến trúc thượng tầng, trong đó cơ sở hạ tầng
giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
a) Khái niệm:
Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng
của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu
cho xã hội ấy. Xét về kết cấu, cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều quan hệ sản xuất nưng chủ yếu
có 3 quan hệ sản xuất gồm: quan hệ sản xuất cũ là quan hệ sản xuất của xã hội trước đó còn
tồn tại trong thành phần kinh tế trong cơ sở hạ tầng; quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ
sản xuất giữ vai trò quyết định trong cơ sở hạ tầng; mầm mống của một quan hệ sản xuất
mới có định hướng cho sự phát triển của cõ ở hạ tầng. (Ở VN là quan hệ sản xuất cộng sản

chủ nghĩa)
Kiến trúc thượng tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật … cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình thành trên cơ
sở hạ tầng nhất định.
Vì vậy, xét về kết cấu, kiến trúc thượng tầng bao gồm nhiều hiện tượng khác nhau
nhưng về cơ bản có tư tưởng xã hội và thiết chế xã hội cho nên kết cấu kiến trúc thượng tầng
vừa phản ánh về mặt tinh thần, vừa phản ánh mặt vật chất của xã hội.


Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm, quy luật riêng, những liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau, đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng và có liên hệ
khác nhau với cơ sở hạ tầng.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt đối lập của đời sống, chúng thống
nhất biện chứng với nhau. Mối quan hệ của chúng thể hiện như sau:
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó, tính
chất của kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quy định. Quan hệ sản xuất nào giữ địa vị
thống trị sẽ tại ra kiến trúc thượng tầng tương ứng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
thống trị về mặt kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về chính trị và toàn bộ đời sống kinh
tế xã hội. Nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng sớm muộn gì cũng thay đổi,
quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này sang
hình thái kinh tế xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế xã
hội. Khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất
hiện. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay dổi của kiến trúc thượng tầng là quá
trình diễn ra hết sức phức tạp.
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với
toàn bộ kiến trúc thượng tầng nhưng kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó

đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh
mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
+ Kiến trúc thượng tầng sau khi ra đời có chức năng bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ
sở hạ tầng, trong các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng thì đảng, hệ tư tưởng chính trị,
nhà nước, pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tác động trở lại đối với cơ sở
hạ tầng.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ta theo hai chiều hướng,
nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kìm hãm
sự phát triển xã hội.
c) Ý nghĩa và thực tiễn:
- Đặc điểm hình thành, phát triển của cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng XHCN:
kiến trúc thượng tầng XHCN có một bộ phận lại xuất hiện trước cơ sở hạ tầng đặc biệt là
nhà nước XHCN và sau đó nó phụ thuộc vào sự quyết định của cơ sở hạ tầng XHCN bởi
thành phần kinh tế XHCN không xuất hiện một cách tự phát trog xã hội trước đó vì bản chất
của nó là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất của giai cấp công nhân.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XHCN: về cơ
bản bao hàm sự thống nhất về kinh tế, chính trị bởi nó đều trên cơ sở sở hữu công cộng về
mặt tư liệu sản xuất, có khả năng bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân.


- Cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong thời kì quá độ hiện nay bao gồm sự đa dạng hóa các
thành phần kinh tế: nhà nước, hợp tác, tư bản nhà nước, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Đó là các
kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau,
cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thông nhất. Đó là nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành trong cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua sự quản
lí của nhà nước và dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam.
Do có sự không đồng nhất về bản chất kinh tế, nên có nhiều quy luật kinh tế cùng tác
động. Đó là hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, hệ thống quy luật sản xuất xã hội chủ nghĩa, hệ thống quy luật kinh tế của

