Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập đạo đức lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.86 KB, 23 trang )

SKKN
"Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập
đạo đức lớp 3".

Tác giả: Thái Ngọc Cường- TH Sơn Mai
Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ

I. Cơ sở khoa học.
1, Cơ sở lý luận:
Đạo đức là "cái gốc" của con người. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
"Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài
thì làm việc gì cũng khó". Người cũng đă từng nói: '' Hiền dữ đâu phải là tính
sẵn, phần lớn do giáo dục mà nên '' .
Hay cổ nhân xưa cũng có câu: "Nhân chi sơ, tính bản thiện" nghĩa là con
người sinh ra vốn rất lương thiện, con người chỉ không thiện (Đức) khi hấp thụ
những điều ác, điều không tốt và không được giáo dục, không được rèn luyện. Vì
vậy ngay từ xa xưa các cụ đồ (người dạy học) đã có quan điểm dạy học "Tiên
học lễ, hậu học văn".
Ngày nay Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng việc giáo dục Đạo đức
trong trường học đối với học sinh mà định hướng cơ bản được thể hiện qua mục
tiêu của giáo dục là: "Giáo dục và Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người có
tri thức vững vàng, có cơ thể khoẻ mạnh và một tâm hồn trong sáng".
Để thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục cấp Tiểu học cũng đã đề
ra mục tiêu cụ thể trong việc giáo dục Đạo đức cho học sinh. Việc giáo dục Đạo
đức cho học sinh Tiểu học được thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khoá,
thông qua việc giảng dạy các môn học và trọng tâm là thông qua việc giảng dạy
môn Đạo đức.

1



Mục tiêu của môn Đạo đức ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng là giúp
cho học sinh có những hiểu biết ban đầu, hh́nh thành chuẩn mực đạo đức phù hợp
với lứa tuổi và pháp luật, đồng thời nắm được ư nghĩa của việc thực hiện những
chuẩn mực hành vi đạo đức đó. Nó từng bước hh́nh thành cho học sinh kĩ năng
nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, lựa chọn và
thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức trong các th́nh huống cụ thể của cuộc
sống. Không những thế nó cc̣n hh́nh thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương quư
trọng con người, yêu cái tốt, không đồng th́nh với cái xấu cái ác.
Do đó việc dạy học theo tính tích cực, tự lực sáng tạo của học sinh trở thành
vấn đề cần thiết đối với giáo viên Tiểu học nói chung và giáo viên lớp 3 nói riêng
đă được quy định tại điểm 2 Điều 24 của luật Giáo dục ''Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực chủ đạo của học sinh, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn''
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc giáo dục và đạo đức cho học sinh
không phải là vấn đề đơn giản. Nó đc̣i hỏi người thầy phải có những phương pháp
giáo dục phù hợp, giúp học sinh phát triển nhân cách một cách toàn diện, tránh
cho học sinh tiếp xúc với những hành vi tiêu cực, làm sao để cho các em có được
lối sống thích nghi với thời đại. Song cũng cần phải cho học sinh thấy được
những nét đẹp, những phẩm chất cao quư, những truyền thống quư báu của dân
tộc.
Để nâng cao hiệu quả dạy tốt giờ đạo đức lớp 3 đc̣i hỏi người thầy phải có phải
biết lựa chọn, sử dụng các phương pháp trong một tiết dạy nói chung và một tiết
đạo đức nói riêng là rất cần thiết. Sự kết hợp hài hoà các phương pháp dạy học,
lấy phương pháp này bổ trợ cho phương pháp kia trong giảng dạy được coi như
một nghệ thuật mà người thầy cần đạt tới. Là một trong những giáo viên trẻ, luôn
quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học các môn ở tiểu học trong đó có

