Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

tìm hiểu một số vấn đề an toàn trong hoạt động cho vay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.66 KB, 87 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2008 chúng ta đã được chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính
diễn ra tại Mỹ và ảnh hưởng của nó đã nhanh chóng lan ra khắp toàn cầu.
Theo các chuyên gia kinh tế cho rằng nguyên nhân của sự sụp đổ các ngân
hàng nói riêng ở Mỹ kéo theo những tác động lớn đến sự bất ổn của toàn bộ
hệ thống tài chính thế giới bắt nguồn từ việc các ngân hàng nước này đã quá
tùy tiện khi cho khách hàng vay tiền để mua bất động sản qua các hợp đồng
cho vay không đạt tiêu chuẩn. Và trong suốt thời gian này người ta luôn nhắc
đến những vấn đề trong việc quản trị rủi ro của các ngân hàng, các định chế
tài chính…và quan trọng hơn cả là những rủi ro tín dụng đã khiến các ngân
hàng đánh mất sự an toàn trong hoạt động, điều này đã góp phần tạo ra sự sụp
đổ của các đế chế tài chính lớn và gây ra cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ khi chịu ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp từ cuộc khủng hoảng này. Do mức độ phát triển còn thấp
và quy mô còn hạn chế của các ngân hàng, định chế tài chính khiến cho
những tác động trực tiếp là không lớn. Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng tài
chính diễn ra tại Mỹ và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến nền kinh tế đã
là bài học kinh nghiệm cho các nhà quản trị tài chính của Việt Nam nói riêng
và các nước trên thế giới nói chung trong việc điều hành hoạt động của các tổ
chức.
Theo Peter Rose cho rằng có đến 2/3 hoạt động tạo ra thu nhập cho
ngân hàng là xuất phát từ các khoản cho vay. Đây là một trong những hoạt
động chủ yếu và đòi hỏi những biện pháp quản trị hiệu quả của mỗi ngân
hàng. Hệ thống ngân hàng chỉ có thể hoạt động vững mạnh và phát triển khi
đảm bảo được an toàn đối với các khoản cho vay. Và Ngân hàng Việt Nam là
một trong hai ngân hàng thương mại đầu tiên ở Việt

3



Nam đã thực hiện hệ thống đánh giá xếp hạng khách hàng nội bộ, từng bước
tuân thủ theo những quy tắc về quản trị rủi ro trong công ước quốc tế BASEL.
Với chính sách xếp hạng tín dụng khách hàng, Ngân hàng Việt Nam đã thực
hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo điều 7 QĐ 493/QĐNHNN trong khi hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn thực hiện
theo điều 6 của quyết định này nhằm đảm bảo an toàn đối với hoạt động cho
vay vốn của ngân hàng.
Chính vì những lý do đã nêu trên mà em đã quyết định chọn đề tài „’
An toàn trong hoạt động cho vay vốn của Ngân hàng
Việt Nam’’ làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Thực trạng nghiên cứu
Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra tại Mỹ đã có nhiều bài báo
và công trình nghiên cứu đến công tác quản trị rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống
ngân hàng hoạt động an toàn và vững mạnh. Trong đó có thể kể đến như :
Luận án Tiến sỹ kinh tế năm 2008 ‘’Thực trạng quản trị rủi ro trong các
Ngân hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam’’ của Trần Đình Mạnh; Luận
văn thạc sỹ kinh tế năm 2008„’ Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam’’ của tác giả
Nguyễn Tiến Chương; Luận văn thạc sỹ kinh tế năm 2007 „’ Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực và thông
lệ Ngân hàng quốc tế’’ của tác giả Lê Thành Minh… Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu nào được thực hiên về vấn đề đảm bảo an toàn trong hoạt động
cho vay vốn của một ngân hàng thương mại Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Lý luận về ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay vốn của ngân
hàng thương mại với chỉ tiêu đánh giá nhằm đảm bảo an toàn đối với những
khoản cho vay. Từ những kinh nghiệm của một số nước rút ra bài học cho các
Ngân hàng thương mại Việt Nam.

4



- Thực trạng đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn của Ngân
hàng Việt Nam khi đã thực hiện tốt chính sách xếp hạng tín dụng nội bộ
khách hàng và thực hiện việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro theo điều
7 quyết định 493/QĐ-NHNN.
- Từ những khó khăn hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số giải pháp nhằm
đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng : Chứng khoán
hóa các khoản nợ, nâng cao vai trò của công ty quản lý nợ AMC, đề xuất mô
hình thanh tra giám sát đối với Ngân hàng Nhà nước…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu công tác đảm bảo an toàn trong hoạt động
cho vay vốn của Ngân hàng Việt Nam trên cơ sở phân tích và đánh giá những
số liệu thu thập được từ năm 2005 đến năm 2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê - tổng hợp trong việc thu thập
số liệu từ các báo cáo của Ngân hàng nhà nước, tính toán tỷ lệ so với các tổ
chức tín dụng khác; sử dụng phương pháp so sánh với Ngân hàng thương mại
khác, phân tích tìm ra những khó khăn hạn chế còn tồn tại; bên cạnh đó tác
giả còn sử dụng phương pháp mô tả - đánh giá; phương pháp duy vật lịch
sử…
6. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát an toàn trong hoạt động cho vay vốn của
ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng an toàn trong hoạt động cho vay vốn của
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay
vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam


5


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay vốn của ngân hàng
1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay vốn của ngân hàng
Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín
dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐNHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Cho vay
là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Tổ chức Tín dụng giao cho khách hàng
sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.” Như vậy bản chất hoạt
động cho vay vốn là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả có điều kiện
và có các đặc trưng sau:


Tài sản giao dịch trong hoạt động cho vay vốn là tiền vốn. Ngoài
tiền mặt được coi là phương thước giao dịch chủ yếu thì còn một lượng lớn
các khoản vay được thực hiện thông qua chuyển khoản.