nền sản xuất hàng hoa nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Kiến trúc thượng tầng của Việt Nam hiện nay; trước hết là sự khẳng định vai trò của hệ tư
tưởng Mác Lênin và tư tưởng HCM trong đời sống tinh thần của người VN hiện nay, nó
đóng vai trò chủ đạo và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và cách mạng Việt Nam.
Điều đó thể hiện ở việc xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp
công nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhà nước quản lí; là nhà nước của dân, do dân, vì
dân, quyền lực nhà nước thuộc về tay nhân dân; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các thiết chế và các lực
lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa hoạt động vì mục tiêu chung,
một lợi ích chung.
- Sự thống nhất và mâu thuẫn:
- Nguyên nhân và định hướng giải pháp
Nắm vững được mối quan hệ trên, đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm kết hợp với từng bước đổi mới về chính trị( thực hiện cơ chế
thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đậi hóa đất nước; hoàn thiện
hệ thống chính trị)
. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất và thống nhất. Vì cơ
sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập
nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản
xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột .
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự
thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới: của dân do dân và vì
dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa
học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để,
là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc
trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan



xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng
và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu
dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa. Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế
lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, đi lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa )
chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá
độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu
khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất , chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các
biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm
từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển
mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
cơ sở kinh tế hợp lý.
Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ “phải tập chung nguồn vốn đầu
tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã
được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng,
thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế ”. Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ:”Tư nay tới cuối thập
kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình
là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm
thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh
đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về nhân


dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của
mọi cá nhân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo
thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực
hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa
chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng
tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

3. Một số kiến nghị
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần
vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là
kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh , tập thể và nhiều thành phần
kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu
của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp trong quá
trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú, được phản
chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi
khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như
vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng

Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp. Điều quan trọng trước
hết là cần sớm hình thành và thống nhất những quan điểm sử lý thiết yếu.
Thứ nhất:
Cần một phương pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách “cháy đâu chữa đấy” từ đó
tìm ra nguyên nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận chứng có tính khả thi.
Thứ hai: Cần theo dõi chặt chẽ, khai thác sàng lọc và sử lý các loại tín hiệu của nền kinh tế một cách kịp
thời trên cơ sở chủ chương chính sách thích hợp khuyến khích các hoạt động kinh tế lành mạnh . đồng thời
phải xây dựng một cơ chế điều hành kinh tế cho phép thâu lượm đánh giá, sử lý kịp thời mọi tín hiệu kinh
tế trong phạm vi cả nước.
Thứ ba: Hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành tài chính quốc
gia từ trung ương đến từng người sản xuất.

Câu 5: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội?


a) Khái niệm:
- Hình thái kinh tế - xã hội: là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
b) Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội:
- Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp bao gồm các
mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của
hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
+ Quan hệ sản xuất phản ánh bản chất xã hội của một hình thái kinh tế xã hội nhất
định, được coi là nguồn gốc xây dựng cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế xã hội nhất
định; được coi là quan hệ cơ bản để xác định sự giống và khác nhau của các hình thái kinh tế
- xã hội.
+ Lực lượng sản xuất được coi là nền tảng vật chất kỹ thuật của một hình thái kinh tế
xã hội nhất định, là tiêu chuẩn phản ánh trình độ vật chất của một hình thái kinh tế xã hội.

+ Kiến trúc thượng tầng được coi là công cụ, phương tiện về vật chất, tinh thần của
một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Nó phản ánh tính toàn vẹn về mặt kinh tế - chính trị,
văn hóa xã hội của một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
- Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên tuân
theo các quy luật chung và phổ biến của xã hội.
+ Một là, Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quan hệ cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội. Lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất thống nhất thành phương thức sản xuất và tạo thành nền tảng vật chất của hình thái
kinh tế xã hôi. Mối quan hệ này khẳng định lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử phát triển
của các phương thức sản xuất khác nhau theo tiến tình từ thấp tới cao.
+ Hai là, Quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, khẳng định lịch
sử phát triển của xã hội là lịch sử phát triển các nền kinh tế, chính trị,văn hóa và xã hội đặc
biệt là lịch sử hình thành các kiểu nhà nước, hệ thống chính trị hay các thời đại khác nhau.
Đây mối quan hệ cơ bản để xác định diện mạo của các hình thái kinh tế - xã hội.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động phát triển của xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của lực
lực lượng sản xuất, các yếu tố về điều kiện địa lý, đặc điểm giai cấp, tầng lớp xã hội... của
mỗi cộng đồng người và tình hình kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng có sự tác động
đến sự phát triển của xã hội cụ thể. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là sự phát
triển thống nhất trong đa dạng.
- Như vậy quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội có nghĩa là con người
làm ra lịch sử của mình trên cơ sở tuân thủ những quy luật khách quan, đó là sự thống nhất
giữa cái chủ quan và cái khách quan
c) Ý nghĩa và giá trị của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội:


