Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.52 KB, 33 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NHTM
1.1. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế quốc dân thì các doanh ngiệp vừa và nhỏ chiếm một tỷ
trọng khá lớn trong tổng các doanh nghiệp cả nước. Và càng ngày thì các
doanh nghiệp này đã không ngừng phát triển, từng bước khẳng định vai trò và
vị trí trong nền kinh tế đất nước.
Thông thường khi xác định quy mô của một doanh nghiệp, các quốc gia
căn cứ vào một số tiêu chí sau: Vốn sản xuất doanh thu, số lao động thường
xuyên, lợi nhuận đạt được, giá trị của công ty … Tuy nhiên, tiêu chí để xác
định quy mô của DNVVN cũng khác nhau tuỳ theo từng ngành, từng thời kỳ,
tuỳ vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Bởi vì một doanh nghiệp đạt
trong môi trường kinh tế của nước này là DNNVV nhưng trong môi trường
kinh tế của nước khác thì lại là doanh nghiệp lớn hoặc lại là doanh nghiệp rất
nhỏ. Nhưng trên thực tế các nước căn cứ chủ yếu vào hai tiêu chí cơ bản là vốn
sản xuất, số lượng lao động thường xuyên để phân biệt DNNVV với các doanh
nghiệp lớn.
Ở Việt Nam hai tiêu thức chính vẫn được sử dụng là vốn sản xuất và số
lao động thường xuyên. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ khác nhau thì các tiêu
chí đánh giá lại có giới hạn khác nhau để phù hợp với tình hình phát triển phản
ánh đúng thực trạng của nền kinh tế. Công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày
20/6/1998, theo đó DNNVV là các doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người
và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa
VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra mục đích xây
dựng một bức tranh chung nhất về các DNNVV ở Việt Nam phục vụ cho việc
hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép phân biệt các
doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vì vậy, tiếp đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP
ban hành ngày 23/11/2001 đã đưa ra định nghĩa chính thức về các DNVV như sau:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc


số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình
kinh tế cụ thể của từng ngành, từng địa phương, trong quá trình thực hiện các
biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả 2 chỉ tiêu
vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.”
Theo định nghĩa trên thì ở Việt Nam các DNNVV bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp gồm
có các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty
hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã
- Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
03 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về dăng ký kinh doanh.
1.1.2. Các chỉ tiêu về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trên thế giới, định nghĩa về DNNVV được hiểu và quy định khác nhau tuỳ
theo từng nơi. Các chỉ tiêu để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm đó là các nhóm
chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những
đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp ví dụ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối
quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp ... Các chỉ tiêu này có ưu thế là phản
ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó
chúng thường được dùng làm cơ sở để tham khảo trong việc kiểm chứng mà ít
được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm chỉ tiêu định lượng có thể dựa vào
các chỉ số như: số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Số lao động : có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường
xuyên, lao động thực tế.
- Tài sản hay vốn : có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố
định, giá trị tài sản còn lại.
- Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện
nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất là số lao động.

Còn các chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính
tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Trình độ phát triển kinh tế của một nước : trình độ phát triển càng cao thì trị số
các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam
không được coi là DNNVV nhưng lại được tính là DNNVV ở CHLB Đức. Ở các nước
có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
- Tính chất ngành nghề : do đặc điểm của từng ngành khác nhau, có ngành
sử dụng nhiều lao động như dệt may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều
vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối
chứng trong phân loại các DNNVV giữa các ngành với nhau. Tuy nhiên thực tế, ở
nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu
chí phân loại khác nhau.
Bảng 1.1. Tham khảo về chỉ tiêu DNNVV ở một số nước
TÊN NƯỚC TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
ÚC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
MỸ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
NHẬT
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ
ĐÀI LOAN
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$,
dưới 300 LĐ
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ

- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu
NT$,doanh thu, dưới 50 LĐ
(Nguồn : số liệu tổng hợp )
Trong lĩnh vực ngân hàng, việc phân chia doanh nghiệp các doanh
nghiệp là đối tác chính, góp phần vào sự thành công hay thất bại của ngân
hàng. Vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải đưa ra các chỉ tiêu để phân loại doanh
nghiệp. Một trong những phương pháp phân loại quy mô doanh nghiệp được
sử dụng phổ biến ở các ngân hàng là dùng thang điểm để chấm điểm quy mô
doanh nghiệp .
Quy mô của các doanh nghiệp được xác định dựa vào các tiêu chí sau:
nguồn vốn kinh doanh, số lượng lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp ngân
sách Nhà nước. Trong đó :
- Lao động là số lao động thực tế sử dụng tính bình quân trong 3 năm
gần nhất.
- Giá trị nộp ngân sách Nhà nước: được lấy theo số thực nộp vào ngân
sách Nhà nước theo số phát sinh trong kỳ bao gồm các loại thuế và các khoản
nộp khác theo quy định của Nhà Nước trong năm báo cáo.
Có thể xem xét bảng chấm điểm quy mô của doanh nghiệp được áp dụng
ở nhiều NHTM Việt Nam như sau:
Bảng 1.2. Bảng chấm điểm quy mô của doanh nghiệp
STT Tiêu chí Trị số Điểm
1 Nguồn vốn kinh
doanh
- Từ 50 tỷ VND trở lên 30
- Từ 40 tỷ VND đến dưới 50 tỷ VND 25
- Từ 30 tỷ VND đến dưới 40 tỷ VND 20
- Từ 20 tỷ VND đến dưới 30 tỷ VND 15
- Từ 10 tỷ VND đến dưới 20 tỷ VND 10
- Dưới 10 tỷ VND 5
2 Lao động - Từ 1500 người trở lên 15

- Từ 1000 người đến dưới 1500 người 12
- Từ 500 người đến dưới 1000 người 9
- Từ 100 người đến dưới 500 người 6
- Từ 50 người đến dưới 100 người 3
- Dưới 50 người 1
3 Doanh thu thuần - Từ 200 tỷ VND trở lên 40
- Từ 100 tỷ VND đến dưới 100 tỷ VND 30
- Từ 50 tỷ VND đến dưới 100 tỷ VND 20
- Từ 20 tỷ VND đến dưới 50 tỷ VND 10
- Từ 5 tỷ VND đến dưới 20 tỷ VND 5
- Dưới 5 tỷ VND 2
4 Nộp ngân sách - Từ 10 tỷ VND trở lên 15
- Từ 7 tỷ VND đến dưới 10 tỷ VND 12
- Từ 5 tỷ VND đến dưới 7 tỷ VND 9
- Từ 3 tỷ VND đến dưới 5 tỷ VND 6
- Từ 1 tỷ VND đến dưới 3 tỷ VND 3
- Dưới 1 tỷ VND 1
(Nguồn: Sổ tay tín dụng Ngân hàng công thương Việt Nam)
Căn cứ vào thang điểm trên, các doanh nghiệp được xếp loại thành quy
mô lớn, vừa và nhỏ như sau :
Điểm Quy mô
Từ 70 - 100 điểm Doanh nghiệp lớn
Từ 30 - 69 điểm Doanh nghiệp vừa
Dưới 30 điểm Doanh nghiệp nhỏ
1.1.3. Đặc trưng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV ở Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Theo
số liệu thống kê được thì cả nước có gần đến 200.000 doanh nghiệp trong đó
DNNVV chiếm tới hơn 93,5%. Mặc dù quy mô không lớn nhưng các doanh
nghiệp này đã huy động được gần 30 tỷ USD, sử dụng gần 3 triệu lao động
(hầu hết các DNNVV có số lao động trung bình là 41 người), tạo 49% việc làm

