Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Luận văn sư phạm Hiểu ngôn và hàm ngôn trong truyện cười dân gian Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.61 KB, 43 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

MụC LụC
Mục Lục ............................................................................................................ 1
Mở Đầu ............................................................................................................. 2
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 3
3. Mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của đề tài................................................. 5
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
nội DUNG ...................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: CƠ Sở Lý LUậN....................................................................... 7
1. Khái quát truyện cười dân gian Việt Nam ............................................ 7
2. Câu và các thành phần nghĩa của câu tiếng Việt ................................. 8
2.1 Ba bình diện nghiên cứu câu ............................................................... 8
2.2. Quan niệm về câu ............................................................................... 9
2.3. Phân loại câu .................................................................................... 11
2.4 Các thành phần nghĩa của câu tiếng Việt .......................................... 14
CHƯƠNG 2: HIểN NGÔN, HàM NGÔN TRONG TRUYệN CƯờI DÂN
GIAN VIệT NAM........................................................................................... 21
1. Hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản văn chương. ......................... 21
1.1 Quan niệm về hiển ngôn, hàm ngôn trong văn chương..................... 21
1.2 Phân tích hiển ngôn và hàm ngôn trong văn chương. ....................... 22
2. Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười dân gian Việt Nam ............ 24
2.1 Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười về người nông dân ............. 24
2.2 Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười về tầng lớp trí thức. ........... 32
2.3 Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười về tầng lớp tiểu thương ..... 34
2.4 Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười về tầng lớp quan lại cường
hào. .......................................................................................................... 35


2.5 Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười về các anh học trò, các bà vợ
goá, các chú lính dịch .............................................................................. 37
3. Hiển ngôn và hàm ngôn trong truyện cười hiện đại. ......................... 37
kết luận ..................................................................................................... 39
tài liệu THAM KHảo............................................................................... 42

1


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội, để giao tiếp, con người có thể sử dụng rất nhiều
phương tiện khác nhau như cử chỉ, điệu bộ, ký hiệu toán học, đèn hiệu giao
thông, tín hiệu hàng hải, âm nhạc, hội hoạ Tuy nhiên, ngôn ngữ vẫn là công
cụ giao tiếp quan trọng và ưu việt. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể thiết lập
các mối quan hệ xã hội và diễn đạt trọn vẹn, sáng tỏ các sự kiện cũng như tư
tưởng, tình cảm và nguyện vọng của mình, làm cho người khác thấu hiểu tất
cả những gì hàm chứa trong sự diễn đạt ấy. Cũng bằng ngôn ngữ, con người
có thể lưu truyền vốn tri thức, kinh nghiệm quý báu của mình cho thế hệ sau.
Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp được thể hiện ở hai cách nói: nói
thẳng, nói trắng, nói toạc ra và cách nói bóng gió; nói vòng vo, quanh co;
nói mập mờ, úp mở Nghĩa là người ta không chỉ nói bằng hiển ngôn (ý
nghĩa lời nói biểu hiện ở ngay câu chữ) mà còn nói bằng hàm ngôn (ý nghĩa
lời nói ẩn sau câu chữ). ý nghĩa hiển ngôn là điều kiện cần còn ý nghĩa hàm
ngôn là điều kiện đủ cho việc hiểu thông tin của một phát ngôn.
Vấn đề hiển ngôn và hàm ngôn đã hấp dẫn ngôn ngữ học gần đây. Nó

thuộc lý thuyết giao tiếp, dụng học, ngôn ngữ học văn bản, lôgic - ngữ nghĩa
học. Sức hấp dẫn của vấn đề là ở sự cân nhắc của người viết, người nói: lựa
chọn cách nói nào và còn ở sự cố gắng của người đọc, người nghe để hiểu cho
trúng cái ý của người nói.
Trong việc biên soạn sách giáo khoa phổ thông, hiển ngôn và hàm ngôn
là những nội dung quan trọng trong phần Nghĩa của câu- một trong bốn
chương lớn của Tiếng Việt 11. Trong chương trình Ngữ Văn, hiển ngôn và
hàm ngôn vẫn là một vấn đề được quan tâm . Đó là căn cứ quan trọng để hiểu
thấu đáo tác phẩm văn chương, đặc biệt với truyện cười dân gian Việt Nam.
Là một giáo viên Ngữ Văn trong tương lai, tôi nhận thấy việc nghiên
cứu hiển ngôn và hàm ngôn trong truyện cười dân gian là một việc làm thiết
yếu, có ý nghĩa sâu sắc.
2


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

2. Lịch sử vấn đề
Người đặt vấn đề ý nghĩa hàm ẩn sớm nhất là nhà ngôn ngữ học người
Anh Grice.
ở Việt Nam, từ những năm 70, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã hướng
sự quan tâm tới vấn đề này.
2.1. Đái Xuân Ninh khi bàn về nghĩa của câu đã nói tới cách sử dụng
câu hỏi với các từ làm điểm nhấn để hỏi, trong đó, ông có nói tới trường hợp
câu hỏi với những dụng ý khác. Theo ông, Trong lời nói, có những câu hỏi
thực sự yêu cầu người nghe phải trả lời, ngược lại, có những câu hỏi có dụng
ý phủ định hay khẳng định, cầu khiến hay chỉ có tác dụng bày tỏ cảm xúc (Tr
155)(1) .

2.2. Trần Ngọc Thêm bàn tới ý nghĩa của câu gắn với văn bản. Theo
ông, Văn bản không phải là phép cộng đơn thuần giữa các câu mà giữa các
câu trong văn bản có sợi dây liên kết chặt chẽ(2). Do đó, khi các câu trong văn
bản có sự bất thường trong liên kết thì sẽ tạo nên Chuỗi bất thường về nghĩa,
tức là trong đó sẽ có hàm ngôn của văn bản.
2.3. Diệp Quang Ban đã đi sâu nghiên cứu về câu.Trong đó, ông dành
phần nghiên cứu câu gắn liền với hoàn cảnh sử dụng, có nghĩa là câu - phát
ngôn. Ông cho rằng: Muốn tìm hiểu một câu bất kỳ phải gắn với hoàn cảnh
sử dụng của chúng, nếu không, chỉ hiểu được phát ngôn ấy thông qua ý nghĩa
cấu trúc của câu, của các mối quan hệ giữa các từ ngữ và của bản thân các từ
ngữ dùng để lấp đầy khuôn hình câu ấy (Tr 74)(3).
2.4. Nguyễn Đức Dân đã bàn tới cách nói hàm ngôn thông qua hành vi ngôn
ngữ gián tiếp (Tr 59 -75), vi phạm các điều kiện hành vi ở lời (Tr 118, 119) và

(1):Hoạt động của từ tiếng Việt-Đái Xuân Ninh-NXB Khoa học xã hội Hà Nội,1978.
(2):Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt-Trần Ngọc Thêm-NXB Khoa học xã hội Hà Nội
(3):Câu đơn tiếng Việt-Diệp Quang Ban-NXB GD,1987

3


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

thông qua lý thuyết lập luận. Theo tác giả, có 2 phương pháp lập luận là
phương pháp hình thức và phương pháp không hình thức. Phương pháp lập
luận không hình thức sẽ tạo ra hàm ngôn. Sự lập luận theo những tri thức, lý
lẽ, phong tục tập quán, nhân sinh quan của một xã hội, dân tộc mà hầu hết cá
thể sống trong xã hội đều tôn trọng và tuân thủ (Tr 169)(1).