- Với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã cho thấy động lực
phát triển của lịch sử ko phải do một lực lượng thần bí nào mà là do chính hoạt động thực
tiễn của con người dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
+Thứ nhất, khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát
triển của xã hội đó là sự khẳng định lịch sử phát triển xã hội là lịch sử phát triển các phương

thức sản xuất khác nhau, các nền kinh tế chính trị, văn hóa xã hội khác nhau.
+Thứ hai, nó khẳng định lịch sử phát triển các hình thái kinh tế xã hội là tiến trình
lịch sử tự nhiên phụ thuộc quy luật khách quan vốn có nhưng nó phụ thuộc những điều kiện
lịch sử cụ thể khác nhau khi vận dụng học thuyết này. Xét cho cùng nó vẫn phụ thuộc các
quy luật khách quan.
- Học thuyết này là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, nhấn mạnh đến
tính thứ nhất của tồn tại xã hội, khắc phục được quan điểm duy tâm và duy vật siêu hình về
xã hội.
----------------------------------------------

ÔN TẬP TƯ TƯỞNG HCM

Câu 1: Cơ sở hình thành và quá trình xác lập mô hình Nhà nước ở VN theo quan điểm
Hồ Chí Minh.
a) Cơ sở hình thành
- Cơ sở lý luận:
+ Kế thừa Văn hóa chính trị của Việt Nam trong lịch sử ở các bộ sử lớn như: Đại
Việt sử ký toàn thư, Lịch triều Hiến chương loại chí, Bộ luật Hình thư (Lý), Bộ luật Hồng
Đức (hậu Lê)  Đây là cơ sở Văn hóa - chính trị đầu tiển của HCM.
+ Học hỏi các giá trị Văn hóa của loài người:
+ Tiếp thu có chọn lọc và phát triển tinh hoa Văn hóa phương Đông trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền, đặc biệt là triết lý “đức trị” của Nho gia, tư tưởng “Pháp trị” của trường
phái Pháp gia.
+ Tiếp thu tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp: Rút xô (khế ước xã hội),
Montexkiơ(Tinh thần pháp luật) và sau khi đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh
quán triệt, vận dụng sáng tạo học thuyết về Nhà nước vô sản trong xây dựng Nhà nước văn
minh mới.
- Cơ sở thực tiễn và sự khảo nghiệm:
+ Nghiên cứu các kiểu mô hình của Nhà nước Phong kiến, Nhà nước của Chủ nghĩa
Thực dân, HCM đưa đến khẳng định: mô hình này không thể mang lại quyền lợi cho nhân

dân vì ở đó các quyền con người bị chà đạp nghiêm trọng. Từ đó HCM quyết định không
lựa chọn các mô hình Nhà nước trên.