phi nông nghiệp ở các vùng nông thôn và sử dụng 26% lao động trên khắp cả
nước, đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kinh ngạch xuất khẩu cả nước.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới,và trong
tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay vai trò của các DNVVN
trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở nên quan trọng. Bên cạnh những đặc
điểm vốn có của một doanh nghiệp, thì các DNNVV còn có những đặc điểm
riêng biệt sau đây:
Thứ nhất : DNNVV là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư ban đầu
thấp, thu hồi vốn nhanh. Đây là một lợi thế của các chủ đầu tư vì việc đầu tư
vốn sản xuất không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản xuất của các doanh
nghiệp này thường ngắn nên vòng quay của mỗi đồng vốn là nhanh. Tuy nhiên
hầu hết các DNNVV hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và các nguồn
vốn đi vay từ thị trường tài chính phi chính thức, ít có khả nâng tiếp cận được
với các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Do các doanh nghiệp này không
đảm bảo được các điều kiện cần thiết về tài sản thế chấp và các điều kiện vay
vốn khác. Theo như số liệu thống kê thu được, khoảng 60% DNNVV không có
đủ vốn pháp định theo luật định, 50% doanh nghiệp không đủ vốn lưu động
tương ứng với quy mô.
Thứ hai : DNNVV hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, năng động,
nhạy bén và dễ thích nghi với sự thay đổi của thị trường. Với quy mô nhỏ, các
DNNVV có thể hoạt động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực, với các mức giá cả
hợp lý đáp ứng mọi nhu cầu sản xuất, tiêu dùng dù là nhỏ nhất của các tầng lớp
xã hội. Ngoài ra, với cở sở vật chất không lớn, bộ máy quản lý gọn nhẹ nên các
DNNVV có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề, mặt hàng kinh doanh sản xuất
khi có sự biến động của thị trường. Vì vậy, các DNNVV có thể phân tán được
rủi ro, tiết kiệm được chi phí trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đảm bảo hiệu
quả công việc. Đây là một mặt manh mà các DNNVV có thể khai thác hết tiềm
năng để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
Thứ ba : Công nghệ và thiết bị lạc hậu, thủ công, không phù hợp với
thời buổi công nghệ kỹ thuật cao. Thực tế cho thấy các DNNVV Việt Nam có

hệ thống máy móc, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu khoảng 20 - 30 năm so với các nước
đang phát triển trong khu vực. Trong khi đó, tỷ lệ đổi mới trang thiết vị trung
bình hàng năm chỉ ở mức khiêm tốn 5 - 7 % (trên thế giới là 20 %) và có tới
57% DNVVN sử dụng thiết bị công nghệ trung bình. Nguyên nhân chủ yếu của
hệ thống máy móc lỗi thời như thế này là do các DNNVV không đủ vốn để đầu
tư, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị, máy móc. Đồng thời công tác nghiên cứu
công nghệ áp dụng cho các DNNVV cũng rất ít được thường xuyên chú ý tới.
Mặt khác, việc triển khai thương mại điện tử còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp
chưa có trang thông tin riêng để có thể quảng bá thương hiệu của mình. Một
điểm mạnh ở các DNNVV tại Việt Nam tại đó là các doanh nghiệp này có thể
kết hợp cả những công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, sản xuất
những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi.
Thứ tư : Trình độ của người lao động còn hạn chế, công tác quản lý còn
yếu kém. Phần lớn lao động tại các DNNVV thường ít được đào tạo cơ bản qua
các trường lớp chính quy mà chủ yếu thường được đào tạo theo phương pháp
truyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số
lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Hầu hết các DNNVV ở Việt Nam
hoạt động mang tính chất tự phát, thiếu sự định hướng, việc tổ chức sản xuất
kinh doanh thiếu khoa học vì khả năng chuyên môn của người lao động không
đủ để có thể sử dụng các máy móc dây chuyền công nghệ hiện đại. ở Việt
Nam, trong các DNNVV có khoảng 75% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông
và 30% chủ doanh nghiệp chưa qua các trường lớp đào tạo, chỉ quản lý doanh
nghiệp theo kinh nghiệm và suy nghĩ chủ quan. Vì thế cho nên việc gia nhập
cộng đồng kinh tế thế giới càng làm cho các chủ doanh nghiệp trở nên bỡ ngỡ
trước những cơ hội kinh doanh mới. Bởi vậy, muốn khắc phục những mặt hạn
chế này thì bản thân doanh nghiệp phải có sự tự vận động và kết hợp chặt chẽ
với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo đội ngũ công nhân, thợ lành
nghề có kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi mới có thể đáp ứng được yêu
cầu cạnh tranh, hội nhập trong thời kỳ mới.
Thứ năm: Thị trường tiêu thụ của các DNNVV nhỏ hẹp và khả năng

