Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.34 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ HỒNG LÊ

TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ HỒNG LÊ

TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các cơng
trình khoa học trước đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình
khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TẠ HỒNG LÊ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI
PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................7
1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ...7
1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm .10
1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ....15
1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm. .................................................................................................................18
1.5. Mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự ......................21
1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm......................................................................................................29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .33
2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về tranh luận của người
bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm .................................................................33

2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2014 – 2018 ...........................................................................................................41
2.3. Thực tiễn thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh ...........................................................................42
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ
THẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .........................................................67
3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh .........................................................67
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh .........................................................72


KẾT LUẬN ..............................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX


Hội đồng xét xử

HSST

Hình sự sơ thẩm

HTND

Hội thẩm nhân dân

TAND

Tịa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.Số liệu thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp
trênđịa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018.
Bảng 2.2.Tỷ lệ giải quyết án hình sự sơ thẩm có người bào chữa tham gia trên
tổng số vụ án thụ lý của TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.3. Quyết định của HĐXX về giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND
hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
“Tranh luận là cái gốc của sự thật”, vấn đề này đã được các triết gia Hy Lạp
nhận thức từ thời cổ đại và cho đến bây giờ việc tranh luận tại phiên tịa vẫn ln là
một bước khơng thể thiếu được của trình tự xét xử vụ án tại phiên tịa.Trong tiến
trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề quyền con người, quyền công
dân và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nhất là trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự. Để đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự, trong các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà
nước đã quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đảm bảo quyền tranh luận
của người bảo chữa tại phiên tịa.
Với khía cạnh tranh tụng, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thể hiện rõ là “nâng
cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng
dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Tiếp
đến cần nhắc đến Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 nêu lên rằng “nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Cụ
thể hóa các Nghị quyết của Đảng, trong Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật có
liên quan đã quy định về vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử. Một trong những
điểm cụ thể hố đó là Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 ghi nhận: “…Mọi chứng cứ
xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội
danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng
và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh
luận, làm rõ tại phiên tịa...”.
Thực hiện ngun tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, pháp
luật đã có những quy định đảm bảo cho việc tham gia của người bảo chữa và đảm

1



bảo thực hiện hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Thực tế
tranh luận của người bảo chữa tại phiên tịa có vai trị hết sức quan trọng
trong quá trình xét xử vụ án hình sự, một mặt góp phần đảm bảo quyền của
bị cáo trong việcnhờ người khác bào chữa, mặt khác còn bảo đảm cho q
trình phân tích, đánh chứng cứ của vụ án ngay tại phiên tịa, góp phần giúp
Hội đồng xét xử đưa ra những biện pháp xử lý, giải quyết vụ án phù hợp với
yêu cầu của pháp luật.
Tuy nhiên, trong thực tiễn việc tranh luận của người bào chữa trong
nhiều phiên tồ hình sự cịn chưa đáp ứng u cầu. Nhiều phiên tịa khơng có
người bào chữa tham gia, trách nhiệm và năng lực của người bào chữa vẫn
còn nhiều bất cập. Có phiên tồ chưa thật sự dân chủ, quyền bào chữa của
người bào chữa chưa được tôn trọng. Số án sơ thẩm bị huỷ, bị cải sửa ở cấp
phúc thẩm, giám đốc thẩm hằng năm vẫn còn xảy ra nhiều.
Từ thực tế đó, tác giả luận văn thấy rằng việc làm rõ các quy định của
pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tranh luận của
người bào chữa trong phiên tịa hình sự nhằm đánh giá các kết quả đạt được,
làm rõ các hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất được các giải pháp hoàn
thiện pháp luật và tăng cường chất lượng thực hiện tranh luận của người bảo
chữa tại phiên tịa hình sự là hêt sức cần thiết. Do đó, tác giả luận văn lựa
chọn đề tài: “Tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành:
Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới đề tài Tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đến nay trong nước đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, trong số đó tiêu biểu có các cơng trình sau:
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Bảo Trâm năm 2008,
trường Đại học Quốc gia Hà Nội là: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tác giả đã khái quát, lý luận chung về