+ Sự khảo nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như: CMTS Mỹ,
CMTS Pháp, HCM đi đến kết luận các cuộc cách mạng trên chưa đến nơi, chưa triệt để.
+ Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 thành công, xây dựng Nhà nước vô sản đầu
tiên trên thế giới đã mở ra ánh sáng trong HCM trong việc lựa chọn mô hình Nhà nước,
Người quyết định chọn mô hình này áp dụng cho VN vì đây là cuộc cách mạng triệt để, ở
đó quyền lợi của nhân dân được bảo đảm HCM quyết định chọn mô hình này.
b) Quá trình xác lập Nhà nước kiểu mới ở VN
- Lúc đầu HCM đưa ra mô hình Nhà nước theo kiểu công - nông - binh, sau đó được thay
thế bằng mô hình Nhà nước Dân chủ Cộng hòa.
- CMT8 năm 1945 thành công, Nhà nước dân chủ đầu tiến bộ đầu tiên ra đời ở Đông Nam
Á đã đặt nền móng cho việc xây dựng 1 Nhà nước.
I. Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
1. Nghiên cứu lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Nhà nước
trong lịch sử Việt Nam.
- Tư tưởng xây dựng Nhà nước Việt Nam được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc: Đại Việt
sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí...; trong những bộ luật nổi tiến như Bộ luật Hồng
Đức (đời Lê)....Các bộ luật sách nói trên phản ánh những tư tưởng pháp quyền.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc lịch sử Việt Nam, Người viết Việt Nam quốc sử diễn ca để giáo
dục và vận động nhân dân, trong đó có nói đến các triểu đại Việt Nam trong lịch sử.
2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
- Nhà nước thực dân phong kiến.
+ Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vô nhân đạo, chỉ rõ bản chất cái gọi là “công lý” mà thực dân,
đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”.
+ Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi các
quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng
khít quyền tự quyết của dân tộc với quyền tư do, dân chủ của nhân dân.

- Nhà nước dân chủ tư sản.
Người coi Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm của “những cuộc cách mạng không đến nơi”, vì
ở đó chính quyền vẫn trong tay một số ít người - một xã hội bất bình đẳng.
- Nhà nước Xô viết.
Người gọi Nhà nước Xôviết là kết quả của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 - cuộc cách
mạng “đến nơi”, đã “phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền... ra sức tổ chức
kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”(1).


- Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề Nhà nước trong chủ nghĩa Mác – Lênin.

Câu 2: Quan niệm HCM về bản chất của Nhà nước (sự thống nhất giữa tính nhân dân và
tính dân tộc)

 Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
a) Nhà nước do ĐCS lãnh đạo:
- ĐCSVN lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân
+ Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước đã được HP 1959 quy
định “NN của ta là NN dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công - nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”.
+ HCM nhấn mạnh, NN là của toàn thể nhân dân lao động làm chủ, thể hiện tính
nhân dân rộng rãi nhưng vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa công nông – trí, đội tiên phong nó là ĐCS lãnh đạo.
- Đảng lãnh đạo bằng phương thức thích hợp:
+ Đảng lãnh đạo băng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa
thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo NN bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình
trong bộ máy, cơ quan NN.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra.
b) Bản chất giai cấp công nhân của NN ta thể hiện ở tính định hướng XHCN của sự phát
triển đất nước: tính chất này thể hiện trong quan điểm của HCM ngay từ khi nước

VNDCCH ra đời
c) Bản chất giai cấp công nhân của NN ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ
bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ:
- Tập trung: NN phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả quyền lực vào tay nhân dân.
- Dân chủ: HCM rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan NN, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ (ví dụ:bầu cử).

 Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của NN
a) NN ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ
người VN
- Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, dân tộc VN rơi vào con đường khủng hoảng đường lối CM.
Các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp diễn ra rất oanh liệt, truyền thống yêu nước như
ngọn nửa rực lên một goc trời, giáng một đòn nặng nề vào kẻ thù, tuy nhiên độc lập dân tộc
vẫn chưa trở thành hiện thực (ví dụ: Khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, Yên Thế, Phong trào
Cần Vương, Phong trào bạo động của Phan Bội Châu, Phong trào chống Nhật của Phan
Châu Trinh) Bế tắc, khủng hoảng về đường lối lãnh đạo.


- 3/2/1930, ĐCSVN ra đời, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đôiị tiên phong của nó
là ĐCSVN đã chèo lái con thuyền CM đưa VN vượt qua khó khăn, thử thách làm nên thắng
lợi của CMT8 1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước VNDCCH – NN dân
chủ nhân dân đầu tiên ở ĐNÁ.
b) NN ta bảo vệ lợi ích nhân dân, lấy lợi ích dân tộc làm cơ bản
- HCM khẳng định:lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn
dân tộc là 1. NN ta ko chỉ thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của
nhân dân và của toàn dân tộc.
- Trong thực tế, NN đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân
ta tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, tự do của tổ quốc, xây
dựng 1 Nhà nướcVN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần tích cực
vào sự nghiệp tiến bộ của TG.

Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
quả
a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Để đảm bảo Nhà nước Việt Nam thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tiêu
chí Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả ngay từ đầu đã được HCM đặc
biệt quan tâm. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của HCM. Trong
quá trình xây dựng Nhà nước VNDCCH, HCM thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và
nhắc nhở mọi người đề phòng, khắc phục:
• Tiêu diệt đặc quyền và đặc lợi
Xây dựng Nhà nước trong sạch, có hiệu quả phải tẩy trừ những thói cậy mình là
người trong cơ quan quyền lực nhà nước để cửa quyền, hách dịch với dân; vơ vét của cải
làm giàu cho cá nhân mình. Bởi, nếu cán bộ, công chức nhà nước làm như thế đã rơi vào chủ
nghĩa cá nhân.
• Tiêu diệt tham ô, lãng phí, quan liêu
Tham ô, lãng phí, quan liêu, theo quan điểm của HCM là “giặc nội xâm” – “tức giặc
ở trong lòng”, thứ giặc này nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm rất nhiều. Theo Người “tham ô,
lãng phí, và bệnh quan liêu dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong
kiến…”.
Lãng phí là căn bệnh mà HCM lên án gân gắt. Cả cuộc đời của Người, HCM luôn cố
gắng và làm tấm gương sang về việc chống lãng phí. HCM quý từng đồng xu, bát gạo do
dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Lãng phí trong quan điểm của HCM
không ngừng lại ở lãng phí tiền của, mà đây còn là lãng phí thời gian và sức lao động. Vì
vậy, chống lãng phí là một biện pháp để tiết kiệm và là quốc sách của một quốc gia.
Đối với bệnh lãng phí, tham ô và quan liêu, HCM phê bình những người, những cơ
quan cấp trên và cấp dưới không sát công việc thực tế, không giáo dục cán bộ, không gần
gũi quần chúng; đối với công việc thì thực hiện mang tính hình thức, không đi sâu vào từng
vấn đề, không xem xét mọi mặt


Sau khi nằm vững về đặc tính và mối hiểm họa của tham ô, lãng phí, quan liêu, HCM

chỉ rõ: bệnh quan liêu là gốc sinh ra các thứ bệnh tham ô và lãng phí. Do đó, muốn trừ sạch
bệnh tham ô và lãng phí, trước hết cần tẩy sạch bệnh quan liêu.
• Tiêu diệt tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo
Trước hết cần khẳng định: tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo là mầm móng gây mất đoàn
kết, gân rối cho công tác.
Nhận thức được điều đó, HCM kịch liệt lên án và bài trừ thói này. HCM lên án tệ kéo
bè, kết cánh, tệ bà con bạn hữu của mình không có tài đức gì cũng kéo vào chức này, chức
nọ. Còn những người có tài năng thực sự, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Cán
bộ, công chức khi có lập trường, và quan điểm trên đã quên rằng đây là việc nước, việc công
chứ không phải việc của dòng họ hay cá nhân ai. Trong chính quyền vẫn tồn tại hiện tượng
gây mất đoàn kết, vẫn có người bênh vực lớp này, chống lại lớp khác… Ngoài bệnh cậy thế,
có người còn kêu ngạo cho mình khi vào chính phủ “là thần thánh rồi… lúc nào cũng vác
mặt quan cách mạng” làm mất uy tín của CP.
b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
cách mạng
Đối với vần đề này, HCM kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị” trong
việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Đó là hoạt động kết
hợp giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy giá trị tốt đẹp của dân tộc được hình
thành qua hàng ngàn năm lịch sử.
Với bản thân mình, trong việc thực thi công việc của Chủ tịch nước, HCM bao giờ
cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa tình cảm và lý trí, nghiêm
khắc, bao dung, nhân ái, nhưng không bao giờ che chở sai lầm, khuyết điểm của bất kỳ ai
Để đảm bảo kỷ cương phép nước luôn được đề cao và áp dụng cho tất cả mọi người,
HCM yêu cầu pháp luật phải sẵn sàng trừng trị kẻ bất liêm, dù kẻ ấy ở địa vị nào và làm
nghề nghiệp nào.
Bên cạnh pháp luật, HCM còn dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những
người lỗi lầm, để dẫn dắt họ đi theo cách mạng, đồng thời Người còn giáo dục những người
mắc khuyết điểm để họ không phạm pháp.
Câu 5: Tư tưởng HCM về văn hóa giáo dục
Trong các quan điểm của HCM về văn hóa như: văn hóa nghệ thuật, văn hóa đời