Nguyên tắc trong hoạt động cho vay là có hoàn trả. Bên đi vay cam
kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Gía trị hoàn
trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người
đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.


Chính sách cho vay vốn của ngân hàng phải được thực hiện trên sự
tin tưởng và thỏa thuận có điều kiện. Vì vậy người cho vay khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ trả

đúng hạn.


Chủ thể tham gia trong hoạt động cho vay vốn bao gồm ngân hàng
và các khách hàng. Đối tượng khách hàng có thể là cá nhân hay pháp nhân

7


nhưng phải có đầy đủ điều kiện về pháp lý để có thể thực hiện được giao dịch
đi vay.


Nguồn vốn cho vay phụ thuộc vào nguồn vốn mà ngân hàng huy

động được. Ngân hàng có những chính sách và nghiệp vụ quản trị nhằm đảm
bảo sự cân đối trong tài sản nợ và tài sản có, khiến hoạt động của hệ thống ổn
định và an toàn.
Ngân hàng chỉ hoạt động được an toàn khi kiểm soát được các khoản
cho vay giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất. Chỉ trên cơ sở quản trị được các
rủi ro trong hoạt động cho vay thì hệ thống ngân hàng mới lành mạnh và phát
triển bền vững. Do đó tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và
nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro nói chung thì cần phải phân loại các khoản
cho vay theo từng nhóm trên cơ sở khoa học.
- Dựa vào mục đích cho vay có thể chia thành các loại vay sau: Cho
vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp; cho vay tiêu dùng cá
nhân; Cho vay mua bán bất động sản; Cho vay sản xuất nông nghiệp; Cho vay
kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời
hạn đến 1 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho

việc đầu tư vào tài sản lưu động; Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời
hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc
đầu tư vào tài sản cố định; Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5
năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự
án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: Cho vay không có bảo
đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của
người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết
định cho vay; Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo

8


đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào
khác.
- Dựa vào phương thức cho vay: Cho vay theo món vay: là loại cho vay
mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn
cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng; Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại
cho vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn
mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định; Cho vay theo hạn
mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận bằng văn bản
chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng: Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực
tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho
ngân hàng; Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua
việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán như là: chiết khấu thương mại, bao thanh toán.
1.1.2. Vai trò hoạt động cho vay vốn của ngân hàng
Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự nghiệp phát triển kinh tế

đất nước là không nhỏ khi đây là nguồn cấp vốn chủ yếu do các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu, thì
vốn vay ngân hàng sẽ đem lại nhiều lợi ích cho chính các doanh nghiệp khi lãi
đi vay sẽ được tính là chi phí hợp lý, hợp lệ để khấu trừ vào thu nhập bị đánh
thuế do đó lợi nhuận giữ lại sẽ tăng lên. Trong nền kinh tế thị trường thì tín
dụng ngân hàng là hình thức tín dụng cơ bản nhất và chiếm vị trí chủ đạo, và
hoạt động cho vay vốn là nghiệp vụ chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Vai trò của hoạt động cho vay được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
* Đối với khách hàng:

9


- Là kênh cấp vốn chủ yếu cho quá trình hoạt động của các doanh
nghiệp, đáp ứng nhu cầu về vốn thiếu hụt tạm thời của các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế.
- Thông qua hoạt động cho vay của ngân hàng giúp các doanh nghiệp,
các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế đánh giá lại phương án kinh doanh,
xem xét lại tình hình tài chính, và nâng cao năng lực quản trị điều hành của
các nhà lãnh đạo doanh nghiệp.
- Giúp các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế có
điều kiện mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
* Đối với ngân hàng
- Hoạt động cho vay vốn là hoạt động quan trọng nhất, chủ yếu nhất
trong mọi hoạt động của ngân hàng thương mại, mang lại nguồn thu nhập
chính và chủ yếu trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng thương mại.
- Thông qua hoạt động cho vay giúp nâng cao khả năng đánh giá, thẩm
định phương án kinh doanh của cán bộ tín dụng, giúp các nhà quản trị ngân
hàng hoàn thiện chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
- Thông qua hoạt động cho vay, các ngân hàng có điều kiện tiếp cận với

các tổ chức tài chính quốc tế, mở rộng các quan hệ, tiếp thu kinh nghiệm quản
lý và trình độ công nghệ hiện đại.
* Đối với nền kinh tế quốc dân
- Nguồn vốn cung ứng của ngân hàng cho các chủ thể kinh doanh có vai
trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất, hoạt động của doanh nghiệp, tổ
chức. Góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng đất nước
ngày càng phát triển thông qua việc đáp ứng các nhu cầu về vốn.

- Thông qua các chính sách hỗ trợ về lãi suất hay ưu tiên cấp vốn cho
một số đối tượng ưu tiên mà nhà nước đã thực hiện được việc điều tiết vĩ mô
nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ổn định và bền vững.