2



môn Đạo đức, tôi đă chọn nghiên cứu tài: "Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy các dạng bài tập đạo đức lớp 3".
Mục tiêu của giáo dục đạo đức ở Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng là:
1. 1, Về kiến thức: Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực, hành vi đạo
đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong quan hệ của các em với bản thân, gia
đình, nhà trường , cộng đồng xã hội, môi trường tự nhiên và ý ngghĩa của việc
thực hiện các chuẩn mực đó (Thực hiện các chuẩn mực đó thì có lợi gì? không
thực hiện các chuẩn mực đó thì có hại gì?)
1. 2, Về kỹ năng, hành vi: Biết nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và
những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; có kỹ năng lựa chọn và thực
hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình
huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
1. 3, Về giáo dục thái độ: Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin vào
khả năng của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình, yêu thương, tôn
trọng mọi người, mong muốn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người, đồng
tình và làm theo cái thiện, cai đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai,
cái xấu.
Theo chương trình mới của môn Đạo đức, ta thấy có sự thay đổi trong mục
tiêu chung bởi vì:
- Mục tiêu của dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học là dạy hành vi đạo đức, nên
cần chú trọng kỹ năng hành vi.
- Thực hiện mục tiêu đào tạo con người cho hoạt động thực tiễn nên học phải
đi đôi với hành, dạy học môn Đạo đức cũng như giáo dục đạo đức phải gắn với
thực tiễn vì đào tạo con người để hoạt động thực tiễn.
- Đáp ứng yêu cầu thực tế đời sống đạo đức: Nền kinh tế thị trường có nhiều
mặt tích cực, đồng thời cũng có tác động tiêu cực làm xói mòn một số giá trị đạo

3



đức truyền thống. Do đó phải quan tâm giáo dục kỹ năng hành vi đúng chuẩn
mực đạo đức có thái độ, bản lĩnh kiên định trước các tiêu cực, tệ nạn xã hội.
Tóm lại: Mục tiêu của môn Đạo đức ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói
riêng là góp phần hh́nh thành cho học sinh một phong cách sống lành mạnh.
Vấn đề đặt ra là làm cách nào để học sinh nắm bắt được kiến thức của môn
Đạo đức một cách tích cực, chủ động mà không bị áp đặt. Chính vh́ vậy, giáo
dục đạo đức nói chung và giảng dạy môn Đạo đức nói riêng ở Tiểu học là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng góp phần đào tạo nên những công dân đủ đức,
đủ tài và có bản
lĩnh để xây dựng một nước Việt Nam ngày một giàu đẹp, tiến bộ và văn
minh.
2, Cơ sở thực tiễn.
2. 1, Thuận lợi:
- Đă có sự quan tâm, đầu tư của ngành dọc, của nhà trường về mặt chỉ đạo
chuyên môn, về đồ dùng môn Đạo đức lớp 3.
- Học sinh yêu thích môn học này.
- Đây là môn học gắn với thực tế, có thể sử dụng nhiều ví dụ ở thực tiễn để
liên hệ trong giảng daỵ, giáo viên giúp học sinh giải quyết tốt các bài tập cũng là
giúp các em nắm vững và cũng cố kiến thức đă học từ đó áp dụng nó trong cuộc
sống hàng ngày.
2. 2, Hạn chế:
- Hiện nay đă đưa chín môn học bắt buộc vào Tiểu học nên thời gian dành cho
môn Đạo đức cc̣n hạn chế dẫn đến giáo viên và học sinh chưa chú tâm nhiều vào
môn học này.