sống…văn hóa về giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Sau khi tìm được con đường cứu nước,
HCM đã bỏ nhiều công sức phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến cũng như nền giáo
dục thực dân. Từ đó, Người suy tư và chuẩn bị cho việc thiết lập một nền văn hóa giáo dục
của nước Việt Nam độc lập sau này.
HCM cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam mới phải được
coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài.
Sau đây là những quan điểm cơ bản của HCM về văn hóa giáo dục:


a) Mục tiêu của VH giáo dục
- Thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục, có nghĩa là bằng day và học.
- Dạy và học để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình
cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân. Đó là
việc tao ra con người có đức, có tài, những công dân biết làm chủ để đóng góp tích cực và sự
nghiệp xây dựng vào bảo vệ đất nước.
- Dạy và học để xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt và nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết của
dân ta nhằm biến nước ta thành nước có nền văn hóa cao.
- Tiến hành cải cách giáo dục, xây dựng trường, lớp với chương trình, nội dung dạy và học
thất khoa học, thất hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của ta.
, vì vậy mục đích của nền giáo dục là đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà,
phải lấy nhiệm vụ học tập làm chủ yếu.
Người đã chỉ rõ mục đích của việc học đó là: học để yêu Tổ quốc, học để yêu nhân dân,
học để yêu lao động, học để yêu đạo đức, học để phụng sự Tổ quốc, học để phụng sự
nhân dân.
Mục đích giáo dục lớn nhất trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là vì con người, cho con
người, là xây dựng con người mới, đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà

b) Nội dung của VH giáo dục
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa theo Người: “trước hết cần phải có con người xã hội chủ
nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục

tri thức khao học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát
triển con người toàn diện trong thời đại mới. Hồ Chí Minh cho rằng phải xây dựng cho
ngưoiừ học toàn diện những mặt chính sau: trí dục, đức dục, thể dục, mĩ dục, giáo dục lao
động kỹ thuật. Ngoài ra cần phải học lý luận Mác Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác
hàng ngày, phải luyện tài, rèn đức, trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới giáo dục
đạo đức. Người nói “dạy cũng như học là phải biết chú trọng cả tài và đức”, đức được coi
như là “cái gốc” của cấy, “nguồn” của sông, nếu không có đức thì người có tài cũng vô
dụng.

- HCM chỉ ra rằng, nội dung giáo dục không dừng lại ở việc trang bị kiến thức về khao họckỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ,… mà phải luôn kết hợp các yếu tố này với việc trang bị
kiến thức về chủ nghĩa Mác-Lê. Tức làm, nội dung của VH phải bao gồm văn hóa, chính trị,
KH-KT, chuyên môn nghiệp vụ và lao động.
- Theo HCM, quá trình học tập phải luôn luôn gắn lý luận với thực tiễn, “học” phải kết hợp
với “hành”, học tập phải kết hợp với lao động. Có như vậy, VH giáo dục mới có “tính hướng
đích đúng đắn, rõ rang, thiết thực”. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phải kết hợp ba khâu
là nhà trường, gia đình, và xã hội. Sự yếu kém ở bất kỳ khâu nào cũng đều hạn chế sự phát
triển của giáo dục.
c) Phương châm, phương pháp và hình thức của nền giáo dục mới