2.5 Tác giả Nguyễn Đức Dân đã nghiên cứu các kiểu nghĩa của phát
ngôn (Tr 191).ở đó, tác giả đi sâu vào tìm hiểu hiển ngôn, hàm ngôn, tiền giả
định, hàm ngôn hàm ý ngôn ngữ(2).
2.6 Đỗ Hữu Châu đã gián tiếp bàn đến hàm ngôn khi phân tích sự
chuyển hoá các chức năng trong văn bản. Theo tác giả:Trong lời nói sinh
động hàng ngày, tùy theo những nhu cầu diễn đạt khác nhau, do tác động của
nhân tố giao tiếp mà có sự chuyển hóa chức năng giữa các đơn vị ngôn ngữ
(Tr 100)(3).
2.7 Đỗ Hữu Châu đã dành một chương để nói về ý nghĩa tường minh và
ý nghĩa hàm ẩn (Tr 359)(4).ở đây, ông đưa ra một nguyên lý nói năng, chúng
ta truyền bá nhiều hơn là điều chúng ta nói. Các chương khác: Chiếu vật và
chỉ xuất, Hành vi ngôn ngữ, Lý thuyết lập luận, Lý thuyết hội thoại đều
hướng tới làm rõ ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn.
2.8 Tác giả Đinh Trọng Lạc cũng bàn đến hàm ngôn: Sử dụng lối nói
gợi hàm ngôn, từ ngữ dùng ít mà buộc người nghe phải hình dung, liên tưởng,
suy luận rất nhiều mới thấy được cái hay, cái tài của người dùng ngôn ngữ
(Tr 188)(5). Ngoài ra, tác giả còn nói đến nghĩa hàm ngôn ở những kiểu câu
chuyển đổi tình thái như dùng câu hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để khẳng định,
hỏi để phủ định, hỏi để gợi ý hay dạng câu khẳng định nghi vấn (Tr 229 232).

(1) Ngữ dụng học - Tập 1- Nguyễn Đức Dân NXBGD, 1998.
(2) Lôgic và tiếng Việt- Nguyễn Đức Dân NXBGD, 1998.
(3) Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt - Đỗ Hữu Châu NXBGD, 1999.
(4) Đại cương ngôn ngữ học - Đỗ Hữu Châu NXBGD, 2001.
(5) Phong cách tiếng Việt Đinh Trọng Lạc NXBGD, 2000.

4


Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Bình

Trong những năm của thập kỷ 80, 90 và ngay cả thập niên gần đây, vấn
đề hiển ngôn, hàm ngôn được rất nhiều tác giả đề cập trên tạp chí ngôn ngữ.
Trên cơ sở tiếp thu các thành tựu nghiên cứu cùng với một hệ thống lí thuyết
khá đầy đủ về ý nghĩa của câu, người viết muốn hướng về một đối tượng cụ
thể khi khai thác ý nghĩa hiển ngôn và hàm ngôn. Đó là hiển ngôn và hàm
ngôn trong truyện cười dân gian Việt Nam.
3. Mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của của khoá luận là làm rõ được ý nghĩa hiển ngôn và hàm
ngôn biểu hiện trong truyện cười dân gian Việt Nam.
Việc nghiên cứu đề tài này rất có ý nghĩa bởi trong thực tế sử dụng
ngôn ngữ, người ta có thể hiểu rõ ý nghĩa tường minh nhưng chưa hiểu hết
được ý nghĩa hàm ngôn ẩn sau câu chữ. Hiểu hàm ngôn sai lầm sẽ làm mất đi
sự trong sáng của tiếng Việt. Hướng việc phân tích hiển ngôn và hàm ngôn
vào truyện cười dân gian Việt Nam, chúng tôi hướng tới khám phá đời sống xã
hội, tâm hồn của ông cha ta, hướng về cội nguồn. Việc nghiên cứu sẽ phục vụ
đắc lực cho quá trình giảng dạy của một giáo viên Ngữ Văn.
Trên cơ sở xác định mục đích, ý nghĩa của đề tài, đề ra một số nhiệm vụ
cụ thể:
Nắm vững kiến thức lý thuyết về hiển ngôn và hàm ngôn, kiến
thức dụng học.
Khảo sát, phân tích những biểu hiện cụ thể của hiển ngôn và hàm
ngôn trong truyện cười.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu nghĩa hiển ngôn, hàm ngôn của 342 truyện trong Kho tàng
truyện tiếu lâm Việt Nam -Nguyễn Cừ - Phan Trọng Thưởng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, thống kê.

5


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Ph¹m ThÞ Thanh B×nh

Ph­¬ng ph¸p ph©n tÝch ng«n ng÷.
Ph­¬ng ph¸p lËp luËn: diÔn dÞch, quy n¹p, tæng ph©n hîp.