2


nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của các đối tượng trong quá trình điều tra truy
tố xét xử như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Vũ Thế Lân (2014), Bảo đảm bình đẳng trong quan hệ tố tụng, Báo Nhân
dân, (215), tr.7. Bài viết đã nhận định Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
- Tác giả Dương Thanh Biểu với tác phẩm sách tham khảo “Tranh luận tại
phiên toà sơ thẩm” do NXB Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2007. Cơng trình nghiên
cứu chun sâu đã đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật về
các trình tự nội dung, kỹ năng liên quan đến việc tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm.
- Tác giả Lê Hữu Thể với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Vấn đề tranh
tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” do Nxb Tư
pháp Hà Nội phát hành năm 2008. Nội dung đề tài góp phần làm rõ hơn tinh thần,
nội dung tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08, 49 của Bộ Chính trị.
- Bài nghiên cứu của Hồ Nguyễn Quân năm 2013, “Một số giải pháp
nhằm

nâng

cao

chất

lượng tranh tụng tại phiên tòa”, tại trang

Bài viết này đã phân tích được

quy định của pháp luật về TTHS Việt Nam với một số vấn đề liên quan trong tranh
tụng tại phiên tịa.
- Liên quan đến giai đoạn điều tra có Luận văn Thạc sĩ năm 2009 của tác giả
Lê Hồng Sinh năm: “Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận
và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra VAHS với số liệu thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận về chức năng bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra có nghiên
cứu trong Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thủy năm 2017 là đề tài “Chức năng
bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố
Hà Nội”. Luận văn trên cơ sở lý luận dưới cách tiếp cận khoa học về TTHS, đồng
thời đã làm rõ hơn quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bào chữa
của Luật sư với các dữ kiện thực tiễn tại thành phố Hà Nội.

3


Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vị trí, vai trị, các
ngun tắc của hoạt động tranh tụng tại các phiên tịa hình sự, vị trí vai trị
của người bào chưa trong phiên tịa hình sự. Đặc biệt, các cơng trình trên đã
đề cập đến thực tiễn pháp luật Việt Nam và thực hiện pháp luật Việt Nam về
hoạt động tranh tụng trong các phiên tịa hình sự để từ đó thấy được những
mặt tích cực, cũng như những tồn tại, hạn chế trong pháp luật về hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa hình sự ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, chưa có cơng trình nào trực tiếp nghiên cứu về vấn đề tranh
luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm nói chung, gắn với địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng và hiệu quả thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ðể thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức lý luận về
tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
- Khảo sát thực tế, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của
pháp luật về tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và
thực trạng tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm tại
thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thực tiễn đó xem xét các kết quả đã đạt
được về mặt hiệu quả, các vấn đề cịn hạn chế chưa đạt được, bên cạnh đó
tìm kiếm làm rõ các nguyên nhân chính yếu dẫn đến những hạn chế ấy và có
hướng giải quyết.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm tại
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tranh luận của người bảo
chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tranh luận của
người bảo chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Về chủ thể: Người bào chữa.
- Về khơng gian: Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Hình sự và Tố
tụng hình sự Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu đề tài trên, tác giả đã sử dụng tổng thể và phối
hợp giữa các phương pháp nghiên cứu khoa học như sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu;
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu;
- Phương pháp tổng kết thực tiễn;
- Phương pháp điều tra điển hình;
- Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận văn hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về tranh luận của
người bảo chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.

5


- Luận văn có khả năng được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc học tập, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực luật học như luật Hình
sự và Tố tụng hình sự.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp nghiên cứu, xem xét, sửa
đổi, bổ sung những quy định của pháp luật có liên quan đến tranh tụng trong
phiên tịa hình sự sơ thẩm, đặc biệt là vấn đề tranh luận của người bảo chữa
tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.

- Là tài liệu cho người bào chữa, những người tiến hành tố tụng hình
sự và những người tham gia tố tụng hình sự tham khảo, vận dụng trong thực
hiện hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận trong quá trình xét xử.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục; nội dung được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm
Chương 2: Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về tranh luận của
người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh
luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí
Minh

