Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

tìm hiểu phân tích và định giá cổ phiếu của công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.94 KB, 80 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt nam trong những năm vừa qua tuy ẩn chứa
nhiều rủi ro và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông nhưng đã có những
bước phát triển mạnh mẽ và thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài cũng
như trong nước.
Từ cuối năm 2006 đến cuối năm 2007 thị trường có mức tăng trưởng vượt
bậc dẫn đến phong trào nhà nhà chơi chứng khoán, người người chơi chứng
khoán. Đến nay, mặc dù thị trường vẫn chưa lấy lại được đà tăng trưởng như cũ
nhưng vẫn thu hút được đông đảo các nhà đầu tư trong nước ở mọi tầng lớp dân
cư trong xã hội. Tuy nhiên, hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam có
một thực tế là công tác phân tích, định giá cổ phiếu vẫn chưa được coi trọng
đúng mức. Phân tích, định giá cổ phiếu giúp doanh nghiệp niêm yết xác định
được mức giá hợp lý khi phát hành cổ phiếu, xác định được chi phí vốn cũng
như chi phí khi mua bán sát nhập doanh nghiệp… Bên cạnh đó, công tác định
giá cổ phiếu cũng giúp các ngân hàng thương mại xác định được giá trị của cổ
phiểu trước khi quyết định cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay cầm cố cổ
phiếu…Đối với nhà đầu tư cá nhân, vai trò của công tác phân tích, định giá cũng
hết sức quan trọng.. Đến năm 2010, tuy nhà đầu tư Việt Nam cũng đã chú ý đến
kết quả kinh doanh cũng như tiềm lực phát triển thực sự của bản thân doanh
nghiệp tuy nhiên vẫn chủ yếu đầu tư theo phong trào, đầu tư “bầy đàn”, họ vẫn
đang “chơi chứng khoán” chứ chưa thực sự “đầu tư chứng khoán”. Chính vì vậy
mà nhiều nhà đầu tư đã có những quyết định, lựa chọn sai lầm do thiếu kiến thức
cần thiết, đặc biệt là kiến thức “Định giá cổ phiếu”. Họ đã phải gánh chịu những
tổn thất nặng nề về kinh tế từ những sai lầm đó.
Với mong muốn tìm được những phương pháp định giá hợp lý đối với các
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam và từ đó có thể đề xuất biện

6



pháp nhằn nâng cao chất lượng công tác định giá cổ phiếu niêm yết trên thị
trường, em xin chọn đề tài “Phân tích và định giá cổ phiếu VIS của CTCP
thép ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về phân tích và định giá cổ phiếu, kinh
nghiệm khi sử dụng các phương pháp.
- Phân tích và định giá cổ phiếu VIS của CTCP Thép Việt-Ý. Trình bày những
khó khăn gặp phải trong quá trình phân tích, định giá cổ phiếu.
- Đề xuất hệ thống giải pháp cũng như đưa ra những kiến nghị nhằm phát triển
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích và định giá cổ phiếu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào nghiên cứu các phương pháp, mô hình định giá
được áp dụng phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hệ thống hóa những
vấn đề cơ bản về lý luận và các mô hình định giá cổ phiếu. Trong đó, đi sâu vào
định giá cổ phiếu VIS của CTCP thép .
 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các mô hình định giá cổ phiếu được ứng dụng nhiều trên thế
giới cũng như ở Việt Nam. Từ đó tìm hiểu và ứng dụng việc định giá vào cổ
phiếu VIS.
4.Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu các nguồn tài liệu trong và ngoài nước để tìm ra lý luận cơ bản
về các phương pháp định giá cổ phiếu.
Thu thập số liệu thông qua bản cáo bạch, báo cáo tài chính các năm, các
báo cáo phân tích về công ty Thép Việt-Ý…Dùng phương pháp hệ thống, thống
kê và phân tích các số liệu thu thập.
7


Thông qua việc tổng hợp các số liệu thu thập được, ứng dụng các lý luận

đã tìm hiểu được tiến hành định giá cổ phiếu VIS của CTCP Thép-Việt-Ý.
5.Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
khóa luận gồm 3 chương:


 Chương 1: Khái quát chung về phân tích và định giá cổ phiếu
 Chương 2: Phân tích và định giá cổ phiếu VIS của CTCP
thép Việt-Ý
 Chương 3: Kiến nghị một số giải pháp để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phân tích và định giá cổ phiếu
9


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN TÍCH VÀ
ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU
I. Một số vấn đề về phân tích và định giá cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán chủ yếu cần phân tích phục vụ đầu tư.
Đến nay người ta đã tổng kết lại rằng có hai phương pháp phân tích đã được sử
dụng một cách phổ biến tại hầu hết các thị trường chứng khoán (TTCK) trên thế
giới, đó là phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản
(Fundamental Analysis) là phương pháp phân tích cổ phiếu dựa vào các nhân tố
mang tính chất nền tảng có tác động hoặc dẫn tới sự thay đổi giá cả của cổ phiếu
nhằm chỉ ra giá trị nội tại của cổ phiếu trên thị trường.
Các nhân tố cơ bản cần nghiên cứu bao gồm: phân tích môi trường kinh
doanh (PESTEL), phân tích môi trường cạnh tranh ngành (Porter’s Five Forces),
phân tích doanh nghiệp (SWOT).
1.1.Phân tích môi trường kinh doanh (PESTEL)
Trong khi mô hình 5 áp lực của M-Porter đi sâu vào việc phân tích các
yếu tố trong môi trường ngành kinh doanh thì PEST lại nghiên cứu các tác động

của các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố đó là
 Political (Thể chế - Luật pháp)
 Economics (Kinh tế)
 Sociocultrural (Văn hóa - Xã Hội)
 Technological (Công nghệ)
Đây là bốn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, các yếu
tố này là các yếu tố bên ngoài của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải
chịu các tác động của nó đem lại như một yếu tố khách quan. Các doanh nghiệp
dựa trên các tác động sẽ đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù
hợp.