4


- Khi dạy môn Đạo đức lớp 3, một số giáo viên chưa sử dụng các phương

pháp dạy học có hiệu quả; chưa linh hoạt kết hợp chặt chẽ, bổ sung giữa các
phương pháp dạy học; chưa chú trọng việc cho học sinh giải quyết tốt các bài tập
dẫn đến học sinh chỉ nắm lí thuyết mà không làm theo được những điều các em
đă học.
- Thiếu sót cơ bản trong việc dạy môn Đạo đức hiện nay ở lớp 3 là giáo viên
cc̣n tách rời hệ thống tri thức, khái niệm về đạo đức với việc áp dụng chúng vào
thực hành giao tiếp trước hết là hoàn thành các bài tập, ứng sử trong cuộc sống
dẫn đến hiện tượng học sinh chỉ nắm bài hời hợt mà không hiểu rơ bài đạo đức
đó là giúp cho em điều ǵ trong cuộc sống ...
- Ngoài ra trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học, nhiều giáo viên
vẫn
giữ kiểu dạy học cũ: “thầy hỏi - tṛ trả lời”, dẫn đến th́nh trạng học sinh ỉ lại không
tự động năo hay nói cách khác là học sinh không được giao việc để làm.
- Đồ dùng thiết bị dạy học cc̣n chưa đáp ứng đủ nhu cầu dạy - học môn Đạo
đức.
- Vẫn cc̣n một số giáo viên coi nhẹ môn này, giảng cc̣n qua loa về lí thuyết,
chưa hướng dẫn học sinh hoàn thành các bài tập. Có chăng thh́ giáo viên chỉ mới
chú trọng phần lí thuyết như thông qua việc giáo viên kể, học sinh đọc truyện và
trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa rồi rút ra bài học” Ghi nhớ” và yêu cầu
học sinh học thuộc nên khi hỏi về kiến thức, khái niệm thh́ các em có thể trả lời
một cách rành mạch. Nhưng nếu yêu cầu các em nêu lên các việc làm cụ thể
trong cuộc sống hàng ngày hay yêu cầu các em xử lí một th́nh huống có liên quan
đến bài học thh́ lúng túng và có lúc không nêu được, không xử lí được.
- Kiến thức thực tế để xây dựng chuẩn mực đạo đức cho học sinh cc̣n hạn chế
như các em không được tham gia làm một số việc mà các em có thể làm do

5


người lớn không tin tưởng hay sợ các em vất vả... Chính vh́ vậy kiến thức, kĩ

năng, thái độ của các em chủ yếu được hính thành qua giáo dục đạo đức ở nhà
trường và đóng vai tró chủ đạo là môn Đạo đức.
Do đó vấn đề đặt ra là việc sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy
học môn Đạo đức lớp 3 hiện nay là rất cần thiết. Đặc biệt là th́m ra "Một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập Đạo đức lớp 3"
để giúp các em được “học đi đôi với hành”.
Qua nghiên cứu nội chương trình, mục tiêu, tài liệu, ... của môn học như cấu
trúc của Vở bài tập môn Đạo đức Tiểu học nói chung và Vở bài tập Đạo đức lớp
3 nói riêng (kể cả tiết 1 và tiết 2). Ta có thể kể ra những dạng bài tập cơ bản là:
- Dạng bài tập điền "đúng - sai"; "nên - không nên"; "tán thành - không tán
thành"….
- Dạng bài tập thông qua tình huống để học sinh nhận xét, đánh giá, bày tỏ
quan
điểm.
- Dạng bài tập quan sát tranh để nhận xét, đánh giá, đặt tên……
- Dạng bài tập sưu tập và trình bày tư liệu.
- Một số dạng bài tập khác.
Mỗi dạng bài tập có những yêu cầu, mục đích khác nhau có quy trình và
phương pháp dạy học khác nhau. Ở từng dạng bài tập đều có những đặc điểm
riêng mang đặc trưng cho mỗi dạng bài. Ở mỗi dạng bài nếu ta có những quy
trình, phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học phù hợp thì chất lượng
giảng dạy môn Đạo đức sẽ rất tốt và ngược lại.
3, Mục đích nghiên cứu :