6


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

NộI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ Sở Lý LUậN
1. Khái quát truyện cười dân gian Việt Nam
1.1 Khái niệm
Tiếu lâm, theo nghĩa chữ Hán là rừng cười. Đó là một thể loại truyện
kể dân gian, một trong những hình thức tiêu biểu của văn hoá tiếng cười dân
gian, bao gồm những loại truyện kể khác nhau về tính chất của đối tượng mô
tả và tính chất của sự gây cười.
1.2 Phân loại
Giới nghiên cứu phân biệt trong tiếu lâm có hai loại: truyện khôi hài và
truyện trào phúng. ở loại truyện khôi hài, việc trình bày những hiện tượng trái
tự nhiên gây ra phản ứng của tư duy lôgic ở người tiếp nhận, làm bật ra tiếng
cười như một hiệu ứng sinh lý thông thường. Ví dụ các truyện: Cháy, Ba

anh mê ngủ Những lời nói, hành vi trở nên buồn cười là do sự hiểu lầm lời
nói của nhau hoặc do các tật về sinh lý. Loại truyện này chỉ thuần tuý gây
cười. ở đây không nhằm vào thói xấu nào về tính cách hay bản chất xã hội
của nhân vật.
ở loại truyện trào phúng, tính hài hước thường được gán cho những con
người mang những thói xấu, thói tật trái với lập trường đạo đức - xã hội phổ
biến của dân gian (ví dụ các thói lười biếng, xu nịnh, hách dịch, tham lam keo
kiệt). Giới nghiên cứu phân biệt hai nhóm truyện trào phúng: một nhóm
miêu tả các biểu hiện hài hước của những tính cách xấu phổ biến, một nhóm
mô tả các biểu hiện hài hước của những tính xấu gắn với những gì được xem
như bản chất của tầng lớp xã hội cụ thể.
1.3 Nhân vật
Nhân vật của nhóm truyện thứ nhất là những anh lười, anh tham ăn, anh
nói khoác, anh đãng trí, anh sợ vợĐó là những nhân vật mang các tính xấu
7


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

phổ biến. Ví dụ các truyện: Đỡ phải mất công, Ai nuôi tôi, Lười đâu mà
lười thế
Nhân vật của nhóm truyện thứ hai thường được gọi theo thành phần xã
hội: quan huyện, thầy đề, lý trưởng, thầy đồ, thầy cúng, thầy địa lý, nhà
sưCác nhân vật này vừa mang những thói xấu như ở nhóm truyện thứ nhất,
vừa mang những thói xấu gắn với thành phần xã hội của mình như ăn đút lót
của dân, xử kiện không công minh, dốt nát, hách dịch
Trong vốn tiếu lâm truyền thống còn có chuỗi truyện xoay quanh những
nhân vật chính là Trạng : Trạng Quỳnh, Trạng Lợn được xây dựng gần như

là những nhân vật bợm nghịch. Họ là những người xuất thân tầm thường đã
dùng mưu mẹo dân gian để lừa gạt và bêu xấu các đại diện của bộ máy thống
trị.
2. Câu và các thành phần nghĩa của câu tiếng Việt
2.1 Ba bình diện nghiên cứu câu
2.1.1. Kết học (Bình diện cú học)
Bình diện kết học là bình diện của mối quan hệ giữa các tín hiệu ngôn
ngữ trong một phát ngôn, là mối quan hệ giữa các từ ở trong câu, quan hệ
giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa các thành phần chính và thành phần phụ, quan hệ
giữa các vế câu.
Ví dụ:

Gà què / ăn quẩn cối xay.
CN

VN

Là một câu văn đúng vì có cấu trúc ngữ pháp đúng và phản ánh một
hiện tượng có thực trong đời sống.
2.1.2. Bình diện nghĩa học
Nghĩa học là bộ môn nghiên cứu về ý nghĩa của từ, câu, văn bản. Khi
nghiên cứu về ý nghĩa của câu thì cần tập trung xem xét nghĩa miêu tả và
nghĩa tình thái.
Ví dụ: Lan học giỏi thật đấy.
8


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình


Nghĩa miêu tả: Sức học của Lan thuộc loại giỏi.
Nghĩa tình thái: Khâm phục sức học của Lan.
2.1.3. Bình diện dụng học.
Là bình diện của mối quan hệ giữa các tín hiệu ngôn ngữ và người sử
dụng, việc sử dụng trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Khi dựa vào cơ sở
dụng học thì hàng loạt các vấn đề cần xem xét như: ý nghĩa tình thái, điều
kiện sử dụng các kiểu câu, hàm ẩn, hành vi ngôn ngữ và hiệu quả của việc sử
dụng trong hoạt động giao tiếp được đặt ra.
Ví dụ: Trước lời mời của A: Cậu ở đây ăn cơm nhé.
Nếu đồng ý, B: ừ (Trả lời trực tiếp).
B: Tớ cũng đang đói đây.(Trả lời gián tiếp).
Nếu từ chối, B: Tớ không ăn đâu .(Trả lời trực tiếp).
B: Nhà mình đang chờ cơm. (Trả lời gián tiếp).
2.2. Quan niệm về câu
2.2.1. Theo ngôn ngữ học truyền thống, câu là sự tổ hợp các từ biểu thị một tư
tưởng trọn vẹn.
2.2.2. Viện sĩ hàn lâm khoa học Liên Xô V.V.Vinôgradôv cho rằng: Câu là
đơn vị hoàn chỉnh của lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các quy
luật của ngôn ngữ nhất định làm công cụ quan trọng cấu tạo, biểu hiện, truyền
đạt tư tưởng. Trong câu không chỉ có sự truyền đạt về mặt hiện thực mà còn có
cả mối quan hệ của người nói với hiện thực(1).
2.2.3. Theo Nguyễn Thiện Giáp, câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng
thông báo một sự việc, một ý kiến, tình cảm hoặc một cảm xúc(2) .
Về mặt chức năng, câu là đơn vị có khả năng thông báo.Nhờ đặc điểm
này, ta có thể phân biệt được câu với đơn vị dưới bậc của nó là từ.
(1) Câu đơn tiếng Việt - Diệp Quang Ban NXBGD, 1987 tr 16
(2) Dẫn luận ngôn ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp NXBGD, 1999 tr 266

9



Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Về mặt cấu tạo, trong số các đơn vị thông báo, câu là đơn vị thông báo
nhỏ nhất.
Định nghĩa này còn khẳng định, câu là đơn vị ở bậc ngôn ngữ tức là đơn
vị trừu tượng, chỉ có thể nhận thức được thông qua các biến thể trong lời nói.
Các biến thể này gọi là phát ngôn.
2.2.4 Theo Diệp Quang Ban, câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ chức ngữ
pháp của một ngôn ngữ. Theo đó, việc nghiên cứu câu chỉ dừng ở đặc trưng
cấu trúc của nó(1).
Những câu dùng trong thực tiễn giao tiếp là một phát ngôn ngắn hay
phát ngôn có độ dài bằng câu chứ không phải câu - cấu trúc.
Việc nghiên cứu ngôn ngữ ngày nay không chỉ dừng lại ở mặt cấu trúc
của ngôn ngữ, đối với câu cũng vậy, tức là cần xem xét câu trong sự hoạt động
gắn với từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
2.2.5. Đỗ Hữu Châu viết: Câu là đơn vị cú pháp quen thuộc được xem là lớn
nhất của ngữ pháp tiền dụng học(2).
Vì thế, ngữ pháp học trước dụng học sẽ lấy câu làm đơn vị trung tâm,
đơn vị cơ bản để nghiên cứu.
câu được quan niệm có hai mặt trừu tượng và cụ thể.
Về mặt trừu tượng: nó là mô thức hay mô hình kết học do những đơn vị
trừu tượng kết hợp với nhau theo những quy tắc chủ yếu là tuyến tính.
Về mặt cụ thể: Các câu trừu tượng sẽ được làm đầy bởi các đơn vị từ
vựng cụ thể.
Về mặt nghĩa: ngữ pháp trước dụng học, người ta chỉ xem xét câu ở
chức năng biểu hiện (phản ánh) miêu tả các sự tình và ít quan tâm tới chức