10


1.1.1.Các yếu tố Thể chế- Luật pháp
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một
lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và
phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các
doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực
đó.
 Sự bình ổn: Chúng ta sẽ xem xét sự bình ổn trong các yếu tố xung
đột chính trị, ngoại giao của thể chế luật pháp. Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ
có thể tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế
không ổn định, xảy ra xung đột sẽ tác động xấu tới hoạt động kinh doanh trên
lãnh thổ của nó.
 Chính sách thuế: Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các thuế
tiêu thụ, thuế thu nhập… sẽ ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận của doanh
nghiệp.
 Các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp,luật lao
động, luật chống độc quyền, chống bán phá giá …

 Chính sách: Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh hưởng tới
doanh nghiệp, nó có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Như
các chính sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, thuế,
các chính sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng…
1.1.2.Các yếu tố Kinh tế
Các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài
hạn và sự can thiệp của chính phủ tới nền kinh tế.
Thông thường các doanh nghiệp sẽ dựa trên yếu tố kinh tế để quyết định
đầu tư vào các ngành, các khu vực.

11


 Tình trạng của nền kinh tế: Bất cứ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ,
trong mỗi giai đoạn nhất định của chu kỳ nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ có những
quyết định phù hợp cho riêng mình.
 Các yếu tố tác động đến nền kinh tế: Lãi suất, lạm phát,
 Các chính sách kinh tế của chính phủ: Luật tiền lương cơ bản, các
chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các
ngành: Giảm thuế, trợ cấp….
 Triển vọng kinh tế trong tương lai:Tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng
GDP, tỉ suất GDP trên vốn đầu tư…
Trong giai đoạn những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, khi nền kinh tế
Anh đang ở trong tình trạng khủng hoảng và các doanh nghiệp lại tạo ra một
cuộc chiến về giá cả, họ cắt giảm chi phí từ lao động, tăng gấp đôi chi phí quảng
cáo kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên họ đã mắc phải sai lầm vì đã tác động xấu
đến tâm lý người tiêu dùng, trong khi nguồn thu nhập bị giảm sút, không ai sẽ
đầu tư vào các hàng hóa thứ cấp xa xỉ như thiết bị an ninh.
1.1.3.Các yếu tố văn hóa xã hội
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã

hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu
vực đó.
Những giá trị văn hóa là những giá trị làm lên một xã hội, có thể vun đắp
cho xã hội đó tồn tại và phát triển. Chính vì thế các yếu tố văn hóa thông thường
được bảo vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các văn hóa tinh thần. Rõ
ràng chúng ta không thể kinh doanh humbeger tại các nước Hồi Giáo được. Tuy
vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận những giao thoa văn hóa của các nền văn
hóa khác vào các quốc gia. Sự giao thoa này sẽ thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối
sống, và tạo ra triển vọng phát triển với các ngành..
Ngay tại Việt Nam chúng ta có thể nhận ra ngay sự giao thoa của các nền
văn hóa đặc biệt thời gian gần đây là văn hóa Hàn Quốc. Ra đường thấy một nửa
12


thế giới thay phiên nhau đi ép tóc, giày hàn quốc, son môi Hàn Quốc, xe máy
hàn Quốc, ca nhạc Hàn Quốc tất cả đều xuất phát từ những bộ phim Hàn Quốc.
Bên cạnh văn hóa , các đặc điểm về xã hội cũng khiến các doanh nghiệp
quan tâm khi nghiên cứu thị trường, những yếu tố xã hội sẽ chia cộng đồng
thành các nhóm khách hàng, mỗi nhóm có những đặc điểm, tâm lý, thu nhập …
khác nhau:
Tuổi thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, ăn
uống
 Thu nhập trung bình, phân phối thu nhập
 Lối sống, học thức,các quan điểm về thẩm mỹ, tâm lý sống
 Điều kiện sống
Ở Đức trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều người có thu nhập cao, điều kiện
sống tốt, có khả năng trình độ và làm tại những vị trí ổn định của xã hội nhưng
họ thích sống độc thân, không muốn phải có trách nhiệm về gia đình, công việc
sinh con đẻ cái… Những yếu tố này đã khiến các doanh nghiệp của Đức nảy
sinh các dịch vụ, các câu lạc bộ, các hàng hóa cho người độc thân.

1.1.4.Yếu tố công nghệ.
Cả thế giới vẫn đang trong cuộc cách mạng của công nghệ, hàng loạt các
công nghệ mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ. Nếu
cách đây 30 năm máy vi tính chỉ là một công cụ dùng để tính toán thì ngày nay
nó đã có đủ chức năng thay thế một con người làm việc hoàn toàn độc lập.
Trước đây chúng ta sử dụng các máy ảnh chụp bằng phim thì hiện nay không
còn hãng nào sản xuất phim cho máy ảnh. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, công nghệ truyền thông hiện đại đã giúp các khoảng cách về địa
lý,phương tiện truyền tải.
 Đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác R&D: Trong thập
niên 60-70 của thế kỷ trước. Nhật Bản đã khiến các nước trên thế giới phải thán