cạnh tranh thấp. Nguyên nhân là do sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn và
bên cạnh đó là việc các sản phẩm bị làm nhái, làm giả và hàng nhập lậu. Vì các
DNNVV có quy mô vốn nhỏ nên rất hạn chế trong việc tiếp thị và khai thác ở
thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, sự hợp tác giữa các DNNVV với các
doanh nghiệp lớn, các dự án liên doanh còn thấp, khiến cho thị trường tiêu thụ
của các doanh nghiệp này chỉ bó hẹp ở trong thị trường nội địa. Ngoài ra, do
việc yếu kém trong việc tiếp cận thông tin thị trường, các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh cùng với sự hạn chế về mặt tài chính cho nên việc nhập khẩu nguyên
liệu sản xuất cũng như xuất khẩu sản phẩm sang các đối tác nước ngoài hết sức
khó khăn. Có thể nói, năng lực cạnh tranh của các DNNVV là còn quá thấp.
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp phải trực
tiếp đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mới, đó là các công ty xuyên quốc gia,
các công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ và năng lực
cạnh tranh cao. Điều này quả thực là một sự thách thức lớn đối với các
DNNVV của Việt Nam vốn nhỏ về quy mô và năng lực cạnh tranh. Một
nguyên nhân rất quan trọng khiến các DNNVV không có đủ sức cạnh tranh là
do khả năng tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Hiện nay, chỉ có 32%
doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng, trong khi đó 32%
khó tiếp cận và 36% không có khả năng tiếp cận. Đây là vấn đề được các ngân
hàng cũng như Chính phủ hết sức quan tâm để khai thác tốt số lượng khách
hàng tiềm năng này, mở rộng tín dụng để tăng thu nhập và phát triển trên thị
trường.
1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Thứ nhất: Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. Nguyên nhân là do các
cơ sở DNNVV rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm vốn và cho nên chúng
được công nhận là giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất. Do đặc tính phân bố rải
rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường phân tán nên có thể đảm bảo cơ
hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động khác nhau, đặc biệt
là ở các vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trình độ tay
nghề thấp. Nhờ vậy vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm lượng người

chuyển về thành phố tìm việc làm. Ngoài ra, nhờ tính linh hoạt, uyển chuyển cho
nên trong trường hợp có biến động xảy ra các DNNVV sẽ dễ dàng thích ứng với sự
thay đổi của thị trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm
chạp. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, và giải pháp đưa ra thường sẽ
là sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức tối thiểu nhằm có thể tồn tại và
phát triển được trong điều kiện khó khăn. Còn các DNNVV vẫn có thể tồn tại được
mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động.
Thứ hai : Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể cả về chất
lượng, số lượng và chủng loại. Các DNNVV thu hút một lượng lớn lao động và tài
nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thể có sức cạnh tranh trực tiếp
với các doanh nghiệp và tập đoàn lớn, các doanh nghiệp này tăng cường sự đa
dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được
lựa chọn. Bên cạnh đó con đi sâu vào các thị trường nhỏ mà các doanh nghiệp lớn
bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ
Thứ ba : Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. Một số những
người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các doanh
nghiệp lớn mà muốn mở công ty riêng. Vì thế mà các DNNVV rất thích hợp đối
với họ trong việc thử sức của mình. Các DNNVV còn là nơi huấn luyện nguồn
nhân lực cho các doanh nghiệp lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban
đầu về quản lý, được đánh giá cao như : Điều hành kinh doanh, kiểm soát, quản lý
nhân viên, bán hàng và tiếp thị, xúc tiến sản phẩm và dịch vụ, …
Thứ tư : Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương. Nhìn chung
các DNNVV được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và chủ doanh nghiệp
là người của địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người
dân lao động ở địa phương sẽ có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập.Nhờ đó mà
quỹ tiền tiết kiệm đầu tư của địa phương được bổ sung.
Thứ năm : Góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự phát triển cả về
số lượng lẫn chất lượng của các DNNVV đã làm cho nền kinh tế đa thành phần
ở Việt Nam trở nên hết sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và ngoài
nước. DNNVV hầu như xuất hiện ở các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Về