6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm
Trong tố tụng hình sự, nhiệm vụ của tồn bộ quá trình tố tụng là đảm bảo
phát hiện kịp thời và xử lý minh bạch công bằng mọi hành vi phạm tội, tiêu chí là
khơng để lọt tội phạm và khơng làm oan người vơ tội; Từ đó góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người cũng như quyền cơng dân. Mặt khác nhìn nhận xa hơn
là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân; Hoặc giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu

tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quá trình tố tụng hình sự trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận,
giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được giải quyết xong. Việc xét xử
vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, phải đảm bảo hai cấp: xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm. Trong giai đoạn xét xử sở thẩm, Tòa án tiến hành xét xử công
khai trước sự tham gia đầy đủ của các bên và những người tham dự phiên tịa.
Thơng qua hoạt động xét xử, Tòa án giải quyết các vấn đề thuộc về bản chất của vụ
án, bao gồm: việc xác định có tội phạm hay khơng, nếu có tội phạm thì tội gì và
quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trong giai đoạn xét
xử các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập,
củng cố ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố được
kiểm tra công khai tại phiên tòa. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố nhằm thu thập,
củng cố chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án,
còn hoạt động xét xử chủ yếu nhằm kiểm tra, đánh giá lại các chứng cứ đã được thu
thập nhằm đảm bảo việc ra bản án của Tịa án là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy,
giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng được coi là
giai đoạn trung tâm, mang tính quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Để đảm
bảo chất lượng xét xử sơ thẩm, đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con

7


người của người bị buộc tội nói riêng, pháp luật tố tụng hình sự phải quy
định hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, người bào chữa là một chủ thể
tham gia tố tụng, khi tham gia phiên tịa hình sự sơ thẩm người bào chữa
được BLTTHS đảm bảo thực hiện hoạt động tranh luận. Trọng tâm của hoạt
động tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa xét xử sơ thẩm chính là
việc người bào chữa đánh giá chứng cứ, sử dụng lý lẽ, lập luận để đối đáp,
tranh luận với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên

tòa. Tùy vào từng vụ án cụ thể, người bào chữa sẽ lựa chọn nội dung, kỹ
năng và phương pháp tranh luận thích hợp. Việc người bào chữa thực hiện
tốt hoạt động tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phàm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đồng thời bảo
vệ tốt nhất quyền con người của người bị buộc tội.
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ
án, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội, tuy
nhiên trong pháp luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm về hoạt động
này. Theo từ điển Tiếng Việt tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải [45,
tr.943]. Như vậy theo khái niệm trên thì tranh luận có thể xuất hiện trong
việc lĩnh vực của đời sống xã hội, nội dung của tranh luận là bàn cãi, mục đíc
của hoạt động này là tìm ra lẽ phải. Đây là khái niệm chung về tranh luận
nên chưa mang tính cụ thể và chưa đầy đủ về hoạt động tranh luận của người
bào chữa trong phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Dưới góc độ pháp luật, theo thuật ngữ pháp lý thì tranh luận tại phiên
tịa là một thủ tục thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
đương sự, đồng thời làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cho việc xem xét và
quyết định về vụ án được đúng đắn [12, tr.425-453]. Như vậy, dưới góc độ
pháp lý tranh luận tại phiên tòa được tiếp cận là một thủ tục tố tụng. Việc xét
xử tại phiên tòa trải qua nhiều thủ tục khác nhau trong đó có thủ tục tranh

8


luận giữa các bên, bản chất của việc tranh luận giữa các bên là làm sáng tỏ sự thật
của vụ án, mục đích của hoạt động này giúp cho Tịa án có thể đưa ra được phán
quyết cuối cùng được đúng đắn.
Qua phân tích trên, có thể nhận khái niệm về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
của người bào chữa là một vấn đề chưa được đề cập trong các từ điển phổ thông và

từ điển pháp lý, trong khoa học pháp lý khái niệm này cũng chưa được quan tâm
nghiên cứu đầy đủ. Để xây dựng khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm thì cần xác định những đặc điểm đặc trưng của đối tượng
này. Dựa trên các đặc điểm về chủ thể của tranh luận, nội dung tranh luận, chủ thể
có trách nhiệm đảm bảo hoạt động tranh luận, mục đích của hoạt động này có thể
đưa ra khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST như sau:
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST là hoạt động tố tụng theo
quy định của Bộ luật TTHS được người bào chữa thực hiện tại phiên tịa HSST trên
ngun tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận, đối đáp của mình và
phản bác chứng cứ, lập luận của bên buộc tội về vụ án dưới sự điều khiển, quyết
định của HĐXX sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, góp
phần giải quyết vụ án đúng đắn vụ án.
Như vậy, đối với người bào chữa việc tham gia tranh luận chủ yếu và tập
trung nhất trong thủ tục tranh tụng. Theo đó, sau khi xét hỏi, HĐXX sẽ đảm bảo cho
các bên tham gia tranh luận và người bào chữa sẽ thực hiện hoạt động tranh luận
của mình để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo chữa
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích bị cáo. Phần tranh luận tại phiên tịa được xem là yếu tố
mang tính đặc trưng tiêu biểu của tranh tụng trong tố tụng hình sự bởi hai bên buộc
tội và bên bào chữa đều vận dụng tất cả những dữ liệu có từ hồ sơ, chứng cứ, và xét
hỏi trước đó cùng căn cứ pháp luật để hai bên cùng đưa ra lập luận quan điểm của
mình và nhận phản biện từ phía bên kia để tìm ra sự thật khách quan dung với bản
chất sự việc nhất, mọi diễn tiến đều diễn ra dưới sự điều hành phịng xét xử của Chủ
toạ phiên tồ. Phía buộc tội nghiêng về bảo vệ các quan điểm có trong cáo trạng,