13


phục với bước nhảy vọt về kinh tế trong đó chủ yếu là nhân tố con người và
công nghệ mới. Hiện nay Nhật vẫn là một nước có đầu tư vào nghiên cứu trên
GDP lớn nhất thế giới. Việc kết hợp giữa các doanh nghiệp và chính phủ nhằm
nghiên cứu đưa ra các công nghệ mới, vật liệu mới… sẽ có tác dụng tích cực đến
nền kinh tế.
 Tốc độ, chu kỳ của công nghệ, tỷ lệ công nghệ lạc hậu: nếu trước
đây các hãng sản xuất phải mất rất nhiều thời gian để tăng tốc độ bộ vi xử lý lên
gấp đôi thì hiện nay tốc độ này chỉ mất khoảng 2-4 năm. Xuất phát từ các máy
tính Pen II, Pen III, chưa đầy 10 năm hiện nay tốc độ bộ vi xử lý đã tăng với
chip set thông dụng hiện nay là Core Dual tốc độ 2.8 GB/s. Một bộ máy tính
mới tinh chỉ sau nửa năm đã trở nên lạc hậu với công nghệ và các phần mềm
ứng dụng.
 Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet đến hoạt động kinh
doanh.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, hiện nay khi nghiên cứu thị trường, các

doanh nghiệp phải đưa yếu tố toàn cầu hóa trở thành một yếu tố vĩ mô tác động
đến ngành.
1.1.5.Yếu tố hội nhập
Không ai phủ nhận toàn cầu hóa đang là xu thế, và xu thế này không tạo
cơ hội cho các doanh nghiệp, các quốc gia trong việc phát triển sản xuất, kinh
doanh.
 Toàn cầu hóa tạo ra các sức ép cạnh tranh, các đối thủ đến từ mọi
khu vực. Quá trình hội nhập sẽ khiến các doanh nghiệp phải điều chỉnh phù hợp
với các lợi thế so sánh.,phân công lao động của khu vực và của thế giới
 Điều quan trọng là khi hội nhập, các rào cản về thương mại sẽ dần
dần được gỡ bỏ, các doanh nghiệp có cơ hội buôn bán với các đối tác ở cách xa
khu vực địa lý, khách hàng của các doanh nghiệp lúc này không chỉ là thị trường

14


nội địa nơi doanh nghiệp đang kinh doanh mà còn các khách hàng đến từ khắp
nơi.
1.2.Môi trường cạnh tranh ngành – Porter’s Five Forces
1.2.1. Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp
Số lượng và quy mô nhà cung cấp: Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định
đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp.
Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực
cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khả năng thay thế sản phẩm của nhà cung cấp : Trong vấn đề này ta
nghiên cứu khả năng thay thế những nguyên liệu đầu vào do các nhà cung cấp
và chi phí chuyển đổi nhà cung cấp (Switching Cost).
Thông tin về nhà cung cấp : Trong thời đại hiện tại thông tin luôn là nhân
tố thúc đẩy sự phát triển của thương mại, thông tin về nhà cung cấp có ảnh
hưởng lớn tới việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp.

Một ngành sản xuất đòi hỏi phải có các nguyên liệu thô – bao gồm lao
động, các bộ phận cấu thành và các đầu vào khác. Đòi hỏi này dẫn đến mối quan
hệ bên mua – bên cung cấp giữa các ngành sản xuất và các hãng cung cấp các
nguyên liệu thô để chế tạo sản phẩm. Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện khả
năng quyết định các điều kiện giao dịch của họ đối với doanh nghiệp. Những
nhà cung cấp yếu thế có thể phải chấp nhận các điều khoản mà doanh nghiệp
đưa ra, nhờ đó doanh nghiệp giảm được chi phí và tăng lợi nhuận trong sản xuất,
ngược lại, những nhà cung cấp lớn có thể gây sức ép đối với ngành sản xuất
bằng nhiều cách, chẳng hạn đặt giá bán nguyên liệu cao để san sẻ phần lợi nhuận
của ngành.
1.2.2. Áp lực cạnh tranh từ khách hàng
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
15


Khách hàng được phân làm 2 nhóm:
 Khách hàng lẻ
 Nhà phân phối
Cả hai nhóm đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản
phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành
thông qua quyết định mua hàng.
Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến áp
lực cạnh tranh từ khách hàng đối với ngành
 Quy mô
 Tầm quan trọng
 Chi phí chuyển đổi khách hàng
 Thông tin khách hàng
Đặc biệt khi phân tích nhà phân phối ta phải chú ý tầm quan trọng của họ,
họ có thể trực tiếp đi sâu vào uy hiếp ngay trong nội bộ của doanh nghiệp.

Wal- Mart là nhà phân phối lớn có tầm ảnh hưởng toàn thế giới, hệ thống
phân phối của Wal mart có thể ảnh hưởng tới nhiều ngành hàng như thực phẩm,
hàng điện tử , các hàng hàng hóa tiêu dùng hàng ngày. Wal Mart có đủ quyển lực
để đàm phán với các doanh nghiệp khác về giá cả, chất lượng sản phẩm cũng
như các chính sách marketing khi đưa hàng vào trong hệ thống của mình.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, việc đưa các sản phẩm
vào hệ thống phân phối của các siêu thị luôn gặp phải khó khăn và trở ngại vì
các áp lực về giá và chất lượng. Hầu hết các sản phẩm của Việt Nam như dệt
may, da giầy rất khó xâm nhập vào các thị trường lớn như Mỹ ,EU nếu không
qua hệ thống phân phối. Chính vì vậy chúng ta đã được lắng nghe những câu
chuyện về việc một đôi giầy sản xuất ở Việt Nam bán cho nhà phân phối với giá
thấp còn người dân Việt Nam khi mua hàng ở nước ngoài thì phải chịu những
cái giá cắt cổ so với sản phẩm cùng chủng loại ở trong nước.
16


1.2.3.Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn:
Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên
trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn
nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố
sau:
 Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu
như tỉ suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
 Những rào cản gia nhập ngành : là những yếu tố làm cho việc gia
nhập vào một ngành khó khăn và tốn kém hơn .