10


- Góp phần mở rộng mối quan hệ kinh tế quốc tế vì hoạt động cho vay
của ngân hàng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của một quốc gia mà nó
còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Việc cấp vốn của ngân hàng góp phần mở
rộng quan hệ ngoại thương tạo điều kiện phát triển môi trường đầu tư quốc tế
trực tiếp.
1.2. Những vấn đề cơ bản về an toàn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mai
1.2.1. Khái niệm an toàn và an toàn trong hoạt động cho vay vốn
Tháng 1 năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149
của tổ chức WTO, đánh dấu bước ngoặt lớn với những cơ hội và thách thức.
Dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính các nước phải
đối mặt với rủi ro tài chính ngày càng lớn và khủng hoảng tài chính đã trở
thành mối đe dọa chủ yếu đến an ninh kinh tế thế giới và Việt Nam cũng
không nằm ngoài dòng chảy đó. Trong thời gian vừa qua, sau những ảnh
hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào thời điểm

cuối năm 2008, những cụm từ “quản trị rủi ro trong các ngân hàng‟‟; “ đảm
bảo hệ thống tài chính hoạt động an toàn, ổn định, vững mạnh‟‟…ngày càng
được nhắc đều nhiều hơn.
Và một trong những hoạt động chủ yếu chiếm đến 70-80% 1lợi nhuận
thu được của ngân hàng là từ nghiệp vụ cho vay vốn. Do vậy để ngân hàng
phát triển thì điều quan trọng là phải đảm bảo được an toàn đối với các khoản
cho vay, tránh để xảy ra rủi ro do không trả được nợ, hạn chế các khoản nợ
xấu. Có như vậy ngân hàng mới có thể hoạt động vững mạnh được trong bối
cảnh còn nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính để lại.
Vậy khái niệm an toàn là gì và vai trò của việc đảm bảo an toàn trong
hoạt động cho vay vốn của ngân hàng quan trọng ra sao là câu hỏi cần được
đặt ra.
1

Nguyễn Xuân Minh (2007), Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế, Thời báo kinh tế Sài Gòn

11


Theo từ điển Bách khoa toàn thư đã định nghĩa: An toàn là sự yên ổn,
không có những rủi ro gây thiệt hại không thể chấp nhận được; hay nói cách
khác là tình trạng trong đó sự rủi ro gây nguy hại ở mức có thể chấp nhận
được.
Theo TS. Vũ Đình Ánh2 cho rằng: An toàn là trạng thái không bị tác
động bởi các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Và chỉ khi
có các công cụ và các biện pháp bảo vệ hợp lý thì mới đảm bảo được tình
trạng an toàn đó.
Như vậy, có thể nói an toàn là một khái niệm để chỉ trạng thái mà ở đó
các rủi ro có thể chấp nhận được dựa trên các công cụ quản lý thích hợp.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nghiệp vụ cho vay vốn tiềm ẩn nhiều

rủi ro nhất nhưng đồng nghĩa với việc cũng đem lại lợi nhuận lớn hơn cả. Để
ngân hàng hoạt động có vững mạnh thì quan trọng là phải đảm bảo vốn cho
vay phải được sử dụng có hiệu quả và các doanh nghiệp, cá thể đi vay phải
hoàn vốn đúng thời hạn. Hay nói cách khác ngân hàng cần phải đảm bảo an
toàn trong hoạt động cho vay vốn dựa trên những công cụ quản lý rủi ro, có
như vậy toàn bộ hệ thống mới lành mạnh và phát triển. Có nhiều định nghĩa
về an toàn trong hoạt động cho vay vốn:
Trong tài liệu „’ Commercial Bank Financial Management’’, Joseph
F.Sinkey (2002) cho rằng : Hoạt động cho vay vốn được cho là an toàn khi
khách hàng có khả năng hoàn trả đầy đủ khoản tín dụng đã vay từ ngân hàng
cả về số lượng và thời hạn.
Còn theo Frank Stern (1999) - Bank Management, Chicago
University lại cho rằng : An toàn trong hoạt động cho vay đồng nghĩa với việc
ngân hàng cần quản lý được các rủi ro xảy ra tổn thất do không trả được một
phần hay toàn bộ số nợ của khách hàng. Khi đó người đi vay có thể chi trả

2 TS. Vũ Đình Ánh (2002), An ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng, NXB Tài Chính.

12


tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã được ấn định trong hợp
đồng.
Như vậy có thể hiểu: An toàn trong hoạt động cho vay là việc đảm bảo
lợi ích của ngân hàng nhằm duy trị sự ổn định và phát triển của toàn bộ hệ
thống trên cơ sở nâng cao khả năng thanh toán, hạn chế rủi ro vỡ nợ của
khách hàng. Có như vậy ngân hàng mới hoạt động có hiệu quả, góp phần vào
sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
1.2.2. Sự cần thiết phải đảm bảo an toàn đối với các khoản cho vay của
Ngân hàng thương mại

Một trong những lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý
nhà nước cấp phép hoạt động là khả năng cho vay đối với khách hàng3. Mọi
người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa
phương thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của
doanh nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng,
cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ cho chi
tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho
vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại
khu vực ngân hàng phục vụ bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các
doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản
cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng
của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản
tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa gía
trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời,
rủi ro hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản
cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh
từ các khoản cho vay khó đòi, bắt đầu từ một số nguyên nhân do: quản lý
3 Peter Rose (1994), Comercial Bank Management, Taxes A&M University

