Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Câu hỏi thảo luận và đáp án môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.37 KB, 29 trang )

Câu 1: Tại sao nói ĐCS VN ra đời gắn liền với công lao to lớn của Hồ Chí
Minh?
Về tư tưởng: Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm
làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho
hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm
chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp
công nhân.
Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Người
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam không phải bằng các tác phẩm kinh
điển, những cuốn sách lý luận đồ sộ mà bằng các tác phẩm ngắn gọn, dể hiểu, phù
hợp với trình độ quần chúng. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội
dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch
trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân
Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng
dân tộc.
Người đã sử dụng những phương pháp thích hợp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam: từ chỗ thức tỉnh đến định hướng hành động, rồi đào tạo đội ngũ
những người tuyên truyền thông qua một tổ chức vừa tầm thích hợp. Những
phương pháp tuyên truyền từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện một nước thuộc
địa nửa phong kiến.
Về chính trị: Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu nước đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người
cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu


(Trung Quốc). Năm 1927, được in thành sách lấy tên là “Đường Cách mệnh”.
Những vấn đề then chốt trong tác phẩm có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt
Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước
thuộc địa Phương Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn


thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách
mạng vô sản thế giới…Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có
đảng vững bền; phải bền gan, phải hy sinh; phải thống nhất. Nói tóm lại là phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Người nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như tính chất giải
phóng dân tộc của cách mạng, những động lực chủ yếu của nó - công nhân và nông
dân là “gốc cách mệnh”, “học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn cách mệnh
của công nông. Những luận điểm đó là nền tảng hình thành liên minh công nông và
mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng dân tộc giải phóng do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Người còn nêu quan điểm cực kỳ quan trọng: Đảng Cộng sản là nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng.
Người xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu
thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ” và “ai làm cách mệnh trong
thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Luận điểm trên là cụ thể hóa và phát
triển quan điểm của Người đã nêu trước đây về tính chủ động và khả năng thắng
lợi trước của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc. Những nội dung
đó đem đến cho quần chúng niềm tin, quyết tâm chủ động đứng lên làm cách mạng
cứu nước, cứu nhà.


Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị rất lớn trên phương diện lý luận và thực
tiễn. Nó đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá tư tưởng cách mạng của Người
vào Việt Nam, chỉ rõ con đường và biện pháp để nhân dân ta đấu tranh giành độc
lập, tự do; đặt cơ sở khoa học cho việc hình thành đường lối chiến lược của cách
mạng nước ta. Nó là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam trong thời kỳ vận động
thành lập Đảng, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam,
vạch ra phương hướng cho cách mạng nước ta đi vào quỹ đạo của cách mạng vô

sản thế giới, góp phần chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng; là
thành công nổi bật của Người trong chuẩn bị về chính trị và tư tưởng.
Về tổ chức: cùng với việc truyền bá lý luận chính trị để chuẩn bị cho sự ra đời của
một chính Đảng, Người đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc)
tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) để vừa chuẩn bị
cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một tổ chức tiền thân có tính
chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Nó
giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ
tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công
của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Chính những thanh niên yêu nước và sục sôi hoài bão cách mạng trong Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã thực hiện phong trào “vô sản hoá” để đi sâu vào
phong trào đấu tranh của quần chúng, truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối
cách mạng đúng đắn vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giác ngộ
họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Đồng thời, thông qua “vô
sản hoá” lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập
trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước


phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt
Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.
Câu 2: Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong
tình hình hiện nay.
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt
Nam và về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Năm bài học lớn ấy tạo thành
một giá trị tổng thể, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng
trong tình hình hiện nay.
Đi sâu vào bài học thứ 5, ta thấy sự đánh giá của Đảng ta là khách quan và trung