Kỹ thuật




Vốn

 Các yếu tố thương mại: Hệ thống phân phối, thương hiệu ,
hệ thống khách hàng ...
 Các nguồn lực đặc thù: Nguyên vật liệu đầu vào (bị kiểm
soát ), bằng cấp , phát minh sáng chế, nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ
Không ai có thể lường được việc Apple sẽ cho ra đời máy nghe nhạc Ipod đánh
bại người hùng về công nghệ mutilmedia như Sony. Rõ ràng sức hấp dẫn của
cầu các thiết bị nghe nhạc đã đưa Ipod trở thành sản phẩm công nghệ được ưa
chuộng nhất. Chính Sony đã tự làm các rào cản về công nghệ, thương hiệu của
mình giảm sút bằng việc quá chú trọng vào phát triển theo chiều rộng nhiều
ngành để người tí hon Apple thâm nhập và kiểm soát toàn bộ thị trường, biến lợi
thế cạnh tranh của Sony trở thành gánh nặng cho chính họ.
Tương tự như ví dụ trên chúng ta so sánh trong ngành công nghiệp nặng
như sản xuất máy bay. Rào cản gia nhập ngành quá lớn cả về vốn, công nghệ,
nguyên vật liệu đầu vào nên hiện tại chỉ có 2 hãng hàng không lớn cạnh tranh
với nhau là Airbus và Boeing. Nếu không có sự đột biến về công nghệ để chế tạo
ra sản phẩm mới hoặc là tối ưu hơn máy bay ( Loại máy nào đó có thể đi từ nơi
này sang nơi khác như truyện cổ tích) hoặc là tính năng tương tương nhưng
17


giá và công nghệ rẻ hơn thì chắc chắn rào cản gia nhập ngành chế tạo máy bay
vẫn là đích quá xa cho các doanh nghiệp khác.
1.2.4. Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn
nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.
Ta có thể lấy luôn ví dụ sau đó mới đưa ra các nhận định về áp lực cạnh
tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế :

Ta có thể lấy ví dụ là một thức uống khả phổ biến hiện nay : đó là bia.Vậy
bia thỏa mãn nhu cầu gì :
 Gặp gỡ đối tác
 Tụ họp bạn bè
 Bàn công việc với đồng nghiệp
còn vô vàn lý do khác nhưng ta xét trên phương diện công việc nên chỉ dùng
một vài yếu tố để nhận định.
Vậy sản phẩm thay thế của bia, rượu là một hàng hóa ( hoặc dịch vụ có
thể thỏa mãn các nhu cầu ở trên). Một số hàng hóa có thể thay thế được bia rượu
: Uống cafe, uống trà, chơi thể thao .Các dịch vụ này có thể thỏa mãn các nhu
cầu trên và thêm vào một lợi ích là được chị em saganor hoan nghênh.
Qua ví dụ trên chúng ta thấy áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay
thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa
là các nhân tố về giá, chất lượng , các yếu tố khác của môi trường như văn hóa,
chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế.
Tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm thay thế : Ngay cả trong nội bộ
ngành với sự phát triển của công nghệ cũng có thể tạo ra sản phẩm thay thế cho
ngành mình. Điện thoại di động chính là sản phẩm thay thế cho điện thoại cố
định và sắp tới là VOIP sẽ thay thế cho cả hai sản phẩm cũ.

18


Chi phí chuyển đổi: Chúng ta biết các phần mềm mã nguồn mở như Linux
hay như ở Việt Nam là Viet Key Linux giá thành rất rẻ thậm chí là miễn phí
nhưng rất ít người sử dụng vì chi phí chuyển đổi từ hệ điều hành Window và các
ứng dụng trong nó sang một hệ điều hành khác là rất cao và có thể ảnh hưởng
đến hoạt động, các công việc trên máy tính.
1.2.5. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với

nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong một
ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên các đối thủ
 Tình trạng ngành : Nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng ,số lượng đối thủ
cạnh tranh...
 Cấu trúc của ngành : Ngành tập trung hay phân tán
 Ngành phân tán là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các
doanh nghiệp còn lại
 Ngành tập trung : Ngành chỉ có một hoặc một vài doanh
nghiệp nắm giữ vai trò chi phối (Điều khiển cạnh tranh- Có thể coi là độc quyền)
 Các rào cản rút lui (Exit Barries) : Giống như các rào cản gia nhập
ngành, rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành của doanh
nghiệp trở nên khó khăn :
 Rào cản về công nghệ, vốn đầu tư
 Ràng buộc với người lao động
 Ràng buộc với chính phủ, các tổ chức liên quan
 Các ràng buộc chiến lược, kế hoạch.
Thị trường cung cấp dịch vụ viễn thông di động Việt Nam hiện nay đã có
rất nhiều nhà cung cấp nhưng quyền lực chi phối thị trường vẫn nằm trong tay 3
nhà cung cấp dịch vụ viễn thông là Vina Phone , Mobifone và Viettel.. Nhu cầu
19


sử dụng dịch vụ của Việt Nam tăng khoảng 5-10%/ năm, doanh thu, lợi nhuận
của các nhà cung cấp cũng tăng với con số tương đương. Mặc dù cho các rào cản
gia nhập ngành, rào cản rút lui .... là cao, áp lực từ khách hàng không đáng
kể nhưng đang có rất nhiều doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập vào thị trường . Một
điều đáng mừng hơn nữa là sự ra đời của ngành dịch vụ kèm theo dịch vu viễn
thông như : Các tổng đài giải trí, cá cược, các dịch vụ khác mà điển hình gần đây
là xem giá chứng khoán qua mạng di động. Với xu hướng này sức cạnh tranh