- Học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào
tạo lại. Đối với mỗi người, học ở trường lớp chỉ là một phần, còn phần chủ yếu phải học
trong lao động, trong công tác, trong hoạt động thực tiễn. Cũng vậy, quá trình học tập không
phải chỉ có học ở người thầy ở trong các trường lớp, mà còn phải tìm thấy người thầy trong
các đồng chí, đồng nghiệp và đặc biệt là nhân dân. Lê khuyên chúng ta “học, học nữa, học
mãi”, do đó, mỗi người chúng ta đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó. HCM thường nhắc
lại câu nói của Khổng Tử “học không biết chán, dạy không biết mỏi” để khuyên mọi người.
Qua điểm này của Người là học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học.
- Phải không ngừng nâng cao đảng trí. Nâng cao đảng trí phải là mục tiêu của giáo dục đối
với cán bộ, đảng viên. Giáo dục cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ được HCM đặc biệt quan tâm

trong suốt cuộc đời của Người. Người đòi hỏi CB-ĐV “phải nâng cao tu dưỡng về chủ nghĩa
Mác-Lê”. Bên cạnh đó, CB-ĐV phải học tập văn hóa, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, quản lý
“công cuộc xây dựng CNXH…”, bởi cán bộ không biết kỹ thuật, mà chỉ biết chính trị suông
thì không lãnh đạo được.
- Quyết tâm xây dựng đội ngũ giáo viên yêu nghề, có đạo đức cách mạng, đoàn kết, giỏi
chuyên môn nghiệp vụ và thành thạo công tác.
/>%C6%B0%C6%A1%CC%89ng-h%C3%B4%CC%80-chi%CC%81-minh-v%C3%AA
%CC%80-v%C4%83n
Về vai trò của giáo dục:
Nói đến tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu giáo dục thường nhấn
mạnh đến sự đặc sắc trong quan điểm của Người về vấn đề nhân cách, việc học tập để
rèn luyện phát triển nhân cách đối với mỗi người.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thiện ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do
giáo dục mà nên”. Người muốn nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục trong việc hình thành
phẩm chất nhân cách con người, “thiện”, “ác” không phải là bản chất sẵn có của con người
mà chủ yếu là do quá trình giáo dục hình thành nên.
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc đổi bảo vệ và xây dựng
đất nước. Người kêu gọi: “Quốc dân Việt Nam! muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho
dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam…phải có kiến thức mới, để có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Hồ Chí Minh còn quan tâm chỉ đạo cho giáo dục tích cực phục vụ hoạt động kinh tế, làm
cho hai lĩnh vực này liên hệ chặt chẽ với nhau. Người đánh giá tác dụng tích cực của giáo
dục trong quá trình phát triển kinh tế: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không
nói gì đến kinh tế”.
Về mục đích giáo dục:
Mục đích cao cả trong suốt cuộc đời phấn đấu của Hồ Chí Minh đó là mong cho dân tộc,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Ngày nay nước ta đã được độc lập, dân ta đã được tự do, thanh niên đã là người làm chủ
đất nước, vì vậy mục đích của nền giáo dục là đào tạo ra những con người biết làm chủ
nước nhà, phải lấy nhiệm vụ học tập làm chủ yếu.



Người đã chỉ rõ mục đích của việc học đó là: học để yêu Tổ quốc, học để yêu nhân dân,
học để yêu lao động, học để yêu đạo đức, học để phụng sự Tổ quốc, học để phụng sự
nhân dân.
Mục đích giáo dục lớn nhất trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là vì con người, cho con
người, là xây dựng con người mới, đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà.
Nhiệm vụ giáo dục:
Người đã đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp học, cấp Đại học, cấp Trung học, cấp tiểu
học. Ở cấp trung học, Người nói rằng cần phải đảm bảo cho học trò những tri thức phổ
thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ
những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tiễn.
Về nội dung giáo dục:
Về phương pháp giáo dục:
Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương
pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của
Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp
về giáo dục. Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi
dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất
quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có
thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan
điểm dân chủ, thẳng thắn, không thức nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học
tập, nhận thức.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và
đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình
độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần
chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa

điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá
bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy
nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại,
phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương,
phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội... đều nhằm mục đích "nêu cao
tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu
quả giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa hiện đại, vừa hệ
thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với
việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
- một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người
đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính... Hơn 50 năm
qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương


pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư
tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ
trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ
cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh
động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục
nói chung hiện nay.



×