6


Ngoài những hạn chế nêu trên thh́ qua thực tế giảng dạy nhiều năm, qua sinh
hoạt chuyên môn các cấp (tổ, trường), qua dự giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy
khi giảng dạy môn Đạo đức thh́ việc giải quyết các dạng bài tập khác nhau do giáo

viên không nắm vững được những quy trình và phương pháp giảng dạy đặc thù
nên chất lượng giờ dạy không cao, qua đó chất lượng giáo dục cũng không được
như mong muốn.
Vậy làm thế nào để giúp học sinh giải quyết tốt các bài tập nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy môn Đạo đức? Trước những băn khoăn trăn trở
đó và thuận lợi cho bản thân là 3 năm gần đây được mhà trường phân công giảng
dạy lớp 3 nên tôi đã quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy các dạng bài tập Đạo đức lớp 3"để nghiên cứu. Sau một
thời gian nghiên cứu, vận dụng tôi nhận thấy một số biện pháp của tôi đã đem
lại hiệu quả khả quan. Tôi xin trình bầy để các đồng chí đồng nghiệp cùng tham
khảo.
4, Đối tượng nghiên cứu:
- "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập
Đạo
đức lớp 3".
5, Thời gian nghiên cứu:
Tôi đă tiến hành nghiên cứu đề tài nay từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 3 năm
2015
6, Phạm vi nghiên cứu:
Chương trình đạo đức lớp 3 hiện hành.
7, Phương pháp nghiên cứu:

7


Để thực hiện đề tài này tôi thực hiện các phương pháp nghiên cứu chủ đạo sau
đây:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu...
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm....

Phần thứ hai
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài
tập Đạo đức lớp 3:
Qua thực tế nghiên cứu và áp dụng giảng dạy của nhiều năm qua, tôi có thể
đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập
Đạo đức lớp 3 bằng các quy trình dạy các dạng bài tập Đạo đức lớp 3 như sau:
1. Dạy dạng bài tập thông qua một câu chuyện.
Dạng bài tập được thiết kế thông qua một câu chuyện nhằm mục đích thông
qua câu chuyện để cung cấp cho học sinh những chuẩn mực đạo đức, từ đó các
em biết vận dụng thực hành hành vi đạo đức.
Quy trình dạy dạng bài tập thông qua một câu chuyện như sau:
- Bước 1: Kể chuyện.
- Bước 2: Khai thác nội dung câu chuyện.
- Bước 3: Rút ra bài học đạo đức (Ghi nhớ).
- Bước 4: Liên hệ thực tiễn.
Để thực hiện có chất lượng và hiệu quả các quy trình trên tôi đã thực hiện các
biện pháp:
* Bước 1: Kể chuyện.

8


Để kể câu chuyện hay, hấp dẫn gây ấn tượng mạnh mẽ với học sinh tôi
thường làm tốt:
- Nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện đặc biệt quan tâm đến tính cách của các
nhân vật trong câu chuyện, tập kể nhiều lần, luyện giọng kể truyền cảm, hấp dẫn,
phù hợp với tính cách của nhân vật.
- Kết hợp với tranh ảnh, băng hình, giọng điệu, cử chỉ hài hoà, phù hợp với
nội dung của câu chuyện, phù hợp với tính cách của nhân vật trong câu chuyện.

Lưu ý: Khi kể, để làm tăng thêm tính hấp dẫn của câu chuyện, giáo viên có
thể thêm, bớt một số từ ngữ, lời dẫn nhưng tuyệt đối không được lạm dụng để
làm sai lệch đi nội dung câu chuyện. Nếu câu chuyện dài có thể kể 2 lần nhưng
phải thay đổi hình thức đi một chút cho đỡ nhàm chán như: Kể lần một không có
tranh, kể lần hai có tranh hoặc nếu trong lớp có học sinh đọc, kể tốt có thể cho
học sinh tham gia đọc, kể lại câu chuyện.
* Bước 2: Tìm hiểu chuyện.
Tìm hiểu chuyện là bước hết sức quan trọng. Qua khai thác câu chuyện cùng
với những kinh nghiệm trong cuộc sống của học sinh sẽ giúp các em rút ra được
những bài học đạo đức cần thiết.
Để thực hiện tốt bước tìm hiểu chuyện tôi thường làm tốt những việc sau:
- Xây dựng hệ thống câu hỏi: Các câu hỏi để tìm hiểu, khai thác nội dung câu
chuyện cần đi từ việc phân tích hành vi, việc làm cụ thể và trên cơ sở đó rút ra
kết luận chung cần thực hiện. Chúng cần được xây dựng thành một hệ thống, phù
hợp với khả năng của học sinh, hệ thống câu hỏi không nên quá dài, quá nhiều,
quá khó hoặc quá rễ học sinh không cần suy nghĩ cũng trả lời đúng. Hệ thống
câu hỏi phải xoáy vào việc tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và cách thực hiện hành vi
đạo đức.
- Tổ chức cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu nội dung câu chuyện:

9


Để tổ chức cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu nội dung câu chuyện tôi thường
tổ chức giao nhiệm vụ cho các em với nhiều hình thức hoạt động như:
+ Hoạt động cá nhân.
+ Hoạt động nhóm.
+ Hoạt động tập thể.
Dù với hình thức nào thì giáo viên cũng cần giao nhiệm vụ cụ thể, mục đích
tìm hiểu, thảo luận, thời gian thực hiện. Đặc biệt lưu ý mọi hình thức tổ chức

hoạt động học tập cho học sinh đều phải dựa trên nguyên tắc mọi học sinh đều
được hoạt động, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và trình độ của học sinh.
- Tổ chức cho học sinh trình bầy kết quả:
Khi tổ chức cho học sinh trình bầy kết quả tôi thường cho nhiều học sinh,
nhiều nhóm học sinh được trình bầy, thậm chí cho các em, các nhóm giao lưu,
tranh luận để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, giáo viên chỉ là
người kết luận vấn đề.
* Bước 3: Rút ra bài học đạo đức.
Để rút ra bài học đạo đức tôi thường dựa trên những kết quả của các nội dung
được đưa ra thảo luận trên cơ sở đó để đưa ra một số câu hỏi gợi mở để học sinh
tự tìm ra những nội dung cơ bản của bài học đạo đức. Theo tôi làm như vậy bài
học đạo đức mà các em cần ghi nhớ sẽ được các em hiểu sâu sắc, nhớ lâu và vận
dụng vào thực hành đạo đức được hiệu quả hơn.
* Bước 4: Liên hệ thực tiễn.
Liên hệ thực tiễn tức là làm cho học sinh biết vận dụng những kiến thức đã
học,

10


những chuẩn mực đạo đức trong bài học để học sinh vận dụng vào thực tế. Qua
liên hệ thực tế học sinh sẽ được củng cố và rèn luyện hành vi đạo đức, qua đó sẽ
dần hình thành được thói quen đạo đức.
Để phần liên hệ có tính hiệu quả cao, giáo viên cần hướng dẫn học sinh liên
hệ gần gũi với cuộc sống xung quanh của bản thân, của gia đình, của lớp, của
trường, của địa phương nơi các em đang sinh sống, tránh những liên hệ sáo rỗng
xa dời thực tế và không cần thiết.
2. Dạy dạng bài tập điền "đúng - sai"; "nên - không nên" hoặc "tán thành
- không tán thành"…..
Ở dạng bài tập này nhằm mục đích để học sinh biết vận dụng những kiến thức

đạo đức, những chuẩn mực đạo đức và những kinh nghiệm, vốn sống của học
sinh để đánh giá những hành động, việc làm của người khác đúng hay sai, tốt
hay xấu, nên hay không nên, từ đó tỏ thái độ đồng tình ủng hộ hay lên án phê
bình những hành động, những việc làm đó. Qua đó cũng hình thành cho học sinh
luôn sống có trách nhiệm với bản thân, với mọi người và rộng hơn là với cuộc
sống xung quanh.
Quy trình dạy dạng bài này gồm:
- Bước 1: Đọc xác định yêu cầu của bài.
- Bước 2: Học sinh thực hiện bài tập.
- Bước 3: Học sinh trình bày kết quả.
- Bước 4: Liên hệ (nếu thấy cần thiết)
Để thực hiện tốt quy trình trên tôi đã có những biện pháp giảng dạy như sau:
* Bước 1: Bước đọc và xác định yêu cầu của bài: Đây là một bước quan trọng
bởi nếu bước này làm không tốt các em sẽ không hiểu rõ, hiểu hết nhiệm vụ của