trong nội bộ ngành sẽ ngày càng gia tăng và lúc đó người tiêu dùng sẽ ngày càng
được tôn trọng hơn.
1.2.6. Áp lực từ các bên liên quan mật thiết
Đây là áp lực không được đề cập trực tiếp ngay trong ma trận nhưng trong
quyển sách " Strategic Management & Business Policy" của Thomas L. Wheelen
và J. David Hunger có ghi chú về áp lực từ các bên liên quan mật thiết.
 Chính phủ
 Cộng đồng
 Các hiệp hội
 Các chủ nợ, nhà tài trợ
 Cổ đông
 Complementor ( Tạm hiểu là nhà cung cấp sản phẩm bổ sung cho một
hoặc nhiều ngành khác: Microsoft viết phần mềm để cho các công ty bán được máy
tính, các doanh nghiệp khác có thể soạn thảo văn bản để bán được hàng ...)

Sau khi phân tích xong mô hình 5 áp lực, chúng ta có thể sử dụng nhóm
chiến lược để mô tả các doanh nghiệp trong ngành trên một đồ thị.Trong điều
kiện hạn hẹp tôi sẽ đưa ra một số kiến thức cơ bản để xác định nhóm chiến lược.
 Phương pháp xác định nhóm chiến lược: Xây dựng sơ đồ
 Mục đích xây dựng : Phân biệt các doanh nghiệp với nhau và định
vị các doanh nghiệp trên cùng một sơ đồ, từ đó giúp các doanh nghiệp có thể xác
định vị trí của mình trên thị trường
20


 Các tiêu chí sử dụng để xây dựng sơ đồ: Giá, chất lượng, công
nghệ, thương hiệu, thị phần ... và có thể xây dựng thành nhiều sơ đồ, nhiều cấp
tiêu chí.
1.3.Phân tích doanh nghiệp –SWOT
SWOT viết tắt của Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu),

Opportunities (thời cơ) và Threats (nguy cơ) - là một mô hình nổi tiếng trong
phân tích kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là công cụ cực kỳ hữu ích giúp chúng ta tìm hiểu vấn đề hoặc ra
quyết định trong việc tổ chức, quản lý cũng như trong kinh doanh. Nói một cách
hình ảnh, SWOT là khung lý thuyết mà dựa vào đó, chúng ta có thể xét duyệt lại
các chiến lược, xác định vị thế cũng như hướng đi của một tổ chức, một công ty,
phân tích các đề xuất kinh doanh hay bất cứ ý tưởng nào liên quan đến quyền lợi
của doanh nghiệp. Và trên thực tế, việc vận dụng SWOT trong xây dựng kế
hoạch kinh doanh, hoạch định chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, khảo sát
thị trường, phát triển sản phẩm và cà trong các báo cáo nghiên cứu .. đang ngày
càng được nhiều doanh nghiệp lựa chọn.
Như vậy, phân tích SWOT là phân tích các yếu tố môi trường bên ngoài
mà doanh nghiệp phải đối mặt (các cơ hội và nguy cơ) cũng như các yếu tố
thuộc môi trường nội bộ doanh nghiệp (các mặt mạnh và mặt yếu). Đây là một
việc làm khó đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, chi phí, khả năng thu nhập, phân
tích và xử lý thông tin sao cho hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp xác định các cơ hội và nguy cơ thông qua phân tích dữ liệu
về thay đổi trong các môi trường: kinh tế, tài chính, chính trị, pháp lý, xã hội và
cạnh tranh ở các thị trường nơi doanh nghiệp đang hoạt động hoặc dự định thâm
nhập. Các cơ hội có thể bao gồm tiềm năng phát triển thị trường, khoảng trống
thị trường, gần nguồn nguyên liệu hay nguồn nhân công rẻ và có tay nghề phù
hợp. Các nguy cơ đối với doanh nghiệp có thể là thị trường bị thu hẹp, cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, những thay đổi về chính sách có thể xảy ra, bất ổn vê
21


chính trị ở các thị trường chủ chốt hay sự phát triển công nghệ mới làm cho các
phương tiện và dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp có nguy cơ trở nên lạc
hậu.
Với việc phân tích môi trường nội bộ của doanh nghiệp, các mặt mạnh về

tổ chức doanh nghiệp có tthể là các kỹ năng, nguồn lực và những lợi thế mà
doanh nghiệp có được trước các đối thủ cạnh tranh (năng lực chủ chốt của doanh
nghiệp) như có nhiều nhà quản trị tài năng, có công nghệ vượt trội, thương hiệu
nổi tiếng, có sẵn tiền mặt, doanh nghiệp có hình ảnh tốt trong mắt công chúng
hay chiếm thị phần lớn trong các thị thường chủ chốt. Những mặt yếu của doanh
nghiệp thể hiện ở những thiểu sót hoặc nhược điểm và kỹ năng, nguồn lực hay
các yếu tố hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đó có thể là mạng
lưới phân phối kém hiệu quả, quan hệ lao động không tốt, thiếu các nhà quản trị
có kinh nghiệm quốc tế hay sản phẩm lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh...
Kết quả của quá trình phân tích SWOT phải đảm bảo được tính cụ thể,
chính xác, thực tế và khả thi vì doanh nghiệp sẽ sử dụng kết quả đó để thực hiện
những bước tiếp theo như: hình thành chiến lược, mục tiêu chiến lược chiến
thuật và cơ chế kiểm soát chiến lược cụ thể. Chiến lược hiệu quả là những chiến
lược tận dụng được các co hội bên ngoài và sức mạnh bên trong cũng như vô
hiệu hóa được những nguy cơ bên ngoài và hạn chế hoặc vượt qua được những
yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Mục tiêu chiến lược (là những mục tiêu
chính mà doanh nghiệp muốn theo đuổi thông qua việc thực hiện một loạt các
hành động cụ thể) phải đo lường được, mang tính khả thi và có thời hạn thực
hiện. Các chiến thuật thường được thiết lập theo hướng tập trung cụ thể hóa chi
tiết việc thực hiện các kế hoạch chi tiết như thế nào. Cơ chế kiểm soát chiến
lược là cơ chế quản lý và tổ chức chiến lược mà doanh nghiệp sử dụng để kiểm
soát bất cứ bước nào trong 5 bước hình thành chiến lược nhằm đảm bảo quá
trình thực hiện đi theo đúng định hướng mục tiêu chiến lược.