năng hành động (câu chính là phương tiện để thực hiện những hành động bằng
lời). Đây chính là mặt hạn chế của ngữ pháp tiền dụng học.
(1)Ngữ pháp tiếng Việt - Diệp Quang Ban NXBGD, 2000
(2) Đại cương ngôn ngữ học tiếng Việt- Đỗ Hữu Châu NXBGD, 2001

10


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

2.3. Phân loại câu
2.3.1. Câu phân theo cấu tạo ngữ pháp
2.3.1.1. Câu đơn:
Câu đơn là câu được làm thành từ một cụm chủ ngữ- - vị ngữ. Chủ
ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau.
Ví dụ: Buổi chiều, tôi thường chơi thể thao.
2.3.1.2. Câu phức:
câu phức là câu chứa từ hai cụm chủ - vị trở nên, trong đó có một
cụm chủ - vị bao những cụm chủ - vị còn lại. Những cụm bị bao bên trong
cụm chủ - vị đó giữ vai trò thành phần câu.
Ví dụ: Chim én bay về báo hiệu mùa xuân đến.
2.3.1.2. Câu ghép:
Câu ghép là câu chứa từ hai cụm chủ - vị trở nên và các cụm chủ vị này không bao nhau (nằm ngoài nhau). Kiểu cấu tạo của câu ghép được
xác định bằng cách nối kết các vế trong câu.
Ví dụ: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
2.3.2. Câu phân theo mục đích nói
2.3.2.1. Câu kể:
Câu kể là câu dùng để kể, nêu, mô tả sự kiện, sự vật, hiện tượng,

hoạt động, trạng thái, tính chất, chủng loại của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Chị ấy rất thông minh.
2.3.2.2. Câu hỏi:
Câu hỏi là loại câu nêu ra điều thắc mắc và yêu cầu được trả lời.
Ví dụ: Bao giờ cậu đi Hà Nội?
2.3.2.3. Câu cầu khiến:

11


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Câu cầu khiến là loại câu thể hiện ý muốn, mệnh lệnh của người
truyền đạt. Mục đích của câu cầu khiến là hướng tới người nghe thực hiện
điều nêu ra trong câu.
Ví dụ: Cậu hãy đóng hộ mình cửa sổ nhé.
2.3.2.4. Câu cảm thán:
Câu cảm thán là loại câu biểu thị cảm xúc. Với loại câu này, ngữ
điệu là một phương tiện biểu hiện rất quan trọng. Ngoài ra, còn có dấu
chấm than và các tiểu từ tình thái: à, ư, nhỉ, nhé
Ví dụ: Trời nóng quá đi thôi!
2.3.3. Câu trong hoạt động giao tiếp
2.3.3.1 Cách dùng câu phân theo mục đích nói.
Dùng theo lối trực tiếp.
Là cách dùng câu đúng với mục đích vốn có của nó. Dùng câu kể để
miêu tả hay là để xác nhận, phủ nhận; dùng câu hỏi để nêu ra điều thắc mắc
hoặc dùng câu cầu khiến để đưa ra yêu cầu; dùng câu cảm thán để thể hiện
những thái độ, những cảm xúc khác nhau.

Dùng lối nói gián tiếp.
Là cách dùng bốn loại câu (kể, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán) với mục
đích không vốn có của nó, nghĩa là hành động vốn có hiệu lực ở lời này được
dùng thay cho một hành động ở lời khác nhằm đạt hiệu quả giao tiếp với một
mục đích khác. Có thể dùng câu kể để bày tỏ sự mong muốn hoặc để đưa ra
một mệnh lệnh hoặc để thách thức, để đe doạ hoặc để xin lỗi, cảm ơn hay là
để thề.
Có thể dùng câu hỏi để nhờ vả, yêu cầu, đe doạ, để khẳng định, rủ rê,
than thở hoặc để thanh minh, từ chối.
Ví dụ: Nước trong bể hết rồi đấy.

12


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Hình thức là câu kể nhưng có mục đích khác, nhắc nhở, yêu cầu, sai
khiến người nghe bơm nước đầy vào bể.
Trong thực tế hoạt động giao tiếp, người ta thường dùng lối nói gián
tiếp nhiều hơn. Bởi sử dụng lối nói gián tiếp sẽ tạo được sự tế nhị sâu sắc và
đòi hỏi người nghe phải suy luận. chính sự suy luận của người nghe đã tạo ra
sự phong phú đa dạng trong sự nhận thức về câu tiếng Việt. Muốn sử dụng
theo lối gián tiếp thì phải chuẩn bị một ngữ cảnh tốt để cho người nghe tiếp
nhận lời phát hiện ra mục đích giao tiếp đó. Đây chính là cơ sở quan trọng để
hiểu đúng ý nghĩa hàm ngôn một cách trọn vẹn và sâu sắc.
2.3.3.2 Phân biệt câu - cấu trúc và câu lời nói (Câu và phát ngôn).
Câu được hiểu là một đơn vị ngôn ngữ có tính tái sinh. Nó được nhắc đi
nhắc lại trong lời nói.