13


yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay
không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Chính vì
vậy quản trị rủi ro đối với các khoản cho vay giữ vai trò quan trọng trong hoạt
động của các ngân hàng, nó là cơ sở và nền tảng để ngân hàng phát triển và ổn
định tình hình tài chính với một số nội dung sau:
Thứ nhất: Đảm bảo an toàn các khoản cho vay tạo điều kiện cho các
ngân hàng duy trì nguồn vốn và tạo ra lợi nhuận do hoạt động kinh doanh

vốn đem lại.
Một trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động và quản trị ngân
hàng là mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn vì ngân hàng là trung tâm tín
dụng, trung tâm thanh toán vì vậy có bảo toàn được vốn thì mới đảm bảo khả
năng cung cấp tín dụng và thanh toán các khoản tiền gửi của khách hàng. Một
trong những điều kiện quan trọng để ngân hàng bảo toàn vốn, đảm bảo an
toàn tài sản là nâng cao chất lượng tín dụng trong đó việc quản lý rủi ro đối
với các khoản cho vay là nhân tố có tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng nghiêm
trọng tới quá trình hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào.
Thứ hai: Đảm bảo an toàn đối với các khoản cho vay vốn thì mới nâng
cao hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay vốn đóng vai trò quan trọng số một trong hoạt động
tín dụng của mỗi ngân hàng, nếu không đảm bảo an toàn các khoản cho vay
thì sẽ dẫn đến rủi ro, nợ quá hạn phát sinh và làm cho chi phí của các ngân
hàng tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn giảm, lợi nhuận bị suy giảm và ảnh
hưởng trực tiếp tới năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba: Đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn là điều kiện để
ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Trong giai đoạn hiện nay, tín dụng ngân hàng đang giữ vai trò quan
trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, là kênh dẫn vốn thứ hai cho
nền kinh tế sau kênh Ngân sách nhà nước. Do đó đảm bảo an toàn đối với

14


hoạt động cho vay vốn càng trở nên quan trọng để đảm bảo sự luân chuyển
vốn trong nền kinh tế vì khi rủi ro có khả năng xảy ra đối với các khoản nợ
của khách hàng có thể dẫn đến dòng vốn chu chuyển sẽ bị ngừng trệ từ đó ảnh
hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư: Là điều kiện để phát triển ổn định nền kinh tế và thực thi các

chính sách vĩ mô của Nhà nước.
Hoạt động cho vay vốn của ngân hàng có tác động tổng hợp đến nhiều đối
tượng trong nền kinh tế. Nếu đối với các khoản vốn cho vay không có khả năng
hoàn trả thì sẽ dẫn đến rủi ro thanh toán, rủi ro tín dụng…có thể kéo theo sự sụp
đổ của cả hệ thống ngân hàng thậm chí cả thị trường tài chính của một quốc gia
và khi đó sẽ kéo theo sự khủng hoảng của một nền kinh tế. Thông qua chính sách
hỗ trợ các nguồn vốn cho vay, chính sách kinh tế của Nhà nước được thực thi và
áp dụng vào thực tiễn một cách linh hoạt, hiệu quả.

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá an toàn trong hoạt động cho vay vốn của Ngân
hàng thương mại
* Chỉ tiêu định lượng4
Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ đảm bảo tiền vay (A1.1)
Dư nợ vay (Doanh số cho vay)
A1.1 (%) =

x 100%

Giá trị tài sản đảm bảo
Ý nghĩa: chỉ tiêu A1.1 phản ánh mức độ bù đắp khi những rủi ro xảy ra,
đây là nguồn thu nợ thứ 2 của các Ngân hàng thương mại. Thông thường thì
các ngân hàng cho vay bằng 70% giá trị tài sản đảm bảo.
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ quá hạn (A1.2)
Tổng nợ quá hạn
A1.2 (%) =

x 100%

Tổng dư nợ
4 Nguyễn Minh Kiều (2008), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB Tài chính.


15


Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.2 là chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất nhằm xác
định chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Trong đó nợ quá hạn
được phân thành các nhóm nợ theo quyết định 493/2005/NHNN.
- Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nợ xấu (A1.3)

Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.3 phản ánh các khoản cho vay có khả năng không
thu hồi được một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi. Để đánh giá đúng cần tính
tỷ lệ của từng loại nợ xấu so với tổng dư nợ.
- Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nợ quá hạn ròng (A1.4)
Nợ quá hạn – DPRR tín dụng
A1.4 (%) =

x 100%

Tổng dư nợ - DPRR tín dụng
Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.4 đánh giá chất lượng tín dụng khi đã sử dụng các
quỹ dự phòng rủi ro tín dụng để bù đắp cho các khoản nợ quá hạn của Ngân
hàng.
- Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ nợ xấu ròng (A1.5)
A1.5(%) =

Nợ xấu – DPRR tín dụng

x 100%

Tổng dư nợ - DPRR tín dụng


Ý nghĩa : Chỉ tiêu A1.5 đánh giá chất lượng tín dụng sau khi đã sử
dụng quĩ rủi ro tín dụng để bù đắp cho nợ xấu của ngân hàng.
- Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro (A1.6)
A1.6 (%) =

DPRR tín dụng
x 100% Tổng dư nợ/ tổng dư nợ trích lập dự phòng

Ý nghĩa: chỉ tiêu A1.6 phản ánh khả năng bù đắp rủi ro từ hoạt động tín
dụng, nhằm phản ánh chính xác khi tính toán chỉ tiêu này cần đánh giá chi tiết
đối với từng loại nợ cho vay.
- Chỉ tiêu 7: Khả năng chống đỡ với rủi ro (A1.7)