22


Chẳng hạm cho tới năm 1992, Walt Disney Company luôn thành công ở
những công viên chủ đề Disneyland ở Anaheim, Calífornia (1955), ở Florida
(1970), và ở Tokyo (1983). Năm 1992, Disney lại tiếp tục thành công tại Paris

nhà những kết quả chính xác thực tế và khả thi của quá trình phân tích SWOT,
cụ thể, S: Sự nổi tiếng của các nhân vật phim hoạt hình, thương hiệu Walt
Disney nổi tiếng, tiềm lực tài chính vững mạnh, W: sự hiểu biết về văn hóa, sở
thích của người Pháp chưa đầy đủ, O: Vị trí địa lý của Phi thuận lợi (trung tâm
Châu Âu), Chính phủ Pháp có những biện pháp khuyến khích và hỗ trợ về giao
thông, về giá đất, về đóng góp cổ phần... T: Sự cạnh tranh của các công viên chủ
đề khác ở Paris...
Một ví dụ khác gần gũi hơn là vào thời kỳ 1990, khi khối Đông Âu sụp đổ
Công ty Công nghiệp cao su miền Nam (Casumina) mất một thị trường quan
trọng với 15 triệu vỏ xe/năm trong lúc đang gánh lên vai món nợ của những năm
trước, Công ty chỉ còn sản xuất khoảng 20% công suất.
Vào thời kỳ đó, Công ty đã kịp thời có những thay đổi đúng đắn trong
chiến lược kinh doanh quốc tế đó là ban đầu thì tiếp cận công nghệ cao với chi
phí thấp khi ký hợp đồng liên doanh và chế biến cho các đối tác của Nhật, khai
thác sự trợ giúp kỹ thuật từ đối tác sau đó áp dụng chiến lược tạo sự khác biệt
cho sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ vào kết quả của việc
phân tích SWOT cho điều kiện môi trường kinh doanh của Casumina, cụ thể: S:
Công ty có đội ngũ lãnh đạo có năng lực, đội ngũ công nhân gắn bó với Công ty,
W: Công ty chưa có kinh nghiệm về sử dụng kỹ thuật cao để sản xuất gánh nặng
từ món nợ lớn, thiết bị công nghệ lạc hậu (tính đến 1990 là đã 15 năm sử dụng),
O: Công nghệ sản xuất vỏ xe 2 bánh đã đến tới hạn, nhu cầu thị trường nội địa
về xuất vỏ xe 2 bánh cao, lợi thế về chi phí nhân công rẻ và môi trường sản xuất
thuận lợi, T: Mất thị trường quan trọng khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ nguy cơ
đối đầu với các đại gia trên thế giới về vỏ xe 2 bánh ...

23


II. Các phương pháp phân tích, định giá cổ phiếu
2.1. Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức (Discounted Dividend ModelDDM)

Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức được xây dựng trên quan điểm rằng
giá cổ phiếu được xác định bằng giá trị hiện tại của toàn bộ các luồng thu nhập
trong tương lai. Giả sử có một cổ phiếu được nắm giữ năm thứ n, cổ tức chi trả
từ năm thứ nhất đến năm thứ n lần lượt là D 1,D2,…,Dn. Biết giá cổ phiếu năm
thứ n là Pn và lợi suất yêu cầu của nhà đầu tư là r không đổi, ta có công thức tính
giá trị cổ phiếu theo phương pháp chiết khấu luồng cổ tức như sau:

=

+

(1+ ) (1+ )

Trong đó:
P0 là giá cổ phiếu tại thời điểm hiện tại
Dt là mức chia cổ tức năm t
r là tỷ lệ lợi tức yêu cầu (còn gọi là lãi suất chiết khấu hay chi phí vốn cổ phần)
Nếu cổ phiếu được nhà đầu tư nắm giữ vô hạn, có nghĩa là n tiến tới vô
cùng (thông thường, thời gian tồn tại của cổ phiếu là vô hạn vì nó không có thời
gian đáo hạn). Khi đó, giá trị hiện tại của vốn gốc P n/(1+r)n sẽ tiến tới 0 và công
thức trên sẽ trở thành
=
(1+ )

Sau đây, chúng ta sẽ xem xét một vài trường hợp đặc biệt của phương
pháp định giá cổ phiếu theo mô hình chiết khấu cổ tức

24



2.1.1.Trường hợp công ty không tăng trưởng
Trong trường hợp công ty không tăng trưởng thì mức cổ tức chia hàng
năm sẽ là cố định, tức là D0 = D1 = D2 =…= Dn. Khi đó giá cổ phiếu sẽ được
tính theo công thức :
1
=
(1+ ) = × 1 −
(1+ )
2.1.2.Trường hợp công ty tăng trưởng đều đặn

=

Khi công ty tăng trưởng đều đặn, điều này có nghĩa là cổ tức tăng trưởng
hàng năm theo một tỷ lệ g cố định.
Ta có : D1=D0(1+g), D2=D1(1+g)=D0(1+g)2….
Dt = D0(1+g)t
Với giả định là r>g>0, giá cổ phiếu được tính như sau :
×(1+ )

×(1+ )

=
(1+ )
=

= −
Công thức trên chỉ đúng khi tốc độ tăng trưởng g nhỏ hơn lợi suất dự tính
r. Trên thực tế người ta giả định r >g là vì điều này hoàn toàn hợp lý. Bởi vì g là
tốc độ tăng trưởng trong dài hạn, trong khi r là mức lợi suất yêu cầu trong ngắn
hạn và thường xuyên thay đổi.