9


cịn phía người bào chữa dựa trên cả q trình để lập luận xem cáo trạng và
lập luận của Kiểm sát viên có đúng hay khơng về tính chất và mức độ.
Về quá trình tranh luận, người bào chữa sẽ không bị hạn chế thời gian

cho việc tranhh luận làm sáng tỏ sự việc trong vụ án. Có quyền đề nghị
HĐXX làm rõ các tình tiết cịn bị bỏ sót hoặc khơng rõ ràng, trong cuộc
tranh luận theo trình tự nhất định nếu có xuất hiện các tình tiết hoặc chứng
cứ mới liên quan ảnh hưởng đến vụ án thì HĐXX sẽ quay lại phần hỏi để
làm rõ hơn các tìn tiết ấy mục đích khơng ngồi việc có được góc nhìn đa
diện hơn vụ án.
Trong sự tranh luận của các bên tại Tồ, HĐXX ln điều khiển về
mặt thủ tục để việc tranh luận đúng hướng, đúng quy định về mặt hình thức
và nội dung. Đồng thời lắng nghe và phân tích cùng nhìn nhận với vai trị
như một trọng tài, tức là không nghiêng về bên nào với sự dẹp bỏ ý chí chủ
quan khi chưa nắm bắt hết được các vấn đề một cách toàn diện. Sự phán
quyết có đúng hoặc sai bản chất phụ thuộc trong phần này rất nhiều vì hai
bên sẽ bóc tách từng vấn đề một cách khoa học logic và hình thành nên cái
nhìn khách quan hơn cho HĐXX. Từ đó mới có cơ sở bảo đảm việc nhận
định và phán quyết cuối cùng đúng người đúng tội.
1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm
Qua khái niệm đã được trình bày ở trên, có thể rút ra những đặc điểm
của tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm như sau:
Thứ nhất, tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm là hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS. Bộ luật TTHS
quy định trình tự thủ tục để khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình
sự và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tố tụng hình
sự là tổng thể các hoạt động tố tụng do cơ quan, người có thẩm quyền, người
tham gia tố tụng thực hiện theo quy định của Bộ luật TTHS để giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, Bộ luật TTHS năm 2015

10



quy định trình tự, thủ tục tiến hành phiên tịa xét xử sơ thẩm, trong đó quy định thủ
tục tranh tụng. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm theo luật
định sẽ bao gồm hai thủ tục chính yếu quan trọng: Một là thủ tục xét hỏi, hai là thủ
tục tranh luận. Việc tranh luận của người bào chữa nói riêng và những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác tại phiên tịa nói chung được thực hiện
theo trình tự, cách thức mà Bộ luật TTHS đã quy định. Tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm để thực hiện việc tranh luận với bên buộc tại và những người tham gia tố tụng
khác người bào chữa phải sử dụng chứng cứ, lý lẽ, lập luận nhằm đối đáp, phản đối
và thuyết phục những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm đánh giá
chứng cứ của mình. Việc tranh tụng phải thực hiện dưới dạng một hoạt động mang
tính chủ động, có mục đích của người bào chữa. Người bào chữa phải vận dụng
kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kỹ năng và phương pháp tranh luận phù hợp
với diễn biến cụ thể của từng vụ án để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháo cho
bị cáo mà mình bảo vệ. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận của các chủ
thể tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và hoạt độn tranh luận của người bào
chữa nói riêng Bộ luật TTHS đã quy định chặt chẽ về hoạt động này. Khi thực hiện
hoạt động tranh luận người bào chữa phải tuân thủ và thực hiện đúng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận.
Thứ hai, chủ thể của việc thực hiện tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
rất rộng, trong đó có người bào chữa. Trong tố tụng hình sự việc tranh luận tại
phiên tịa với mục đích làm rõ hơn bản chất của vụ án cũng như sự thật khách quan
đã diễn ra. Các chủ thể tham gia tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm rất rộng
bao gồm Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, đương sự, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi cho bị hại, đương sự. Như vậy, người bào chữa là một trong những chủ
thể thực hiện hoạt động tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Người bào chữa là
một chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo tại
phiên tịa, đồng thời góp phần bảo vệ sự thật khách quan của vụ án. Với địa vị và
mục đích tham gia tố tụng của người bào chữa tại phiên tòa HSST đòi hỏi Bộ luật
TTHS phải đảm bảo cho người bào chữa thực hiện hoạt động tranh luận bình đẳng,