11


bài tập, từ đó dẫn tới hậu quả là các em làm sai yêu cầu của bài. Ở bước 1 tôi
thường thực hiện:
+ Cho học sinh đọc từ 2 đến 3 lần yêu cầu của bài.
+ Gạch chân những từ, cụm từ quan trọng trong yêu cầu của bài.
+ Giải thích hoặc làm rõ nghĩa những từ, cụm từ khó hiểu trong bài (nếu có)
Lưu ý: Khi đọc bài phải cho học sinh đọc đầy đủ cả yêu cầu của bài và nội
dung của bài (một số học sinh thường có thói quen chỉ đọc yêu cầu của bài)
* Bước 2: Học sinh thực hiện các yêu cầu của bài tập. ở bước này tôi thường
có nhiều hình thức tổ chức cho học sinh thực hiện như: Hoạt động cá nhân, hoạt
động nhóm, hoạt động lớp. Tuỳ theo mức độ khó, dễ để tổ chức hình thức hoạt
động cho phù hợp, tránh hình thức vừa mất thời gian, vừa không có tính hiệu
quả. Bước này cần lưu ý:

+ Tổ chức để mọi học sinh đều được tham gia làm bài.
+ Có thể giao bài tập cho từng nhóm đối tượng cho phù hợp với trình độ của
từng học sinh, từng nhóm học sinh (dạy học theo yêu cầu cụ thể hoá đối tượng)
+ Quan tâm giúp đỡ những học sinh yếu, những nhóm yếu thực hiện bài tập.
+ Tổ chức nhiều hình thức học tập hấp dẫn như: Dưới các hình thức trò chơi,
thi đua…. để không khí học tập được nhẹ nhàng, thoải mái nhưng cũng rất hiệu
quả, luôn gây được hứng thú học tập cho học sinh.
* Bước 3: Học sinh trình bầy kết quả. Khi tổ chức cho học sinh trình bầy kết
quả tôi thường lưu ý:
- Tổ chức cho nhiều học sinh, nhiều nhóm học sinh trình bầy kết quả (như
các dạng bài tập khác)

12


- Tránh cho học sinh trả lời "mò" thiếu suy nghĩ mà có thể vẫn đúng. Để khắc
phục tình trạng trên tôi thường có những câu hỏi như: Tại sao em cho hành vi,
việc làm đó là đúng (sai); nên (không nên)?
Hoặc để gắn quyền lợi và nghĩa vụ của học sinh vào trong thực tế, giáo viên
cấn hỏi: Nếu là em, em sẽ làm gì? Làm như thế nào trong tình huống đó? Vì
sao?....
Làm như vậy tôi thấy học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu bài học, biết "học và
hành",
biết gắn "quyền lợi và ghĩa vụ" trong thực tế cuộc sống.
* Bước 4: Liên hệ.
Khi cho học sinh liên hệ, tôi thường tổ chức hết sức linh hoạt, cũng có thể cho
học sinh liên hệ sau khi khai thác nội dung của cả bài nhưng cũng có thể liên hệ
ngay sau từng phần của bài; từng hoạt động, việc làm cụ thể. Làm như vậy học
sinh sẽ được liên hệ sát với thực tế hơn, tránh được sự nhàm chán sáo rỗng (phần
liên hệ tôi đã trình bầy kỹ ở phần trên). Bước liên hệ có thể thực hiện, có thể

không vì không nhất thiết sau mỗi bài tập lại cho học sinh liên hệ.
3. Dạy dạng bài xử lý tình huống:
Mục đích của dạng bài này là thông qua một hay một vài tình huống cụ thể,
yêu cầu các em dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức đã học, những kinh
nghiệm, vốn sống của các em đã có để xử lý các tình huống mà các em sẽ gặp
phải trong cuộc sống hàng ngày.
Để dạy tốt dạng bài tập sử dụng tình huống cần lưu ý:
* Khâu chuẩn bị:
+ Chuẩn bị các tình huống gần sát với thực tế của nhà trường, địa phương,
nếu những tình huống trong sách bài tập Đạo đức không phù hợp với thực tế