ngành nghề, các doanh nghiệp tập trung nhiều nhất vào các ngành thương mại,
sửa chữa động cơ, xe máy (40,6%), các ngành chế biến (20,9%), xây dựng
(13,2%), và các ngành còn lại là kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng, tư
vấn (25,3%). Điều này đã góp phần hết sức to lớn trong việc bổ sung những
thiếu hụt từ khu vực kinh tế quốc doanh, khơi dậy nguồn tiềm năng sáng tạo
của nhân dân để phát triển sản xuất. Từ đó, các DNNVV có thể tận dụng được
các tiềm năng trong nhân dân chưa được khai thác như: trí tuệ, bí quyết sản
xuất, vốn,… Các DNNVV đã đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Đồng thời sự phát triển của các DNNVV còn làm cho
nguồn thu ngân sách Nhà nước từ các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể.
Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm và khuyến khích của nhà nước, các
DNNVV đã từng bước khẳng định được vị thế của mình, hàng năm đóng góp
trên 30% ngân sách nhà nước.
Thứ sáu: Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tạo sự
đồng đều trong việc phát triển kinh tế của các vùng. Các doanh nghiệp lớn thường
bỏ qua các khu vực hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa
tuyến giao thông, thiếu tài nguyên vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn
bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra. Do đó sẽ dẫn đến
sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng được hết các nguồn tài
nguyên và giảm hiệu quả hoạt động cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho
nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các DNNVV thì chi phí cơ hội của các vùng này là
chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động
nếu có được các chính sách ưu đãi của chính quyền địa phương.
Một trong những điểm mạnh của các DNNVV theo sự đánh giá của ngân
hàng thế giới đó là sự bứt phá trong sản xuất kinh doanh. Chỉ trong vòng vài
năm (kể từ khi luật doanh nghiệp được ban hành) đã có trên 200.000 doanh
nghiệp được thành lập. Theo dự kiến số doanh nghiệp tham gia đăng ký kinh
doanh vào năm 2010 sẽ tăng lên đến 500.000 doanh nghiệp. Cùng với sự gia
tăng về số lượng, các doanh nghiệp cũng rất tự tin để hội nhập, nhận ra nhiều
cơ hội và thách thức mới. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đổi mới công

nghệ trang thiết bị, nâng cao lợi thế cạnh tranh và có thể làm đối tác chiến lược
với các doanh nghiệp trên thế giới. Với xu hướng trên thì càng ngày vai trò của
các DNNVV càng trở nên quan trọng hơn trong nền kinh tế. Với nhiều hình
thức đa dạng, phong phú, hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực, các DNNVV
đã và đang phát huy những mặt tích cực và khẳng định vị thế của mình trong
nền kinh tế
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.2.1. Khái niệm về cho vay của ngân hàng thương mại đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cho vay và rất khó có thể đưa ra
một định nghĩa đầy đủ, rõ ràng về cho vay. Chúng ta có thể sử dụng định
nghĩa sau để nghiên cứu :“Cho vay là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong
đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân
trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một
thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”.
1.2.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn
nhận dưới nhiều góc độ khác nhau theo các tiêu chí phân loại khác nhau. Trên
thực tế, việc phân loại các hình thức cho vay ngân hàng thường theo các tiêu
thức phân chia sau:
1.2.2.1. Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
* Tín dụng có kỳ hạn:
Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ, gồm tín dụng có
ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thống nhất
về điều này nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại không hoàn
toàn đồng nhất giữa các nước với nhau. Ở Việt Nam, theo quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng và quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN/ngày
31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì:

+ Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến dưới 1 năm và được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp.
+ Cho vay trung hạn: Có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.Thông thường
được các doanh nghiệp sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến, đổi
mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư
cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động
thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp mới được
thành lập.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối
đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40
năm. Cho vay dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu
dài hạn như xây dựng nhà cửa, đầu tư trang thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
* Tín dụng không kỳ hạn:
Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay không xác định rõ
thời hạn trả nợ.
1.2.2.2. Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
* Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ trực
tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay.
* Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ
chức xã hội nhưng không trực tiếp cho vay khách hàng.

×