11


công bằng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. Việc
đảm bảo hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm cũng chính là sự cụ thể hóa của ngun tắc đảm bảo quyền bào chữa
của người bị buộc tội, nguyên tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án... Đồng
thời thể hiện bản chất nhân đạo và daan chủ của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ ba, đặc điểm về nội dung, phạm vi tranh luận của người bào
chữa tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Nội dung tranh luận tại phiên tồ bao gồm nội dung chính về các vấn
đề vụ án bao gồm (1) làm rõ sự việc diễn ra bao gồm các chủ thể, tình tiết,
không gian, thời gian liên quan vụ án bằng các chứng cứ, cách thu thập xử lý
đánh giá chứng cứ, sự logic trong lập luận; (2) về việc áp dụng pháp luật
trong vệc định tội danh và đưa ra bản cáo trạng; (3) về thực hiện quy trình tố
tụng trước đó.
Theo trình tự tranh luận tại phiên tịa, Kiểm sát viên đưa ra quan điểm
như bản cáo trạng buộc tội bị cáo trên các cơ sở hồ sơ mà cơ quan điều tra
cung cấp trước đó. Lúc này về nguyên tắc đã bắt đầu xuất hiện chức năng
bào chữa. Bằng sự điều hành của Chủ toạ, việc xét hỏi để làm rõ các tình tiết
và bắt đầu theo như quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 xoay
quanh các vấn đề: Xác định về hành vi sự kiện như có hành vi phạm tội hay
khơng, ai là người thực hiện và tham gia, động cơ mục đích phạm tội, tính
chất mức độ…Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nghe ý kiến của các
nhà chuyên môn và ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan trình bày
cũng được các bên sử dụng để chứng minh cho luận điểm của mình. Thơng
qua việc điều tra công khai, trực tiếp của các chủ thể bên buộc tội, bên gỡ tội
và HĐXX tại phiên tịa; các tình tiết về vụ án được làm sáng tỏ. Lúc này, nội
dung tranh luận mới chỉ xoay quanh các vấn đề chứng minh tính hợp pháp và

giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án (thu thập,
kiểm tra, đánh giá) chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại tịa giữa

12


bên buộc tội với bên gỡ tội mà chưa bộc lộ rõ quan điểm của bên buộc tội và bên
bào chữa - là hai bên của cuộc tranh luận về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
vụ án.
Đến giai đoạn xét hỏi xong, Kiểm sát viên lập luận đưa ra quan điểm toàn bộ
về vụ án bao gồm kết hợp việc đánh giá chứng cứ với các tình tiết và kết luận trong
việc áp dụng pháp luật đối với bị cáo. Người bào chữa cũng đến phần của mình là
cũng dựa vào các tình tiết chứng cứ, cùng các đánh giá và kết luận của Viện Kiểm
sát để đưa ra quan điểm bào chữa của mình, chấp nhận hay phản bác các ý kiến của
Kiểm sát viên, những lập luận đó có phù hợp, logic và biện chứng hay khơng, việc
áp dụng quy trình tố tụng có chính xác chưa. Hay việc áp dụng pháp luật vào việc
buộc tội như vậy có chính xác thoả đáng đúng với tinh thần luật hay khơng, Kiểm
sát viên có bỏ sót vấn đề nào liên quan đến sự vô tội hay giảm nhẹ của người bị
buộc tội hay không… các vấn đề trên đều được tranh luận qua lại đến khi mọi thứ
rõ ràng minh bạch và khơng cịn những góc khuất của vấn đề, mọi thứ như trải ra
dưới sự điều hành và quan sát lắng nghe của Chủ toạ.
Như vậy, nội dung tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm là người bào chữa sẽ sử dụng chứng cứ mình thu thập được theo quy định của
Bộ luật TTTHS, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ được cung cấp mới tại
phiên tòa, đồng thời sử dụng lý lẽ, lập luận, kỹ thuật, phương pháp tranh luận phù
hợp nhằm đối đáp, phản bác, hoặc thuyết phục bên đối lập chấp nhận quan điểm mà
mình đưa ra.
Trên đây là nội dung của tranh luận tại phiên tồ hình sự, tuy nhiên nó cũng
giới hạn về phạm vi, nghĩa là có một phạm vi nội dung mà luật cho phép được tranh
luận chứ không mở rộng một cách khơng có giới hạn. Vậy Phạm vi của tranh luận