16


A1.7 (%) =

Tổng nợ quá hạn/ Nợ xấu

x 100%

Tổng nguồn vốn/ Tổng mức dự phòng

Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.7 phản ánh mức độ chống đỡ với rủi ro của ngân
hàng tại một thời điểm nhất định để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý và đưa ra
các giải pháp khắc phục kịp thời.
* Các chỉ tiêu định tính :
- Đảm bảo và tuân thủ các nguyên tắc cho vay theo quyết định

1627/QĐ-NHNN có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo sự tuân thủ các qui
định của pháp luật về hoạt động tín dụng, bảo đảm sử dụng tiền vay đúng mục
đích, mang lại hiệu quả kinh tế, thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi khi đến hạn.
- Đảm bảo thực hiện đúng qui chế, tuân thủ các qui định về tỷ lệ an
toàn trong hoạt động và thực hiện trích lập dự phòng theo quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005. Việc thực hiện đúng qui chế đảm bảo
tiền vay giúp ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ 2 và giảm thiểu được rủi ro
trong trường hợp phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, đồng thời
cũng nâng cao trách nghiệm của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay.
- Đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng theo
quyết định 457/QĐ-NHNN. Việc đảm bảo đúng các tỷ lệ về đảm bảo an toàn
trong hoạt động giúp các ngân hàng tuân thủ đúng các chuẩn mực kế toán, và
nâng cao khả năng tự chủ về tài chính của các Ngân hàng thương mại.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự an toàn trong hoạt động cho vay vốn
1.3.1. Nhân tố thuộc phía ngân hàng
Chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng: là sự đáp ứng các yêu
cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự
tồn tại, phát triển của ngân hàng. Nó phản ánh năng lực tài chính và sự sẵn
sàng của ngân hàng trong việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Việc đảm
bảo cung cấp vốn kịp thời đầy đủ cũng là điều kiện để phương án kinh

17


doanh của khách hàng được thực hiện một cách hiệu quả và là điều kiện để
đảm bảo khả năng chi trả của các khoản vay đó.
Tăng trưởng, ổn định nguồn vốn: Mỗi ngân hàng cần hoạch định cho
mình kế hoạch tăng trưởng phù hợp để đảm bảo an toàn và nằm trong khả
năng kiểm soát. Nếu vì lý do cạnh tranh, áp lực mở rộng mạng lưới mà phát
triển quá nóng sẽ dẫn đến nguy cơ mất an toàn trong hoạt động. Đồng thời

mỗi ngân hàng cần ổn định nguồn vốn để đảm bảo khả năng cung ứng vốn
cho khách hàng kịp thời và đầy đủ.
Cân đối về thời hạn của vốn huy động và các khoản cho vay : Trên
nguyên tắc chung là thời hạn cho vay phụ thuộc vào thời hạn của nguồn vốn.
Việc cân đối này không được đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng vốn được sử dụng
kém hiệu quả hoặc đe dọa đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó các
ngân hàng cần xem xét đến khả năng nguồn vốn của mình để có chính sách
cho vay hiệu quả.
Tổ chức bộ máy quản lý chính sách tín dụng và qui trình tín dụng : Sự
đánh giá và phân loại không chính xác về năng lực tài chính của khách hàng
hoặc chỉ đánh giá thông qua các chỉ tiêu tĩnh, một chiều mà không quan tâm
đến thông tin khác…hay việc cho vay dựa trên những cam kết không chắc
chắn, hiệu suất dự án thu về không cao. Tất cả các yếu tố trên đều dẫn đến sự
mất an toàn trong các phán quyết cho vay. Do đó qui trình thực hiện các giải
pháp an toàn trong hoạt động cho vay cần phải được các ngân hàng hết sức
quan tâm và linh hoạt.
Mô hình quản lý rủi ro và trình độ quản trị điều hành của bộ máy
quản lý ngân hàng: Đây là nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng, để đảm bảo
an toàn trong hoạt động, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng một mô hình quản
lý rủi ro phù hợp, thành lập và duy trì hoạt động có hiệu quả của hội đồng
quản lý tài sản nợ, dần áp dụng mô hình quản lý rủi ro theo BASEL II trong
các hoạt động ngân hàng.

18


Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động cho vay: bao gồm hệ thống thông
tin, hệ thống hỗ trợ tín dụng, mạng lưới và một số điều kiện khác. Một ngân
hàng có hệ thống thông tin tốt, khả năng khai thác và cập nhật thông tin cao,
cơ sỏ vật chất đầy đủ sẽ tạo được hình ảnh và uy tín tốt với khách hàng.