Ví dụ: Mô hình Nếu C-V thì C-V có thể lắp vào đó nhiều câu.
Câu là sự trừu tượng hóa từ nhiều phát ngôn. Đó là một bộ khung ngữ
pháp dùng chung để cấu tạo hàng loạt những phát ngôn mới. Câu chỉ được
hoạt động thực sự dưới dạng phát ngôn.
Phát ngôn là đơn vị thuộc lời nói, không có tính tái sinh để thể hiện một
nội dung mới. Nó là những biến thể lời nói của câu.
Phát ngôn được hiểu là một hành động giao tiếp, một đơn vị thông báo
mà người nghe có thể tiếp nhận được trong điều kiện giao tiếp bằng ngôn ngữ
nhất định.
Phát ngôn chính là cách biểu thị cụ thể trong từng lúc của câu.
Ví dụ, từ mô hình câu nghi vấn có thể tạo ra nhiều phát ngôn nhưng nó chỉ có
ý nghĩa nhất định trong một hoàn cảnh nhất định.
Với mục đích nhắc nhở trật tự.
Đối với học sinh mẫu giáo, cấp 1 có thể phát ngôn:
Trật tự.
13


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Im mồm.
Với học sinh cấp 2, cấp 3 ,cùng mục đích đó lại phải sử dụng phát ngôn
khác:
Đề nghị các em trật tự.
Các em có biết là tôi đang giảng bài không?
2.4 Các thành phần nghĩa của câu tiếng Việt
2.4.1. Nghĩa của phát ngôn xét theo quan hệ hướng ngoại.
Xét theo quan hệ bên ngoài, mỗi phát ngôn đều biểu thị một nội dung

nào đó, tức là đều có nghĩa. Nội dung biểu thị gồm 2 phần:
Thành phần biểu thị thông tin về đối tượng được đề cập: thành
phần này làm cho mọi phát ngôn đều mang thông tin.
Thành phần biểu thị tình cảm của người nói về đối tượng được
đề cập và người nghe: thành phần này làm cho phát ngôn
không giống các tín hiệu khác như: cử chỉ, đèn giao thông
Phát ngôn không phải là hệ tín hiệu thuần thông tin mà là hệ
tín hiệu thông tin - biểu cảm.
Trong phát ngôn, thành phần nghĩa biểu thị thông tin và thành phần
nghĩa biểu thị tình cảm thống nhất với nhau, thể hiện qua câu chữ hoặc ở phía
sau câu chữ, làm thành nội dung của phát ngôn.
Ví dụ: Có những câu văn về trăng.
Giăng là cái liềm vàng giữa đống sao. Giăng là cái đĩa bạc
trên thảm nhung da trời. Giăng toả mộng xuống trần gian. Giăng tuôn suối
mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn.
Đối với thị, giăng chỉ là đỡ tốn hai xu dầu.
(Giăng sáng Nam Cao)

14


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

ở ví dụ 1, mỗi câu, ngoài thành phần nghĩa biểu thị thông tin về hình
dáng, đường nét, màu sắc, vị trí ánh sáng của trăng còn có thành phần biểu thị
tình cảm, những cảm xúc thơ mộng về trăng.
ở ví dụ 2, bên cạnh thành phần nghĩa biểu thị thông tin về công dụng
của trăng còn có thành phần nghĩa biểu thị tình cảm - sự thờ ơ, nhạt nhẽo đối

với trăng.
Như vậy, nghĩa biểu thị thông tin của phát ngôn do tổng thể nghĩa của
từ ngữ đặt trong mỗi câu tạo nên. Nghĩa biểu thị tình cảm của phát ngôn do
sắc thái biểu cảm dương tính (đánh giá tốt về đối tượng, có thái độ tốt với
người nghe), âm tính (đánh giá không tốt về đối tượng, không có thiện cảm
đối với người nghe) hay trung hoà của các từ ngữ mang lại.
2.4.2. Nghĩa của phát ngôn xét theo quan hệ hướng nội
2.4.2.1. Nghĩa tường minh.
Khái niệm.
ý nghĩa tường minh (hay ý nghĩa hiển ngôn hoặc có người gọi là ý
nghĩa theo câu chữ của phát ngôn) là nghĩa được xác định căn cứ theo câu chữ
của phát ngôn. ở đây, nghĩa của phát ngôn được xét trong quan hệ trực tiếp
với mẫu câu và từ ngữ.
Vai trò.
Nghĩa tường minh trực tiếp biểu thị thông tin về đối tượng được đề cập
trong phát ngôn.
Ví dụ: Soan còn nhớ như in cái hôm Triều bỏ nhà ra đi hậu phương
(Tô Hoài)
Nghĩa tường minh: kể, khẳng định chủ thể (Soan) đã và đang tiếp tục
(còn) tái hiện trong đầu óc điều có thực xảy ra trong dĩ vãng (nhớ như in) cái
hôm chồng (Triều) bỏ nhà ra vùng kháng chiến.

15


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Nghĩa tường minh không trực tiếp biểu thị thông tin về đối tượng được

đề cập mà chỉ là căn cứ để suy ra nghĩa hàm ẩn, suy ra điều được nói đến.
Ví dụ: Chị Hoàng cười rú lên. Tôi cũng cười nhưng có lẽ cái cười chẳng được
tươi cho lắm. Anh thấy cần phải thề lần nữa:
- Tôi có bịa thì tôi chết.
Mẫu câu: Điều kiện A thì kết quả B.
Ta thấy điều kiện được nói đến trong phát ngôn này không phải là điều
kiện A thì kết quả B mà là không A. Đó là: tôi không bịa, tôi không chết
(không B), tức là tôi không bịa (không A).
Phân tích nghĩa tường minh của phát ngôn.
Muốn xác định nghĩa tường minh của phát ngôn phải dựa vào nghĩa của
mẫu câu và nghĩa của từ ngữ trong phát ngôn.
Trước hết, xác định nghĩa của mẫu câu theo hai cách phân loại: phân
loại theo mục đích nói (câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu
cảm thán); phân loại theo cấu trúc (câu đơn, câu ghép).
Sau đó, đặt từ ngữ vào mẫu câu để rút ra nghĩa tường minh.
Ví dụ: Ông mua chứ ông có xin nhà mày đâu ! Mày tưởng ông
quỵt hở ?
(Nam Cao)
ở câu thứ nhất, mẫu câu A chứ B đâu, từ chứ có nghĩa phủ định
khả năng B ngược lại A. Vậy câu này có nghĩa là Ông mua, không có
điều ngược lại là ông xin. Suy ra mua thì phải đưa cho người hỏi mua (xin
thì có thể đưa hoặc không đưa), như vậy phải đưa. ở câu 2 , mẫu câu C-V
hở chú ý động từ tưởng.Tưởng có nghĩa là nghĩ và tin vào điều không
phải như vậy, không có thật. Nghĩa tường minh của câu này là: mày nghĩ và
tin vào điều không có thật là ông quỵt phải không. Từ đó, suy ra điều được nói
,bác bỏ ý nghĩ cho là ông quỵt.
16


Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Bình

Như vậy, cùng với mẫu câu, các phụ từ, các quan hệ từ đơn và sóng
đôi, các động từ chỉ trạng thái hoạt động tiếp thụ cũng có vai trò thể hiện tính
tình thái của phát ngôn . Khi phân tích nghĩa tường minh, cần chú ý khai thác
các loại từ đó để hiểu hết được ý nghĩa tường minh.
2.4.2.2. Nghĩa hàm ẩn (Hàm ẩn không tự nhiên)
Nghĩa hàm ẩn là nghĩa không lộ ngay trên bề mặt câu chữ mà nó được
suy ra từ nghĩa tường minh bởi một căn cứ nào đấy. Căn cứ đó là các tình
huống khác nhau, cách thức sử dụng mẫu câu, từ ngữ và các quy tắc suy nghĩ
hợp lôgic.
Hàm ẩn không tự nhiên là loại nghĩa hàm ẩn nằm trong ý định truyền
báo của người nói và cái ý định đó phải được người nghe nhận biết. Hàm ẩn
không tự nhiên bao gồm tiền giả định và hàm ngôn.
Tiền giả định. (TGĐ)
C. Kerbrat Orecchionni xem TGĐ là những thông tin mặc dù không
được truyền báo một cách tường minh (tức là không cấu thành đối tượng
truyền báo chân chính của thông điệp) nhưng phải tự động diễn đạt bởi tổ
chức hình thức của phát ngôn nằm sẵn trong tổ chức của phát ngôn bất kể
hoàn cảnh phát ngôn như thế nào.
Như vậy, TGĐ là những căn cứ hiểu biết cần thiết đã được các nhân vật
giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào chúng để người nói tạo ra ý nghĩa
tường minh. TGĐ ít phụ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp.
Ví dụ: Anh ta đang lo đám tang cho bà mẹ vợ khó tính của anh ta.
Các TGĐ:

- Anh ta đã có vợ.
-Anh ta có mẹ vợ.
-Mẹ vợ anh ta khó tính.

-Mẹ vợ anh ta mới chết.

Một số kiểu TGĐ: TGĐ tồn tại, TGĐ thực, TGĐ hư, TGĐ phản thực,
TGĐ từ vựng, TGĐ cấu trúc
17


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Ví dụ: Nó mong có một chiếc xe đạp.
TGĐ: Nó không có xe đạp.
Hàm ngôn
Theo Durrot: Cách nói hàm ngôn vừa có hiệu lực của nói năng, vừa có
sự vô can của im lặng.
Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ nghĩa tường minh
và TGĐ của ý nghĩa tường minh. Hàm ngôn nằm trong phát ngôn và lệ thuộc
sâu sắc vào ngữ cảnh giao tiếp.
Một số kiểu hàm ý: hàm ý hội thoại dùng chung, hàm ý hội thoại dùng
riêng, hàm ý thang độ
Ví dụ: Hàm ý hội thoại dùng riêng.
Ví dụ: A: Em có biết bây giờ mấy giờ rồi không?
B: Thưa cô, xe em bị thủng săm ạ.
Chuyện cô giáo hỏi và chuyện xe học sinh bị hỏng không có mối quan
hệ nếu xét riêng. Nhưng nếu đặt trong hoàn cảnh học trò đi học muộn thì lời
nói của cô giáo mang ẩn ý trách học trò đến lớp không đúng giờ. Học sinh
hiểu điều đó nên giải thích lý do (Xe bị thủng săm nên không đến lớp đúng
giờ được).
2.4.2.3.Cơ chế tạo nghĩa hàm ẩn không tự nhiên

Về mặt nguyên tắc: muốn tạo ra ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên, người
nói một mặt phải tôn trọng các quy tắc dụng học và giả định rằng người nghe
cũng biết và tôn trọng chúng. Mặt khác, người nói cố ý vi phạm vào chúng và
giả định rằng người nghe cũng ý thức được chỗ vi phạm đó của mình.
ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên sẽ xuất hiện và được lí giải từ chỗ vi
phạm này.
Vi phạm quy tắc chiếu vật, chỉ xuất.
Ví dụ: Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương
18


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Nghĩa tường minh: Bài thơ miêu tả cái bánh trôi và quá trình làm bánh .
Nghĩa hàm ẩn: Hình ảnh người con gái và thân phận chìm nổi của người con
gái trong xã hội phong kiến.
Sự vi phạm: hình ảnh thân em ứng với nhiều nghĩa: hình ảnh bánh trôi
nước, hình ảnh người phụ nữ.
Vi phạm về quy tắc chi phối hành vi ngôn ngữ.
Sự vi phạm bốn quy tắc chi phối hành vi ngôn ngữ (điều kiện phải có
nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện
căn bản ) sẽ tạo ra hành vi ngôn ngữ gián tiếp.
Ví dụ: Trong giao tiếp của người Việt, nhiều hành vi ngôn ngữ trở thành
công thức (nghi thức) nói năng. Chẳng hạn, hỏi để chào (là những câu hỏi

rỗng về nghĩa), hỏi để trách móc
Bác đi đâu đấy ạ?
Sao bây giờ mới về?
Vi phạm quy tắc lập luận
Ví dụ: Trong lời hội thoại giữa Hộ và Từ:
à phải! Hôm nay là mùng 3Giá mình không hỏi thì tôi quên. Tôi phải đi
xuống phố.
Luận cứ: Hôm nay là mùng 3.
Kết luận: Tôi phải đi xuống phố.
Câu nói chưa rõ nghĩa vì thiếu một luận cứ quan trọng: mùng 3, toà
soạn trả tiền nhuận bút, từ đó mới dẫn đến kết luận.
19