cần được xác định là như thế nào là hiệu quả.
Như đã biết, bản chất của tranh luận tại tồ là sự phản biện, có đơi khi phủ
nhận lẫn nhau về việc chứng minh sự việc, đối tượng và áp dụng pháp luật giữa hai
bên công tố và bào chữa khơng ngồi mục đích là mỗi bên đều chứng minh quan
điểm của mình dựa trên chứng cứ và pháp luật. Một mặt khác sự tranh luận này đối

13


với người bào chữa chỉ nằm trong phạm vi giới hạn của sự buộc tội. Bởi sự
buộc tội của bên công tố là mấu chốt nảy sinh ra sự tranh luận. Vì thế giới
hạn của sự buộc tội thể hiện ở phạm vi khơng lớn hơn về quy mơ tính chất
mà Kiểm sát viên cáo buộc như về như tội danh, về hành vi, về đối tượng, về
đánh giá mức mức độ về hình phạt đề nghị áp dụng… Thơng thường sự tranh
luận lại của người bào chữa sẽ không vượt qua phạm vi về dung lượng hoặc
số lượng tính chất các cáo buộc và có xu hướng mong muốn thu hẹp lại hơn
so với các cáo trạng mà bên cơng tố đưa ra.
Ngồi ra, phạm vi về mặt trình tự thủ tục thì sự tranh luận giữa các
bên được bắt đầu sau khi Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa, tức là bắt
đầu từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến xét hỏi, tranh luận, nghị án và kết thúc
khi HĐXX tuyên án.
Thứ tư, trong quá trình tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
HĐXX có trách nhiệm điều khiển cho người bào chữa tranh luận với Viện
kiểm sát và người tham gia tố tụng khác một cách cơng khai, bình đẳng, thực
chất.
Tranh luận tại phiên tồ theo trình tự thủ tục một cách cơng bằng văn
minh và trật tự đúng quy định. Với vai trò điều hành phiên tồ, HĐXX đóng
vai trị như một trọng tài, không can thiệp vào bản chất của việc tranh luận,
chỉ giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi để các bên tranh luận đúng pháp luật,
đúng vấn đề và khuyến khích sự tranh luận để từ đó có sự nhìn nhận vấn đề

rõ ràng hơn phục vụ cho việc ra phán quyết của mình. Ngồi ra trong q
trình tranh luận, HĐXX cần phải điều chỉnh các quy trình theo trình tự tố
tụng nếu việc tranh luận đi lạc chủ đề trọng tâm hoặc quá đà, căng thẳng về
mặt hình thức. Hoặc cần thiết phải quay lại phần hỏi để chứng minh nếu có
vấn đề chưa đươc làm rõ hoặc xuất hiện tình tiết mới. Có thể nói vai trị của
HĐXX trong tranh luận chỉ là người điều hành cuộc tranh luận về mặt hình
thức và thủ tục để bảo đảm sự cân bằng trong việc phát huy quyền và nghĩa
vụ của các bên trong tranh luận, khơng bên nào có sự áp đặt chủ quan về