Thông qua việc khai thác các luồng thông tin khác nhau sẽ là điều kiện để ra
các quyết định phù hợp nhằm hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt
động cho vay vốn.
1.3.2. Nhân tố từ phía khách hàng
Khách hàng là điều kiện rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn đối
với các khoản tiền cho vay. Khách hàng phải có năng lực pháp lý, năng lực tài
chính, có phương án kinh doanh khả thi và có uy tín trong hoạt động sản xuất
kinh doanh thì mới được xem xét để cung cấp tín dụng. Ngược lại nếu một
khách hang chưa đủ năng lực pháp lý và năng lực tài chính, có tư cách đạo
đức không tốt và chưa tạo được uy tín trong kinh doanh thì sẽ rất khó khăn và
không có gì đảm bảo để ngân hàng có thể xem xét cung cấp tín dụng.
Khi xem xét khách hàng để cho vay vốn thì điều mà mỗi ngân hàng
quan tâm là khách hàng phải có phương án kinh doanh khả thi và phải có tỷ lệ
vốn đối ứng nhất định để tham gia vào phương án đó. Khi đã có phương án
kinh doanh khả thi thì bản thân khách hàng cũng dự đoán được nhu cầu vốn
và khả năng thu hồi vốn của dự án nên họ sẽ tự tin thực hiện dự án, điều này
sẽ đảm bảo an toàn hơn cho cả khách hàng và phía ngân hàng. Một phương án
sản xuất kinh doanh khả thi là phương án mang lại hiệu quả kinh tế, phù hợp
với pháp luật và yêu cầu của thị trường. Phương án kinh doanh khả thi sẽ đảm
bảo khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn.
Một điều kiện quan trọng nữa từ phía khách hàng vay vốn là phải có
tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo không phải là điều kiện để xem xét cho vay
nhưng nó là nguồn thu nợ thứ hai và là điều kiện để nâng cao trách nhiệm của
khách hàng trong việc sử dụng vốn. Trong quan hệ cho vay, ngân hàng đòi

19


hỏi có sự đảm bảo thông qua các hình thức thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của
bên thứ ba. Tỷ lệ cho vay không chỉ phụ thuộc vào giá trị tài sản mà còn phụ

thuộc vào tính lỏng của tài sản đảm bảo. Việc đánh giá tài sản đảm bảo cũng
là một phần của công tác kiểm soát và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho
vay vốn.
Ngoài các yếu tố cần xem xét từ khách hàng thì việc xem xét khả năng
lãnh đạo, bộ máy tổ chức của khách hàng là điều hết sức quan trọng vì nếu dự
án có khả thi bao nhiêu, năng lực tài chính vững mạnh và tài sản đảm bảo tiền
vay đầy đủ nhưng đội ngũ quản lý doanh nghiệp không có khả năng tổ chức
và điều hàng, bộ máy quản lý không phù hợp thì cũng không thể đảm bảo an
toàn cho khoản vốn đã vay.
1.3.3. Các nguyên nhân khách quan liên quan đến môi trường bên ngoài
Môi trường kinh tế xã hội là nhân tố tác động rất lớn tới đảm bảo khả
năng trả nợ của khách hàng. Kinh tế, chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện cho
hàng hóa lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển và là điều kiện để các luồng
tài chính chuyển dịch một cách thường xuyên liên tục. Là điều kiện để các
doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, nâng cao
khả năng hoàn trả cho ngân hàng.
Đường lối phát triển kinh tế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của nhà
nước ảnh hưởng rất lớn đến qui mô của các khoản cho vay. Trong nền kinh tế
như Việt Nam hiện nay, khi mà các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dưới hình
thức chủ thể do Nhà nước quản lý thì việc tác động của chính phủ đối với các
ngân hàng thương mại nhằm cho các DNNN vay vốn sẽ ảnh hưởng nhiều đến
việc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Trong khi các DNNN là bộ
phận khách hàng có thực lực tài chính kém, không có khả năng thanh toán khi
đến hạn rất dễ gây nên rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Do đó cần phải xây
dựng một chính sách phù hợp kết hợp với sự đồng bộ trong hành lang pháp lý
nhằm bảo vệ các ngân hàng thương mại khi có xảy ra tổn thất đối với nguồn

20



vốn cho vay. Có như vậy các ngân hàng mới hoạt động được vững mạnh và
hiệu quả.
1.4. Các mô hình lượng hóa các rủi ro đối với hoạt động cho vay
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn, các ngân hàng cần
phải quản trị để hạn chế rủi ro khả năng vỡ nợ của khách hàng. Do đó các kỹ
thuật đo lường, đánh giá của ngân hàng đối với mỗi khách hàng về mức độ
đáng tin cậy trong việc đảm bảo hoàn trả vốn vay là thật sự cần thiết. Chỉ trên
cơ sở định lượng được những rủi ro có thể xảy ra đối với khoản cho vay, khi
đó ngân hàng mới có những quyết định và chính sách cho vay phù hợp. Và
hiện nay trên thế giới, có hai mô hình được sử dụng phổ biến nhất nhằm chấm
điểm, xếp hạng khách hàng nhằm đảm bảo an toàn đối với khoản vay bao
gồm:
1.4.1. Mô hình định tính 6C
Một trong những tính chất cơ bản của tài chính hiện đại là tính rủi ro,
và vì vậy tất cả các mô hình tài chính hiện đại đều được đặt trong môi trường
rủi ro. Để quản trị được rủi ro có khả năng xảy ra đối với khoản cho vay, các
ngân hàng cần phải trả lời được câu hỏi trước tiên là khách hàng có thể thanh
toán được khoản vay được đúng hạn hay không? Một số mô hình đã được xây
dựng để làm công cụ đo lường khả năng trả nợ của khách hàng, khi đó ngân
hàng sẽ có những đánh giá và giám sát việc cho vay một cách hiệu quả hơn.
Có một mô hình định tính mà hiện nay các ngân hàng trên thế giới nói chung
và của Việt Nam nói riêng đều thực hiện là nghiên cứu chi tiết sáu khía cạnh
của một đơn vị xin vay bao gồm (Phụ lục 1):
- Tư cách người vay (Character): Ngân hàng cần có những bằng
chứng cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế
hoạch trả nợ nghiêm túc. Bên cạnh đó cần phải xem xét đến sự phù hợp với
chính sách cho vay hiện tại của ngân hàng để có những quyết định chính xác
trong việc nâng cao khả năng thanh khoản hay hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro

21



tỷ giá…Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế hoạch
trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng lên tính cách của khách hàng.
- Năng lực của người vay (Capacity): Ngân hàng cần phải chắc chắn
rằng khách hàng có đủ năng lực vay vốn và có đủ tư cách pháp lý trong việc
ký kết hợp đồng vay vốn. Hợp đồng tín dụng do một người không có đủ tư
cách pháp lý ký kết có thể dẫn đến một khoản cho vay không thể thu hồi và
bởi vậy sẽ tạo ra một tổn thất rất lớn đối với ngân hàng.
- Thu nhập của người vay (Cashflow): Đây là nội dung có ý nghĩa rất
quan trọng đối với một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: liệu
người vay có khả năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu
hoàn trả cho ngân hàng món vay không? Thông thường khách hàng có ba
nguồn có thể được sử dụng để hoàn trả khoản vay : (a) Dòng tiền mặt từ
doanh thu bán hàng hoặc thu nhập; (b) dòng tiền từ việc bán tài sản; (c) các
nguồn vốn huy động bằng cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn trong đó
ngân hàng quan tâm hơn cả đến dòng tiền có được từ hoạt động kinh doanh
của người đi vay.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Việc thế chấp hay cầm cố tài sản cố
định, giấy tờ có giá…của người đi vay sẽ hạn chế rủi ro, nâng cao khả năng
thu hồi vốn cho ngân hàng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đây là một cơ sở đảm
bảo giúp ngân hàng thu hồi lại được khoản vốn cho vay khi khách hàng không
hoàn trả theo đúng hợp đồng tín dụng.
- Các điều kiện (Conditions): Các cán bộ tín dụng cần phải nhận biết
được xu hướng tiến triển gần đây của hãng cũng như của ngành mà hãng hoạt
động, thấy được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối
với khoản cho vay.
- Kiểm soát (Control): Nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin
cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các câu hỏi như:
liệu những thay đổi về quy định có ảnh hưởng bất lợi đến người vay không và


22


liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng do các cơ
quan quản lý ngân hàng đặt ra không?
1.4.2. Mô hình định lượng
1.4.2.1. Mô hình điểm số Z của Edward I.Altman
Chỉ số Z được xây dựng bởi Edward I. Altman (1968), Đại Học New
York, dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số lượng lớn các công ty
khác nhau tại Mỹ. Chỉ số Z là công cụ được cả hai giới học thuật và thực
hành, công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số Z bao gồm 5 tỷ
số X1, X2, X3, X4, X5. Trong đó:
 X1: tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản”
 X2: tỷ số “lợi nhuận tích lũy/tổng tài sản”
 X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản
 X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
 X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”
Từ một chỉ số Z ban đầu, Altman phát triển thêm Z' và Z" để có thể áp
dụng theo từng loại hình của doanh nghiệp:
* Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản suất:
Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.64X4 + 0.999X5
 Nếu Z >2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy
cơ phá sản
 Nếu 1.8< Z <2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể
có nguy cơ phá sản
 Nếu Z <1.8: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá
sản cao.
* Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá, ngành sản suất:
Z' = 0.717X1 + 0.847X2 + 3.107X3 + 0.42X4 + 0.998X5


23


 Nếu Z' > 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy
cơ phá sản
 Nếu 1.23 < Z' < 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có
thể có nguy cơ phá sản
 Nếu Z' <1.23: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ
phá sản cao.
* Đối với các doanh nghiệp khác:
Chỉ số Z" dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại
hình doanh nghiệp. Vì sự khác nhau khá lớn của X5 giữa các ngành, nên X5
được đưa ra.
Z" = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4
 Nếu Z" >2.6: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy
cơ phá sản
 Nếu 1.2 < Z" < 2.6: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể
có nguy cơ phá sản
 Nếu Z <1.1: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá
sản cao.
Dựa trên việc đánh giá nguy cơ hoạt động của các doanh nghiệp mà
ngân hàng mới có thể phân tích kế hoạch cho vay và các biện pháp nhằm
quản trị rủi ro để tăng cường khả năng thanh toán khi đến hạn.
1.4.2.2. Mô hình xếp hạng của Fitch, Moody và Standard & Poor
Bên cạnh việc đánh giá rủi ro đối với khách hàng bằng chỉ số Z của
Edward I. Altman, các ngân hàng còn thường xem xét nhận định cho vay
thông qua việc xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay do các tổ chức xếp hạng
tín nhiệm doanh nghiệp có tiếng như Moody và Standard & Poor thực hiện.
Moody và Standard & Poor xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay theo 9 hạng

theo chất lượng giảm dần, trong đó 4 hạng đầu ngân hàng nên cho vay, còn
các hạng sau thì không nên đầu tư, cho vay.