13


hoặc quá đơn giản, quá khó….. thì giáo viên cần thay đổi cho phù hợp, tránh câu
nệ, phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách bài tập….
+ Chuẩn bị một số dụng cụ, trang phục đơn giản phù hợp, nếu các tình huống
đó cần phải thể hiện bằng cách sắm vai nhân vật.
* Tổ chức cho học sinh nghiên cứu để xử lý tình huống:
Trước khi cho học sinh nghiên cứu để xử lý tình huống tôi thường có những
gợi ý cho các em:
- Khi trình bầy xử lý tình huống các em có thể trả lời "miệng", có thể trình
bầy thông qua hình thức sắm vai (để phát huy tính sáng tạo, tích cực, chủ động
của học sinh và để không khí lớp học nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn
học sinh vào bài học).
- Nếu trả lời bằng cách sắm vai thì trong nhóm các em phải phân vai, luyện để
nhập vai và chuẩn bị trang phục cho phù hợp nếu điều kiện có thể và thấy cần
thiết cho việc thể hiện nhân vật.
Lưu ý: Cần phân bố quỹ thời gian cho hợp lý để học sinh (hoặc các nhóm) có
đủ thời gian nghiên cứu, bàn bạc, xử lý tình huống đặc biệt là những tình huống

cần phải sắm vai, nếu không chú ý tới điều đó khi xử lý tình huống các em sẽ
phải vội vàng, xử lý không chặt chẽ, không hợp lý.
* Tổ chức cho học sinh trình bầy kết quả:
ở dạng bài xử lý tình huống khi cho học sinh trình bầy kết quả nghiên cứu,
thảo luận ngoài những hình thức tổ chức như một số dạng bài tập khác tôi còn
vận dụng một số phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học phù hợp
như:
- Sau khi các cá nhân (hoặc nhóm) trả lời cách xử lý tình huống tôi thường
cho học sinh giao lưu để làm rõ các vấn đề:

14


+ Tại sao bạn (các bạn) lại có những việc làm, hành động trên?
+ Khi thực hiện những hành động, việc làm đó thì bạn (các bạn hoặc nhân
vật) cảm thấy như thế nào?
+ Khi thực hiện những hành động, hành vi, việc làm đó sẽ mang lại cho chúng
ta điều gì?
- Khi hướng dẫn cho học sinh nhận xét cách xử lý của bạn (nhóm các bạn) tôi
thường định hướng để học sinh nhận xét cách xử lý trên là đúng hay sai, ngoài ra
tôi còn cho các em nhận xét cả cách thể hiện của vai có phù hợp với tính cách
của nhân vật trong tình huống không? Có đạt được chuẩn mực đạo đức không?
Ví dụ: Khi rót nước mời một người lớn tuổi phải đưa bằng hai tay, khi nói với
người lớn tuổi phải lễ phép….. Làm như vậy các chuẩn mực đạo đức sẽ được
làm sáng tỏ thêm, các em sẽ có kỹ năng thực hiện những hành vi đạo đức và thói
quen hành động đạo đức.
Gooc-ky là một nhà giáo dục thiên tài người Nga đã nói: "Nếu dạy những
chuẩn mực đạo đức mà chúng ta không rèn thói quen đạo đức cho học sinh thì
việc dạy những chuẩn mực đạo đức đó không có ý nghĩa gì cả".
Sau tất cả những hoạt động trên giáo viên chốt lại như tất cả các dạng bài tập

khác.
4. Dạy dạng bài tập nhật xét, đánh giá việc làm… qua các bức tranh hoặc
đặt tên cho các bức tranh.
Để thực hiện dạng bài tập này tôi thường vận dụng theo quy trình sau:
* Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ yêu cầu của bài tập (như khi thực hiện ở các
dạng bài tập khác)
* Bước 2: Cho học sinh quan sát các bức tranh (có thể quan sát trực tiếp các
tranh trong sách giáo khoa hoặc phô tô phóng to để học sinh cả lớp cùng quan