14


quyền lực mà lấn át quyền của bên kia, không can thiệp vào nội dung tranh luận của
các bên nếu nó vẫn đang diễn ra đúng quy định.
Thứ năm, mục đích việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm. Mục đích chung của thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là làm
sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, giúp cho HĐXX có thể ra
bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích và địa
vị tham gia tố tụng của người bào chữa nên mục đích tranh luận của người bào chữa
nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần bảo
vệ sự thật của vụ án. Để đạt được mục đích này, người bào chữa phải lựa chọn nội
dung, phạm vi tranh luận phù hợp, áp dụng kiến thức, kỹ năng, ngôn ngữ tranh luận
linh hoạt. Trước khi tham gia tranh luận tại phiên tòa người bào chữa phải thực hiện
tốt hoạt động thu thập chứng cứ, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nghiên cứu kỹ căn cứ
pháp luật. Tại phiên tòa cần ghi chép diễn biến và những quan điểm buộc tội của đại
diện Viện kiểm sát, bác bỏ những căn cứ buộc tội khơng có cơ sở, không hợp pháp
của Viện kiểm sát, tranh luận với ý kiến, quan điểm của những người tham gia tố
tụng khác. Mục đích hướng tới của người bào chữa khi tranh luận là phát hiện, làm
rõ những tình tiết có lợi cho bị cáo, không được tranh luận theo hướng làm xấu hơn
tình tình của bị cáo, qua đó giúp Hội đồng xét xử làm sáng tỏ sự thật khách quan

của vụ án để ra phán quyết đúng đắn.
1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm
1.3.1. Ý nghĩa chính trị- xã hội
Tranh luận tại phiên tịa hình sự nói chung và phiên tịa HSST nói riêng có
thể nói là một sự cụ thể hoá đúng đắn quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà
nước trong việc cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra từ những năm trước đây.
Chủ trương đặt trọng tâm là Toà án và là trung tâm trong việc xét xử để đạt hiệu quả
cao hơn trong cơng tác tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
và Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị hướng về bảo đảm
và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, xem đây là bước tiến bộ mang tính

15


đột phá thay đổi tư duy cũ trong việc tiến hành tố tụng. Vì thế việc cụ thể hố
chính sách này trong luật định và thực tiễn là thể hiện sự cầu thị, trong xu
hướng chung của thế giới nhằm bảo đảm quyền con người ở mức cao nhất có
thể. Nó cũng thể hiện tính dân chủ tự do của cơng dân theo đúng như Hiến
Pháp 2013 quy định. Nó phản ánh tinh thần lấy dân chủ, con người làm trung
tâm của sự phát triển bằng việc tạo ra các cơ chế tự do và bảo đảm các
phương tiện thực hiện đặc biệt là công cụ pháp lý mà ở đó các bên đều bình
đẳng về mặt pháp lý trong tố tụng. “Tranh tụng có nhiều yếu tố phù hợp với
sự phát triển dân chủ, vì vậy tiếp nhận các yếu tố này là hướng phát triển
đúng đắn trong cải cách tư pháp ở nước ta” [17]. Ngoài ra việc cải cách về
mặt tố tụng hình sự trong đó có ghi nhận chính thức nguyên tắc tranh tụng,
tranh luận tại Tồ án sự thể hiện tính đề cao pháp luật của nhà nước Pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa, đề cao được tính nhân văn, nhân đạo trong pháp
luật hình sự.
Với việc tranh luận tại phiên tồ diễn ra cơng khai, có thể giúp cho

những người tham dự phiên tồ hiểu rõ hơn về pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật, điều quan trọng hơn là mọi người trong xã hội ln thấy được rằng
có sự cơng tâm minh bạch trong xét xử, q trình diễn ra cơng khai minh
bạch tạo ra các hiệu ứng tương tự sự giáo dục pháp luật đến mọi người trong
xã hội, giúp họ tự ý thức về quyền của mình trong tố tụng để góp phần thúc
đẩy sự đúng đắn hơn đối với các cơ quan tố tụng.
Thơng qua phiên tịa diễn ra cơng khai dân chủ, các bên tham gia tố
tụng sẽ được thực hiện các quyền trong tố tụng của mình với các điều kiện
thuận lợi nhất có thể. Từ đó dẫn đến việc quyết định của Tịa án được hình
thành trên cơ sở các chứng cứ đã được các xem xét và đánh giá cẩn thận tỉ
mỉ và khách quan công khai tại tịa, do đó việc xét xử của Tịa án mang lại
cho các bên tham gia tố tụng, những người tham dự phiên tịa có một niềm
tin vững chắc vào pháp luật, lòng tin vào lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước bằng pháp luật. Lòng tin này sẽ lan toả trong xã hội góp phần thúc

16


đẩy mọi người tuân thủ và chung tay xây dựng, bảo vệ pháp luật một cách ý thức và
tự giác hơn.
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý

Việc triển khai thực hiện tranh tụng trong xét xử là sự thể chế hoá các chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra về phương diện luật học
và khoa học pháp lý nó cịn là sự thể chế hố các quy định của Hiến pháp. Tại
khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 có nêu lên rằng phải bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng. Từ những yêu cầu trên đã là cơ sở để làm cơ sở cho việc thay đổi khác trong
luật định mà đặc biệt là TTHS với mục đích làm tăng tính dân chủ bình đẳng trong
hoạt động xét xử và trong các hoạt động tố tụng khác nói chung.
Việc tranh luận tại phiên toà là một phần của tranh tụng góp phần mang lại

sự thật khách quan và cái nhìn tồn diện điều mà TTHS ln mong muốn hướng tới
trong xét xử.
Tranh luận tại phiên toà HSST giúp hạn chế tối đa thiếu sót, oan sai trong xét
xử, giúp tồ có sự đánh giá, kết luận chính xác hơn trong bản án của mình.
Tranh luận tại phiên tồ là một thủ tục cần và đủ để thực hiện mô hình tố
tụng mà Việt nam đang áp dụng xuất phát từ mơ hình thẩm vấn và kết hợp với mơ
hình tranh tụng, sự kết hợp có hiệu quả này phải có mặt tất yếu của thủ tục tranh
luận tại phiên toà như một cấu thành quan trọng.
Nhà nước pháp quyền đặt nền tảng pháp luật vào việc quản trị quốc gia,
nhắm đến bảo vệ quyền con người và các quyền này được thể chế hoá vào luật pháp
một cách sâu rộng trong các lĩnh vực ngành nghề, Tố tụng hình sự cũng là một
trong những sự cần thiết của sự cụ thể hố đó, do vậy ngun tắc tranh tụng mà cụ
thể là tranh luận tại phiên toà sơ thẩm có vai trị góp phần thúc đẩy bảo vệ và tơn
trọng quyền con người.
Việc tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm góp phần thúc đẩy các bên tham gia
tích cực làm tốt hơn trong vai trị của mình dưới phương diện pháp luật, góp phần
chung vào hiệu quả của xét xử. Nó địi hỏi các bên khơng thể tránh né trách nhiệm
và các luận cứ mà các bên đang bảo vệ cho qun điểm của mình dựa trên pháp luật.

17


1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm.

Việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm xuất phát từ các cơ sở sau đây:
- Xuất phát từ yêu cầu xác định sự thật khách quan của vụ án. Pháp
luật là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng, phản ảnh đặc điểm của các
quan hệ xã hội. Pháp luật là sự phản ánh của hiện thực khách quan, thơng

qua lăng kính chủ quan của các nhà nhà làm luật và trên cơ sở khoa học các
nhà làm luật xây dựng pháp luật và sau đó pháp luật được áp dụng vào thực
tiễn và dùng thực tiễn để kiểm nghiệm. Vì vậy, một chế định pháp luật tố
tụng hình sự được quy định đều có những cơ sở khoa học, là cái tiên quyết
để nhà làm luật cân nhắc có nên quy định vào luật hay khơng. Mục đích
hướng tới của tồn bộ q trình tố tụng hình sự là xác định sự thật của vụ án,
trên cơ sở xác định sự thật vụ án, Tòa án ra bản án, quyết định để giải quyết
vụ án góp phần đấu tranh phịng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, quyền lợi của Nhà nước. Để đảm bảo xác định sự
thật khách của vụ án các cơ quan, người có thẩm quyền được quyền áp dụng
mọi biện pháp hợp pháp theo quy định của Bộ luật TTHS. Việc xác định sự
thật vụ án là trách nhiệm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng tuỳ mỗi giai đoạn. Trong giai đoạn xét xử trách nhiệm này thuộc về Tòa
án, để đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án thì Tịa án cần đảm
bảo cho các bên tham gia tranh tụng bình đẳng tại phiên tòa, đặc biệt phải
đảm bảo cho người bào chữa tham gia tranh luận để làm sáng tỏ những tình
tiết của vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Điều này đảm bảo cho bản án hoặc quyết định của Tòa án mang sự khách
quan, với góc nhìn tồn diện đúng với bản chất hơn.
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người nói chung, đặc biệt là
quyền con người của người bị buộc tội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mà Việt nam đang xây dựng, quyền con người, quyền công dân

18


×