24


Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor
thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard
& Poor) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao (Xem
phụ lục 2, 3). Trong đó, chứng khoán (khoản cho vay) trong 4 loại đầu được
xem như loại chứng khoán (cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại
chứng khoán (khoản cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng
không đầu tư (không cho vay). Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ
lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy
được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại co lợi nhuận cao
nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán (cho
vay) này.
Bên cạnh đó thì Moody còn đưa ra các mô hình để đánh giá rủi ro tín
dụng của công ty. Theo mô hình này, Moody sẽ xếp hạng tình trạng hoạt động
của doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ rủi ro hàng năm, chất lượng xếp hạng cũng
thay đổi hàng năm. Moody phân chia tỷ lệ rủi ro hàng năm từ 0 đến 8%.
Những doanh nghiệp có xếp hạng cao khi tỷ lệ rủi ro dưới 0,1%. Các doanh
nghiệp khác có xếp hạng thấp hơn khi tỷ lệ rủi ro từ 0,2 đến 8%.
Bảng 1.1. Xếp hạng theo mô hình Moody
Xếp hạng

Tình trạng

Tỷ lệ rủi ro hàng năm


Aaa

Chất lượng cao nhất

0,02%

Aa

Chất lượng cao

0,04%

A

Chất lượng khá

0,08%

Baa

Chất lượng vừa

0,2%

Ba

Nhiều yếu tố đầu cơ

1,8%


B

Đầu cơ

8,3%

Nguồn: Tạp chí khoa học và Đào tạo ngân hàng, số 8-2005, tr 39

25


Như vậy, thông qua sự đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc
lập nổi tiếng như Moody‟s, Standard & Poor‟s hay Fitch đối với các cá thể,
đơn vị đi vay mà mỗi ngân hàng sẽ kiểm soát được rủi ro về khả năng thanh
toán của khách hàng để từ đó có các chính sách cho vay phù hợp.
1.5. Nguyên tắc Basel nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay vốn

Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng là một ủy ban bao gồm các
chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi
các Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp,
Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh và Mỹ). Ủy ban tổ
chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) tại
Washington (Mỹ) hoặc tại Thành phố Basel (Thụy Sĩ).
Như vậy từ chỗ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về
thanh tra và giám sát ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ngày
nay đã trở thành cơ quan xây dựng và phát triển các chuẩn mực ngân hàng
được quốc tế công nhận. Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý
nợ xấu mà thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng,
đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên
tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:

 Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội
dung này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt
định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một
chiến lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ
chấp nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực
thi các định hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện,
đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của
từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư.
 Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): Ngân hàng cần
xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm

26


khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có
thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với
khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải có quy
trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia
của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phận tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín
dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời cần
phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, có kiến
thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và
quản lý rủi ro tín dụng.
 Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù
hợp (10 nguyên tắc): Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập
nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ
tín dụng, thu thập thông tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp
đồng vay… theo quy mô và mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời hệ
thống này phải có khả năng nắm bắt và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân
thủ các giao kèo của khách hàng … để phát hiện kịp thời những khoản vay có

vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng
xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
1.6. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới nhằm đảm bảo an toàn
đối với các khoản cho vay và bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng
thương mại Việt Nam
1.6.1. Kinh nghiệm của một số nước trong việc đảm bảo an toàn cho vay
1.6.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Sau khủng hoảng tài chính diễn ra vào thời điểm năm 1997 và năm 2008,
Thái Lan là một trong những quốc gia đã rút ra được nhiều kinh nghiệm trong
vấn đề quản trị rủi ro của các ngân hàng. Trên cơ sở đó, Thái Lan đã xây dựng
được một hệ thống đo lường và đánh giá hiệu quả nhằm kiểm soát, giảm thiểu
rủi ro có thể xảy ra. Một trong những giải pháp có thể được kể ra như:

27


- Việc định giá cho tài sản đảm bảo được thỏa thuận giữa ngân hàng và
khách vay hoặc do một tổ chức trung gian đứng ra định giá. Trên cơ sở định
giá tài sản thế chấp để đưa ra mức trích lập dự phòng thích hợp cho khoản
vay. Trường hợp cần thiết như khi xảy ra khủng hoảng Chính phủ sẽ tiến hành
lập quỹ phục hồi và phát triển tài chính, sau đó dùng tiền đó để ưu tiên mua
cổ phần của các ngân hàng. Nhằm
- Giới hạn đầu tư ở mức 10% vốn khách vay và 20% vốn của Ngân hàng.

Giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng ở mức 5% vốn ngân hàng, 50% giá trị
ròng của doanh nghiệp và 25% giá trị nợ. giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ
ở mức 25% vốn tự có của Ngân hàng. 5
- Cục thông tin tín dụng được quản lý bởi công ty tư nhân, tất cả các
Ngân hàng báo cáo thông tin về Cục, sau đó Cục thông tin kết xuất báo cáo về
khách hàng vay và lịch sử trả nợ vay hàng tháng, không cung cấp thông tin

thẩm định tín dụng.
1.6.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Tại Trung Quốc, kể từ khi thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống ngân
hàng từ năm 1998, hệ thống ngân hàng đã có bước tiến đáng kể, giá trị tài sản
và lợi nhuận của các ngân hàng luôn tăng. Có được điều đó là do chính phủ
cũng như ủy ban điều hàng Ngân hàng Trung Quốc có được những cải cách
quan trọng nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay nói riêng và quản
trị rủi ro tín dụng nói chung.
- Trung Quốc đã đưa ra các chỉ tiêu an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế
Basel II áp dụng vào các hoạt động nhằm quản trị rủi ro, đảm bảo hệ thống
ngân hàng hoạt động vững mạnh.
- Cách thức dự trữ cho các khoản cho vay trước đây khoảng 1% và
không tính đến các yếu tố rủi ro đã được thay thế bằng việc phân loại khoản
vay theo 5 loại căn cứ vào qui mô và chất lượng khoản vay.
5 Lương Đức Thành (Luận văn

– 2006), Đảm bảo an toàn tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.

28


×