thực: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam”. Có nghĩa, không phải bất cứ sự lãnh đạo nào của Đảng
cũng đều dẫn tới thắng lợi. Không. Chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn mới là nhân tố
quyết định thắng lợi. Đúng đắn vừa là tiền đề vừa là điều kiện tiên quyết. Còn lãnh
đạo sai thì kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại.
Những thành tựu vĩ đại mà cách mạng nước ta giành được trong 80 năm qua chứng
minh rằng sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, Đảng có lúc
cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do
giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Điều đáng ghi nhận
là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn
để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bài học thứ 5 nhấn mạnh những nội
dung sau: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản


lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ
lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ,
đảng viên.
Gắn liền với bài học thứ 5, Cương lĩnh, phần nói về Đảng, cũng viết; Để đảm
đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống
đoàn kết trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng.
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè
phái,...

Xuất phát từ 5 bài học lớn trong Cương lĩnh, đặc biệt là bài học thứ 5, trong sự
nghiệp đổi mới mấy chục năm qua. Đảng ta luôn coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt.
Đại hội X (2006) lấy việc ''nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng''
làm thành tố quan trọng đầu tiên trong chủ đề của Đại hội. Theo đó, nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối chính sách; năng
lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực tổng kết lý luận - thực tiễn, tạo thống nhất
nhận thức và hành động trong Đảng; năng lực lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó
còn là năng lực kiểm tra giám sát các hoạt động của các tổ chức Đảng. Nâng cao
sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ
đảng, nói chung là toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất


sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể
nang, né tránh, “dĩ hoà vi quý”; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức
đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng, và trong xã hội; dũng
cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch...
Đại hội XI (2011) mới đây một lần nữa xác định ''Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” là nhiệm vụ bao
trùm và nội dung chủ yếu nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: ''Công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực”. Nhưng
Đại hội cũng chỉ rõ: ''Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm
được khắc phục''. Đó là những hạn chế, yếu kém trong công tác chính trị, tư tưởng,
tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo và trong công tác kiểm tra, giám sát.
Đáng lưu ý là ''tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục

diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý,
điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước''. Cũng cần lưu ý rằng
''năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, công tác
quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt
nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu, v.v.
Chính vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được Đại hội XI nêu lên một cách toàn
diện, bao gồm: (1) Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. (2) Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. (3) Rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách


mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. (4) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị. (5) Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất
lượng đảng viên. (6) Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị
nội bộ. (7) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, (8) Tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của
Đảng trong các thời kỳ đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt
động lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ hiện nay và sắp tới. Sức sống và các bài học
không chỉ ở chỗ được đúc kết một cách đúng đắn mà còn ở chỗ được vận dụng một
cách sáng tạo trong tinh thần đổi mới và phát triển.
Câu 3: Cơ hội và thách thức trong việc mở rộng mối quan hệ đóio ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế?
Cơ hội:
- Khăc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế.
- Mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương
mại phát triển.
- Có lợi từ các hện thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường
quốc thương mại chính.
- Có lợi gián tiếp từ việc cải cách hệ thống ngoại thương.

- Có điều kiện th hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới,... của nước
ngoài.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời
tạo ra môi truòng bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam.


Thách thức:
- Cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố
của quá trình tái sản xuất hàg hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro.
- Hội nhập KTQT đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ
sung và hoàn thiện thể chế.
- Làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quosc gia.
- Yêu cầu về đội ngũ cán bộ ngày càng cao.
- Đặt ra vấn đề về giữ gìn bản sắc văn hóa.
Câu 4: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong CM tháng 8?
Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân
được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi
thời cơ đến.
Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao
trào cách mạng 1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên
chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Cao trào dân chủ 1936 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho cách mạng tháng
tám. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc diễn
tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền
khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” ngày 12-3-1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành
khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp



thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong thời kỳ
tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt.
Nhân dân Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu
quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để giành độc lập, quyết tâm
chiến đấu.
Hai là, Đảng tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung
gian đứng về phía cách mạng.
Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng
lớp trung gian có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp
trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết định trong những
bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về
phía cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách
mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không
tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín
muồi mà vẫn không thể làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng
được.
Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả
năng lôi cuốn họ vào con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật.
Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả một quá trình vận động.
Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách
mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân
thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành công. Chẳng
những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân thành đoàn kết
trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập
ra tổ chức của mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc.


“Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là
một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí
thức yêu nước tiến bộ” làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận

Việt Minh ngày thêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng
lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật càng được tăng thêm. Tuy
vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp
trung gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn
chưa đông đảo. Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải
qua một bước dao động ngắn rồi với mạnh dạn tham gia phong
trào cứu quốc một cách đông đảo. Một số đông quần chúng trung
gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn tay sai Đại Việt quốc
gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ
thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng
Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách
mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ
bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để
sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm
lược lần nữa, điển hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ
mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm
cho nhiều người mắc lừa… Trước tình hình đó, Đảng chủ trương
phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù
nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn
nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm
vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc
lột nhân dân”, và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít
Nhật... Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng


trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Mặt khác, thực
tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của Đảng là đúng.
Ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung
gian nói chung đều theo cách mạng.
Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng

đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính
quyền
Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn
tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập". Đường lối chiến lược và sách lược của
Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát
triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.Đặc biệt tại Hội
nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941) do lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi
chiến lược cáchmạng. Hội nghịquyết định tiếp tục chủ trương tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt
trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”. Hội
nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.


Cuối năm 1944, Hồng quân Liên Xô phản công tiêu diệt phát xít
Đức, Ý, giải phóng các nước Đông Âu, làm cho quân Nhật ở Đông
Dương hoang mang dao động. Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí
Minh nhận định: "Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa bình
đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu
chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh
phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị
quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh
phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc

này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức
đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành
công”.
Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng
(Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Ban thường
vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ ra khởi nghĩa:
Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói
ghê gớm diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ
hội tốt cho khởi nghĩa đi đến chín muồi một cách nhanh chóng;
Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa
quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là
lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị
nói rõ “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào
Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của ta, vì
như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến chuyển
thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách


mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước
như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh
thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì
cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”. Dự kiến
này gần đúng với sự thật diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu
nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa) lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị
tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị
thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp) trước đây
bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập

chính quyền cách mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng
suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận trọng và sáng
tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và
của Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết
định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức Uỷ
ban dân tộc giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước thì lập
Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính quyền cách mạng
lâm thời của nước Việt Nam mới.
Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa
vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung
ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-


4-1945). Hội nghị quyết định quyết đinh thống nhất các lực lượng
vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực
lượng vũ trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để
chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Trong thời gian, này trong nội bộ Đảng ta phê phán nghiêm khắc
quan điểm sai lầm của một vài đồng chí ở Trung Bộ chủ trương cải
tổ chính phủ Trần Trọng Kim hy vọng giành độc lập bằng con
đường hoà bình với Nhật. Đồng thời, Trung ương phê phán tư
tưởng tả khuynh của các đồng chí trong báo Giải Phóng (Nam Bộ)
vẫn còn giữ khẩu hiệu đánh đổ phát xít Pháp Nhật sau khi Nhật
hoàn thành cuộc đảo chính.
Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về
chính trị, quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật
và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng

khởi nghĩa giành chính quyền .
Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô
và các nước Đồng minh, ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của
Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời
cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh
đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và
bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mỹ
vào Việt Nam.
Ngay đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành
lập do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư phụ trách. Uỷ ban đã


ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng
bào cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đến đây, trong một thời gian dài chuẩn bị lực lượng từ năm 1930.
Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi
dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vô cùng
quan trọng để cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi.
Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết
hợp chặt chẽ điều kiện khách quan và chủ quan: Kết hợp chặt chẽ
đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh
thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Kết hợp
những cố gắng của bản thân nhân dân Việt Nam với chiến công
của quân đội Liên Xô, quân đội Đồng minh và thắng lợi của các
lực lượng dân chủ nói chung trên toàn thế giới chống chủ nghĩa đế
quốc. Trong đó, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định. Vì
thời cơ cách mạng xuất hiện như một tất yếu, lịch sử đưa quần
chúng đến ngưỡng cửa của khởi nghĩa giành chính quyền rồi trôi
đi một cách nhanh chóng. Nếu Đảng tiên phong không chuẩn bị

đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách
quan có thuận lợi đến đâu cách mạng cũng không nổ ra được.
Thời gian không ngừng trôi, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mãi
mãi là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng, lịch sử dân tộc Việt
Nam. Những bài học đúc rút từ thắng lợi của Tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và
phát huy trong điều kiện mới.


Câu 6: Tại sao nói sự ra đời của Đảng là 1 tất yếu?
Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau đang bế tắc
về đường lối thì khuynh hướng vô sản thắng thế: Phong trào dân tộc đi theo
khuynh hướng vô sản.
– Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này.
– Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.
– Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy
chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi
cuối cùng.
– Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
– Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại tự
nhiên. Muốn trở thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân
– Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
– Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công
nhân từ tự phát thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
– Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và
con đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.



– Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam .
– Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào yêu nước phát triển .
– Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công
nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng độc lập. Tình hình khách
quan ấy đòi hỏi phải có một Đảng cộng sản lãnh đạo.
– Ba tổ chức cộng sản ra đời là: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản
đảng, Đông Dương cộng sản đảng liên đoàn đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của
phong trào cách mạng
– Ngày 3-2-1930 thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng
Cộng sản Việt Nam
Câu 6: Có ý kiến cho rằng thắng lợi của CM tháng 8 chỉ là sự ăn may? Ý kiến
của anh chị về nhận định này?
Ý kiến cho rằng cách mạng tháng 8 là thắng lợi của sự ăn may là hoàn toàn
sai lầm không đáng tin cậy vì thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 là thắng lợi
của cả một quá trình chuẩn bị lâu dài của Đảng từ ngày thành lập Đảng (3/2/1930),
trong 15 năm đó Đảng của ta đã không ngừng đưa ra những chiến lược sách lượt
sát với từng tình hình cụ thể
+ Qua cao trào 1930 -1931 với đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã cho
thấy sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam một chính quyền Xô Viết (theo kiểu vô sản ra đời) đáp ứng yêu
cầu cấp thiết lúc bấy giờ là giành độc lập dân tộc mặt dù phong trào này chỉ giành


thắng lợi ở một vài nơi trong một thời gian ngắn. Đây được xem là đợt Tổng dợt
đầu tiên cho cách mạng tháng Tám.
+ Sau đó là cuộc vận động dân tộc dân chủ 1936-1939, trong thời kì khủng hoảng

kinh tế thế giới và nguy cơ chủ nghĩa phát xít đang đe dọa. Đảng đã kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo chiến lượt để thu hút sự tham gia và ủng hộ của mọi tầng
lớp nhân dân trong nước. Nhờ đó cơ sở Đảng không ngừng phát triển lớn mạnh và
có uy tín lớn trong quần chúng nhân dân. Đây được xem là đợt tổng dợt thứ 2 cho
cách mạng tháng 8
+ Rồi đến cao trào cách mạng 1939-1945: Đây là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh
thế giới. Chủ nghĩa phát xít ngày càng lớn mạnh và hung hăng hơn. Năm 1940,
phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, thực dân Pháp hai tay dâng Đông Dương cho
Nhật. Nhân dân ta phải chịu sự áp bức của hai tầng áp bức Nhật - Pháp, đời sống
ngày càng khó khăn, mà tiêu biểu là nạn đói năm 1945 làm hơn 2 triệu đồng bào
chết đói. Trước tình hình đó, Đảng lại tiếp tục chuyển hướng chỉ đạo chiến lượt.
Tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc-phong kiến" và "người cày có ruộng", thay
vào đó là khẩu hiệu đánh đuổi phát xít và bọn phản động thuộc địa Pháp, thực hiện
tự do dân sinh, dân chủ, hòa bình, cơm áo cho nhân dân. Thành lập mặt trận dân
tộc thống nhất chống phát xít ở Đông Dương, tiến hành đấu tranh công khai nửa
công khai, hợp pháp nửa hợp pháp... Nhờ đó mà ngày càng thu được sự đồng tình
ủng hộ của mọi giai tầng trong xã hội như công- nông, tư sản, tiểu tư sản, địa chủ
và cả những người Pháp có tinh thần chống phát xít. Đây được xem là thời kì tiền
khởi nghĩa tạo điều điện trực tiếp cho cách mạng tháng 8 giành thắng lợi.
Câu 7: Nội dung và định hướng CNH, HDH gắn với nền kinh tế tri thức?
a) Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá tình công nghiệp


hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa".
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều

vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh
vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
b) Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trí thức.
-

Đẩy mạnh công nghiệp hỏa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết

đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn:
Một là, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công
nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì
công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng
khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị.


Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu, lao dộng cho công nghiệp và
thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa
số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông
nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá
trình công nghiệp hóa.
Trong những năm tới, định hướng phát triển cho quá trình này là:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá
trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, đẩy nhanh
tiến độ khoa học — kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng

suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa phù hợp đặc điểm từng
vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch
vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Hai là, về quy hoạch phát triển nông thôn.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn
minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như
thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu
điện, chợ,...
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao
trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh
trật tự, an toàn xã hội.


Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng có sử
dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các
khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh
tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch
vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông
thôn, kể cả đi lao động nước ngoài.
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
-Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ:
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm
còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh
hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Một là, đối với công nghiệp và xây dựng.

Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh.
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công
nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm
xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến khích
và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan


trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước
ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng
về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa đầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ
bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt
định cư ở nước ngoài.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội, nhất là các sân bay
quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới
cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy
lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm
năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông. Đại hội
XI của Đảng nhấn mạnh: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số
công trình hiện tại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn là một
trong các đột phá chiến lược.
Hai là, đối với dịch vụ.
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất
lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ pbát triển của ngành
dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để
tạo bước phát triển "công nghiệp không có khói" này. Tiếp tục mở rộng và nâng

cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân
hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.


Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hành lang pháp lý, môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh
tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
-

Phát triển kinh tế vùng:

Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
Xác định đúng đắn cơ cấu vùng có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép khai thác có
hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các
vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới, cần
phải:
Một là, có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển
nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của
mỗi vùng và liên vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại
hiệu quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
Hai là, xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam
thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng
góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước. Trên cơ sở phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, tạo ra động lực và sự lan tỏa đến các vùng khác và trợ
giúp các vùng khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây
Nam, Tây Bắc. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triền các
vùng khó khăn. Bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các

vùng khó khăn.
-Phát triển kinh tế biển:


Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm,
trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu
vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển,
khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biển hải sản, phát triển du lịch biển,
đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình thành
một số hành lang kinh tế ven biển.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ:
Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải:
Một là, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2020 có nguồn nhân lực với
cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông -nghiệp còn
khoảng 30-35% lực lượng lao động xã hội.
Hai là, phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của
cách mạcg khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở
một số ngành, lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột
phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên
cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất,
chất lượng và hiệu quả, trong từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo đục và đào
tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện chính sách trọng
dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ
thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.



Bốn là, đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế
tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học
và công nghệ.
- Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên:
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài
nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định:
Một là, tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước,
khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường,
khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các lưu vực sông, đô thị, khu công
nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư
cho lĩnh vực môi trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải,
phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.
Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi
trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc
chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
Hai là, từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn,
chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
Ba là, xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với
bảo vệ môi trường, bào đảm phát triển bền vững.
Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên
nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
Câu 8: So sánh nền KT thị trường định hướng TBCN và XHCN


×