2.1.3.Trường hợp công ty tăng trưởng trong nhiều giai đoạn
Trên thực tế, không có một công ty nào có một tốc độ tăng trưởng bất biến
trong thời gian tồn tại của mình. Trong chu kỳ sống của mình thì mỗi công ty sẽ
có mức tăng trưởng khác nhau. Chính vì thế, đây là trường hợp thực tế nhất,
thông thường xảy ra trường hợp mức tăng trưởng cổ tức tăng trưởng không đều
trong một số năm, trước khi có thể đạt đến giai đoạn ổn định.

25


Để xác định được giá cổ phiếu, trước hết, chúng ta phải chia quá trình
phát triển của công ty thành các giai đoạn phát triển khác nhau, chủ yếu là hai
giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn tăng trưởng không ổn định, trong giai
đoạn này, nhà đầu tư cần căn cứ vào ước tính về thu nhập và chính sách cổ tức
để xác định cổ tức hàng năm. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển lâu dài và
giả định đó là giai đoạn có mức tăng trưởng không đổi.
Để tính giá cổ phiếu, ta áp dụng kết hợp công thức của hai trường hợp trên
: Giả sử trong n năm đầu giá trị cổ tức được ước đoán là D1,D2,….Dn. Từ
năm thứ n+1 trở đi mức tăng trưởng cổ tức là g cố định.
Khi đó, giá cổ phiếu được tính như sau :
−ᄃ
=
(1+ ) + (1 + )
Qua 3 công thức tính giá cổ phiếu trong ba trường hợp trên, ta thấy chúng
ta sẽ phải dự tính các thông số : Cổ tức trong tương lai (D), mức lợi suất dự tính
(r), và tốc độ tăng trưởng cổ tức (g). Để tính được một cách chính xác các thông
số đó, cần phải tiến hành phân tích xác định tình hình tài chính của tố chức phát
hành để đự đoán được triển vọng của doanh nghiệp.
Ước tính cổ tức (D) : Việc ước tính cổ tức năm đầu được dựa trên số liệu
về cổ tức trong quá khứ, chính sách phân chia cổ tức trong tương lai, ước tính

thu nhập năm sau để từ đó ước tính giá trị cổ tức có thể nhận được trong năm
đầu tiên D1
Cổ tức = D = tỷ lệ chia cổ tức × EPS
Trong đó, thu nhập trên mỗi cổ phiếu ( Earning per share – EPS) được
tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng trừ đi cổ tức ưu đãi và chia cho số lượng cổ
phiếu đã phát hành
- Tính tốc độ tăng trưởng g :

26


Việc ước tính tỷ lệ tăng trưởng cổ tức của công ty phải dựa trên việc đánh
giá tiềm năng phát triển của công ty trong dài hạn chứ không chỉ đơn thuần
trong một số năm tới, vì tốc độ tăng trưởng được giả định là mức tăng trưởng
đều đặn của công ty trong suốt cả quãng đời hoạt động. Do vậy, các số liệu để
tính toán g phải là mức dự đoán bình quân trong dài hạn.
Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức được xác định dựa trên tỷ lệ tăng trưởng lợi
nhuận và tỷ lệ lợi nhuận dùng để chi trả cổ tức. Trong thực tế, tốc độ tăng trưởng
cổ tức được giả định bằng với tốc độ tăng trưởng thu nhập và được tính toán
theo công thức sau :
g = ROE × b
Trong đó :
b là tỷ lệ lợi nhuận được để lại tái đầu tư
=1−

=1−

ỷᄃệᄃ ᄃ ảᄃổᄃứ

ROE = Thu nhập ròng / vốn cổ đông

= Thu nhập trên một cổ phiếu (EPS) / giá trị sổ sách của một cổ phiếu
- Tính mức lợi suất yêu cầu (r) :
Để tính được tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư, cần phải dựa vào
mức độ rủi ro của công ty phát hành. Nếu công ty đó có độ rủi ro càng cao thì
nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một mức tỷ suất lợi nhuận càng lớn để có thể bù đắp rủi ro
đó. Để xác định được r, người ta có một số công thức khác nhau tùy thuộc vào
cơ cấu vốn của công ty phát hành. Cách phổ biến nhất để xác định r là áp dụng
theo mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Prising Mode – CAPM)
R = rf + β(rm-rr)
Trong đó :
rf : Là lãi suất tín phiếu kho bạc, có mức rủi ro bằng không
rm : Là lợi suất danh mục thị trường
27