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Vi phạm quy tắc hội thoại
Đó là sự vi phạm 3 quy tắc hội thoại: luân phiên, lượt lời, quan hệ liên
nhân và phép lịch sự; liên kết hội thoại.
Vi phạm quy tắc luân phiên lượt lời ở hai hướng: cắt lời hoặc cướp lời;
Ngừng quá lâu giữa hai lượt lời, không có lời đáp.
Vi phạm quy tắc liên kết hội thoại thể hiện ở sự vi phạm lượng, vi phạm
chất, vi phạm về quan yếu, vi phạm cách thức.
Dựa vào lẽ thường
Lẽ thường là những chân lí thông thường có tính chất kinh nghiệm được
mọi người trong cộng đồng thừa nhận. Lẽ thường được hình thành trong
quá trình sống, quá trình giao tiếp vá được tích luỹ, truyền đạt từ lớp
người này sang lớp người khác. Lẽ thường là một duyên cớ để người

nghe lĩnh hội ý định của người nói.
Lẽ thường mang theo tính chất cá nhân của từng người trong một hoàn
cảnhgiao tiếp cụ thể. Nó phụ thuộc sâu sắc vào ngữ cảnh.
Ví dụ : Nhà bác còn gạo không ?
Trong trường hợp này, người hỏi không chủ tâm hỏi về sự cònhếtgạo mà hỏi là để vay. Người nghe sẽ hiểu ngay ý của người nói. Bởi
theo lẽ thường, người Việt Nam khi vay một cái gì thường hỏi gián tiếp,
hỏi mà không cần trả lời.
Trên đây là những cơ sở lí luận quan trọng, cần thiết cho việc lí
giải ý nghĩa hiển ngôn và hàm ngôn trong truyện cười dân gian Việt
Nam. Dựa vào những cơ sở lí luận này, người viết có thể đề ra hướng
tiếp cận, khai thác đề tài một cách khoa học và thấu đáo. Đó chính là
chìa khoá mở ra những ẩn số đằng sau tiếng cười dân gian Việt.

20


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

CHƯƠNG 2: HIểN NGÔN, HàM NGÔN TRONG TRUYệN CƯờI DÂN
GIAN VIệT NAM
1. Hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản văn chương.
1.1 Quan niệm về hiển ngôn, hàm ngôn trong văn chương.
Xét về mặt ngữ nghĩa, văn bản nghệ thuật (tác phẩm văn chương) là một
trong những kiểu văn bản thường chứa đựng nhiều thành phần nghĩa. Nói một
cách khái quát, có thể bàn đến hai thành phần nghĩa của văn bản nghệ thuật là
hiển ngôn và hàm ngôn.
Nghĩa hiển ngôn của văn bản là nghĩa nhận biết được trực tiếp từ những
từ ngữ nói chung và cách sắp xếp (bố cục) chúng trong văn bản. Thông

thường, nghĩa hiển ngôn của văn bản nghệ thuật mang tin về sự vật (Nói cái
gì?).
Hàm ngôn của văn bản là cái ý, cái nội dung rút ra được từ hiển ngôn
của văn bản (Nói thế là có ý gì?).
1.1.1. Câu hỏi Nói cái gì? và nghĩa hiển ngôn.
Nói có thể là miêu tả hay tự sự. Miêu tả có thể là tả cảnh, tả người, tả
tâm trạngTự sự có thể là kể chuyện, kể sự việc. Tất cả đều được thể hiện
một cách trực tiếp ngay trên từ và câu trong tác phẩm văn chương. trả lời cho
câu hỏi Nói cái gì? chính là đi tìm hiển ngôn.
đọc xong Truyện Kiều ta có thể biết: đây là câu chuyện về cô Vương
Thuý Kiều có tài sắc, có tình người, có tình thương cha mẹ và các em, gặp cơn
gia biến phải bán mình để cứu cha và em, rơi vào lầu xanh hai lần, trải qua
nhiều cơn nhục nhã, ê chề Đó là nghĩa hiển ngôn nhận biết được qua từ ngữ,
câu thơ trong Truyện Kiều.
1.1.2. Câu hỏi Nói thế là có ý gì? và nghĩa hàm ngôn

21


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

ý ở đây có thể là ý tưởng hay tình cảm. ý được suy ra từ các tình
huống, từ ngữ và mẫu câu. Trả lời cho câu hỏi Nói thế là có ý gì? chính là đi
tìm hàm ngôn.
Miêu tả một cô gái tài sắc: Một hai nghiêng nước nghiêng thành lại
phải trải qua Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần (Truyện Kiều) là có ý gì?
Từ nghĩa hiển ngôn, ta có thể đặt nhiều câu hỏi khác nhau để tìm hiểu
có ý gì?. Muốn trả lời những câu hỏi này phải xuất phát từ nghĩa tường

minh và những lý do khác ngoài nghĩa tường minh. Như vậy, xác định nghĩa
hàm ẩn trong văn chương không đơn giản chỉ là công việc phân tích thuần tuý
ngữ nghĩa mà còn cần đến những kiến thức ngoài ngữ nghĩa.
1.2 Phân tích hiển ngôn và hàm ngôn trong văn chương.
Với loại câu hỏi miêu tả, tự sự những cái gì; miêu tả, tự sự như thế
nào? là nhằm tìm ra nghĩa hiển ngôn. Loại câu hỏi miêu tả, tự sự như vậy là
có ý gì, biểu thị tình cảm gì? là nhằm tìm ra ý nghĩa hàm ngôn.
Mọi người có thể dễ thống nhất với nhau trong việc xác định nghĩa hiển
ngôn bởi vì nghĩa này được bộc lộ ngay trên mẫu câu và từ ngữ. đối với nghĩa
hàm ngôn của tác phẩm văn chương, căn cứ để suy ra nghĩa hàm ngôn ở đây
không chỉ có ý nghĩa hiển ngôn mà còn có những căn cứ khác ngoài hiển ngôn
như: nhận thức, quan niệm, tư tưởng, tình cảm, vốn sống của người tiếp
nhận
Ví dụ: Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Đây là lời của chàng trai nói với cô gái vào một đêm trăng thanh.Chàng muốn
hỏi cô gái: tre đã đủ lá, có nên đan sàng hay không.
Tuy nhiên, lời chàng trai ở đây có hàm ý sâu xa hơn. Đó là lời tỏ tình tế
nhị rất có duyên. Tre non đủ lá là điều kiện kết duyên đã tới, đã được chuẩn
bị đầy đủ. Chuyện đan sàng là chuyện kết duyên vợ chồng. Chàng trai muốn
ướm hỏi cô gái làm vợ.
22


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Trong đoạn thơ: Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ

Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ.
(Hoàng Lộc)
điều nhận biết rõ ràng là sự việc xảy ra hôm qua và hôm nay: hôm qua, bạn
còn sống; hôm nay bạn đã hy sinh.
Những câu thơ trên ẩn chứa diễn biến tình cảm rất tinh tế. Đó là tình cảm
đau xót, tiếc thương, bàng hoàng trước sự hy sinh đột ngột của người bạn.
Trong câu chuyện Con cáo và chùm nho (Êdốp)
Một con cáo nhìn thấy những chùm nho chín mọng liền tìm cách hái
chúng. Nhưng loay hoay mãi, cáo ta vẫn không với tới được chùm nho. Để dẹp
nỗi bực mình, cáo bèn nói:
- Nho còn xanh lắm.
Cáo không với được chùm nho trên cao, tự động viên mình rằng nho còn
xanh.
Câu nói của Cáo mâu thuẫn với thực tế là nho đã chín mọng. Từ đó mà
phê phán loại người thất bại nhưng không dám nhìn thẳng vào sự thật mà lại tự
động viên, lừa dối chính mình bằng những lý do thiếu thực tế.
Qua các ví dụ trên, có thể thấy, quan hệ giữa hiển ngôn và hàm ngôn
trong văn bản khá phức tạp: từ một hiển ngôn có thể suy ra không phải chỉ
một hàm ngôn, ngược lại cùng một hàm ngôn có thể dùng những văn bản khác
nhau để diễn đạt. Mặt khác, hàm ngôn có thể thay đổi do trình độ hiểu biết, do
tuổi tác, điều kiện sống. Qua những thời đại khác nhau, quan niệm nhân sinh
thay đổi, hàm ngôn có thể được cảm nhận khác nhau, nhất là bộ phận tin về
quan niệm.

23


Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Bình

2. Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười dân gian Việt Nam
Truyện cười dân gian Việt Nam là một tiếng cười đa cung bậc, đa sắc
điệu. Tiếng cười đó như liều thuốc tinh thần hướng con người hoàn thiện đạo
đức, nhân cách, sinh hoạt, giúp con người lạc quan, chiến thắng mọi điều đau
khổ mà con người sinh ra, tồn tại trong cuộc đời phải gánh chịu. Tiếng cười
nâng con người cao hơn trong cuộc sống, cảm thấy cuộc sống có giá trị, quý
báu, hướng về tương lai tốt đẹp, lạc quan ngay cả trong nỗi niềm đau khổ nhất.
Tiếng cười vừa là để giáo dục cho con người, vừa là để tồn tại và phấn đấu đi
lên.
Tiếng cười có thể bật lên ngay khi tiếp xúc với từ ngữ trong văn
bản,tiếng cười có thể xuất phát từ những ý nghĩa sâu xa,từ hàm ngôn của văn
bản.Tuy nhiên,để hiểu thấu đáo và trọn vẹn hàm ngôn của một văn bản lại rất
khó khăn,phức tạp.Với 342 truyện cười trong kho tàng truyện tiếu lâm Việt
Nam, nếu nhận diện tiếng cười xuất phát từ hàm ngôn dựa trên sự vi phạm
các quy tắc dụng học và dựa vào lẽ thường sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp.
Bởi vì, trong một truyện cười, ý nghĩa hàm ngôn có thể được tạo ra từ sự vi
phạm nhiều quy tắc dụng học.Do vậy,việc khảo sát, phân tích hiển ngôn và
hàm ngôn nên dựa trên hệ thống nhân vật tồn tại trong tuyển tập.

2.1 Hiển ngôn, hàm ngôn trong truyện cười về người nông
dân.
Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm khoảng 90% dân số.Cho
nên, số lượng truyện tiếu lâm về người nông dân chiếm một tỷ lệ khá lớn.Tác
giả nông dân tự nói về mình, tự kể và nói một cách chân thành các thói hư tật
xấu của mình.
2.1.1 Thói xấu trong ăn uống
Thói ăn vụng
Khóc mẹ chồng là một câu chuyện hài hước về thói ăn vụng.


24


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Thanh Bình

Có một chị mẹ chồng chết, khóc mãi đến nỗi khô cả cổ. Đang khóc
bỗng trông lên mâm ngũ quả ở bàn thờ thấy có quả quýt, chị ta với tay trộm
một quả. Chẳng may với hụt, quả quýt rơi xuống đất. Chị ta lấy chân vừa khều
vừa khóc:
- ối mẹ ơi là mẹ ơi! Từ giờ một ngày một xa, con biết làm sao
đượcmẹ ơi là mẹ ơi.
Trong lời nói của người con dâu vừa có sự vi phạm quy tắc chi phối
hành vi ngôn ngữ ở điều kiện chân thành, vừa vi phạm quy tắc liên kết hội
thoại (vi phạm cách thức). Nó tạo ra ý nghĩa hàm ẩn: tình cảm mẹ chồng nàng
dâu không có sự gắn bó, tiếc thương. Chuyện khóc mẹ chồng chỉ là hình thức
che mắt thế gian. Sự vi phạm điều kiện chân thành thể hiện ở lời khóc mẹ
thảm thiết mâu thuẫn với hành động ăn trộm quýt trên bàn thờ. Sự vi phạm
cách thức thể hiện ở cách nói mập mờ của người con dâu: Từ giờ một ngày
một xa, con biết làm sao được. Có thể hiểu tường minh là lời người con dâu
tiếc nhớ mẹ chồng vì mẹ mất là cách xa vĩnh viễn. Với sự ra đi này, nàng dâu
không muốn xa mẹ chồng nhưng không làm gì được để thay đổi tình thế.
Nhưng người đọc vẫn nhận biết rõ hàm ngôn trong câu nói: từ giờ một ngày
một xa là quả quýt chị ta với hụt rơi xuống đất mỗi lúc một lăn xa tầm tay
của chị ta và con biết làm sao được thể hiện sự bất lực của chị ta trong
trường hợp này. Chị không thể vừa khóc mẹ chồng vừa ra nhặt quýt để ăn.
Câu chuyện Trứng ngót hàm ngôn lại được tạo ra từ sự đối lập với lẽ
thường: Một chị nọ về làm dâu chưa quen nấu nướng luộc rau thấy bị ngót đi

nhiều quá chị ta sợ ngồi khóc. Mẹ chồng hỏi chuyện, giải thích cho nàng dâu
khi luộc, rau bị ngót đi là lẽ thường. Lần sau, luộc 5 quả trứng chị ta ăn mất 2
quả. Mẹ chồng thắc mắc, chị ta thản nhiên trả lời: Tại nó ngót đi đấy mẹ ạ.
Lời giải thích của người con dâu bộc lộ một sự vô lý, trái với lẽ thường.
Bởi luộc rau có thể ngót đi chứ trứng khi chín vẫn nguyên quả, không có sự
hao hụt. Cô con dâu đã vận dụng lời giải thích của mẹ chồng về việc luộc rau
bị ngót để biện minh cho thói ăn vụng của mình. Đó có thể là sự giải thích
ngốc nghếch nhưng cũng có thể là sự nhanh trí. Người con dâu có thể vin vào
25


×