β : Là mức độ rủi ro của công ty
β(rm – rf) : Mức bù rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu
- Cách tính hệ số
Beta hay còn gọi là hệ số beta, đây là hệ số đo lường mức độ biến động
hay còn gọi là thước đo rủi ro hệ thống của một chứng khoán hay một danh mục
đầu tư trong tương quan với toàn bộ thị trường Hệ số beta là một tham số quan
trọng trong mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM). Beta được tính toán dựa trên
phân tích hồi quy, và bạn có thể nghĩ về beta giống như khuynh hướng và mức
độ phản ứng của chứng khoán đối với sự biến động của thị trường. Một chứng
khoán có beta bằng 1, muốn ám chỉ rằng giá chứng khoán đó sẽ di chuyển cùng
bước đi với thị trường. Một chứng khoán có beta nhỏ hơn 1 có nghĩa là chứng
khoán đó sẽ có mức thay đổi ít hơn mức thay đổi của thị trường. Và ngược lại,
beta lớn hơn 1 sẽ chúng ra biết giá chứng khoán sẽ thay đổi nhiều hơn mức dao
động của thị trường. Ví dụ, nếu beta của một chứng khoán là 1.2, điều đó có
nghĩa là nó có biên độ dao động nhiều hơn thị trường 20%. Nhiều cổ phiếu

thuộc các ngành cung cấp dịch vụ công ích có beta nhỏ hơn 1. Ngược lại, hầu
hết các cổ phiếu dựa trên kỹ thuật công nghệ cao có beta lớn hơn 1, thể hiện khả
năng tạo được một tỷ suất sinh lợi cao hơn, những cũng đồng thời tiềm ẩn rủi ro
cao hơn.
Hệ số β được tính toán dựa trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu tư của một
chứng khoán và lợi suất của danh mục thị trường.
Ta có công thức tính hệ số β như sau :
)(


=( −
)
Trong đó : là lợi suất của chứng khoán x tại thời điểm i,
bình của chứng khoán X.

28

là lợi suất trung


là lợi suất của thị trường tại thời điểm i,

là lợi suất trung bình của toàn

thị trường.
là phương sai lợi suất của danh mục thị trường.
- Tính chất của hệ số β
 Những chứng khoán không có rủi ro thì β bằng 0.
Khi đó lợi suất yêu cầu chính bằng lãi suất của tín phiếu kho bạc :


R= Rf + 0(Rm – Rf) = Rf
 Danh mục thị trường có hệ số β bằng 1. Do đó một cổ phiếu có hệ số β
giống như danh mục thị trường (bằng 1) thì lợi suất ước tính bằng với lợi suất
ước tính của danh mục thị trường :

R= Rf + 1(Rm - Rf) = Rm
 Một cổ phiếu có hệ số β lớn hơn 1 thì lợi suất kỳ vọng sẽ lớn hơn lợi suất
kỳ vọng của danh mục thị trường. Và ngược lại, β < 1 thì lợi suất kỳ vọng của cổ
phiếu đó sẽ nhỏ hơn lợi suất kỳ vọng của danh mục thị trường.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, đối với công ty lần đầu phát hành cổ phiếu ra
công chúng, thì chưa thể áp dụng công thức trên để xác định lợi suất yêu cầu r vì
chưa có căn cứ để xác định mức độ rủi ro của công ty. Vì thế, để xác định được
lợi suất yêu cầu thì người đầu tư phải có căn cứ vào tỷ suất thu nhập dự tính của
các cổ phiếu có cùng mức rủi ro với cổ phiếu cần định giá, vì theo mô hình
CAPM thì để đảm bảo điều kiện cần bằng trong thị trường hoạt động hoàn hảo
thì tất cả chứng khoán có cùng độ rủi ro đều phải được chào bán với cùng một tỷ
suất thu nhập dự tính.
Như vậy, để tính được giá trị nội tại của cổ phiếu theo phương pháp chiết
khấu luồng cổ tức, ta phải thực hiện các bước làm như sau :
 Bước 1 : Ước lượng cổ tức
 Bước 2 : Ước lượng g,r.
29


g = ROE × (1 – tỉ lệ chi trả cổ tức)
r được tính theo mô hình CAMP đối với công ty không có vốn nợ. Hoặc được
tính theo công thức.
 Bước 3 : Thay các giá trị vừa ước lượng được vào công thức để tính giá
trị cổ phiếu
2.2.Phương pháp định giá cổ phiếu dựa vào mô hình FCFF (Free Cash

Flow to Firm)
Trong phương pháp FCFF, chúng ta bắt đầu bằng cách định giá doanh
nghiệp, thay vì vốn chủ sở hữu. Bằng cách loại bỏ giá trị thị trường của những
quyền lợi không thuộc vốn chủ sở hữu (non-equity claims) trong ước tính này, ta
thu được giá trị vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Ngân lưu được chiết khấu là
những ngân lưu đi vào doanh nghiệp, được tính như thể doanh nghiệp không có
nợ và không được hưởng lợi ích thuế từ chi phí lãi vay.
Mặc dù có định kiến cho rằng phương pháp này đòi hỏi phải giả định tỷ lệ
nợ không đổi, nhưng cách tiếp cận này đủ linh hoạt để cho phép các tỷ lệ nợ
thay đổi theo thời gian. Thực tế, một trong những sức mạnh lớn nhất của mô
hình này là nó cho phép dễ dàng lồng những thay đổi trong cơ cấu vốn vào công
tác định giá thông qua suất chiết khấu thay vì thông qua ngân lưu.
Ý tưởng mang tính cách mạng và trực quan nhất đằng sau việc định giá
doanh nghiệp là quan niệm cho rằng chủ sở hữu và tổ chức cho vay đối với
doanh nghiệp dù gì vẫn là các đối tác cung cấp vốn cho doanh nghiệp và chia sẻ
sự thành công của doanh nghiệp. Sự khác biệt chủ yếu giữa chủ sở hữu và chủ
nợ trong các mô hình định giá doanh nghiệp nằm ở bản chất quyền lợi được xác
lập của họ đối với ngân lưu - chủ nợ được giải quyết quyền lợi bằng một khoản
ngân lưu cố định và chủ sở hữu nhận quyền lợi dựa trên phần ngân lưu còn lại.
Theo như mô hình chiết khấu cổ tức và FCFE, mô hình FCFF có các dạng
khác, chủ yếu nhờ kết quả của những giả định về sự tăng trưởng kỳ vọng sẽ cao
30


×