15


sát). Cho học sinh nêu nội dung của các bức tranh với những câu hỏi gợi mở
như: bức tranh vẽ gì? có những nhân vật nào, có những lời thoại gì trong các
nhân vật của bức tranh
* Bước 3: Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập và trả lời kết quả (tương tự
như ở các dạng bài tập khác). Khi thực hiện dạng bài tập này cần lưu ý những
vấn đề sau:
- Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh nhận xét và chốt lại những việc làm
nào của các nhân vật trong tranh là đúng, nên…. chúng ta cần học tập điều gì của
các việc làm đó hoặc chúng ta nên phê phán, góp ý, nhắc nhở… những việc làm
nào là chưa đúng, chưa tốt?
- Hướng dẫn cho học sinh nhận xét, phân biệt rõ những việc làm đúng, sai
trong một bức tranh, tránh lẫn lộn tốt - xấu, đánh giá quy nạp chung chung.
Ví dụ: Trong một bức tranh vẽ cảnh học sinh đang tích cực dọn vệ sinh
trường lớp (Bài 6: Tích cực tham gia việc lớp, việc trường - Sách Bài tập Đạo
đức lớp 3 trang 21)
Yêu cầu của bài tập là: Em có nhận xét gì về việc làm của các bạn nhỏ trong
bức tranh?
(Bức tranh vẽ cảnh cả lớp đang tích cực dọn vệ sinh, chỉ có một em đang chơi

đá cầu một mình)
Với học sinh lớp 3 nếu giáo viên không lưu ý định hướng cho học sinh, các
em sẽ chỉ nhận xét việc làm của các bạn trong tranh là đúng, là tốt, nên học
tập…. mà các em "quên" nhận xét đánh giá một nhân vật phản diện có việc làm
chưa đúng, không nên học tập, đó là bạn đang đá cầu một mình.
- Giáo viên không nên phụ thuộc quá vào vở bài tập Đạo đức mà cần dựa vào
mục tiêu của bài, có thể thoát ly các bức tranh ảnh trong sách bài tập, sưu tập
những bức tranh có nội dung gần gũi với đời sống xung quanh, có hình thức đẹp,

16


hấp dẫn, dễ quan sát (một số bức tranh trong sách bài tập Đạo đức rất xấu, khó
quan sát, khó nhận xét đánh giá)
- Nếu một bài tập có nhiều bức tranh giáo viên phải chốt lại việc làm nào của
từng bức tranh là đúng, là sai…. Sau đó cho học sinh (từ 2 đến 3 em) nhắc lại để
củng cố và khắc sâu kiến thức.
- Nếu yêu cầu của bài là đặt tên cho các bức tranh, giáo viên cần khuyến
khích các em học sinh có nhiều cách đặt tên khác nhau, tránh gò bó làm giảm
khả năng tư duy sáng tạo của học sinh.
- Khi học sinh nhận xét, đánh giá hay đặt tên cho các bức tranh, giáo viên hỏi
học sinh lý do để đánh giá, nhận xét những vấn đề đó. Làm như vậy học sinh sẽ
phải có suy nghĩ rất ký trước khi trả lời và các chuẩn mực đạo đức cũng được
nhắc lại, khắc sâu hơn.
5. Dạy dạng bài sưu tập và trình bầy các tư liệu (tranh, ảnh, những bài thơ,
ca dao về chủ đề mà các em được học).
Quy trình của dạng bài tập này như sau:
- Bước 1: Chuẩn bị tư liệu.
- Bước 2: Trình bầy tư liệu.
- Bước 3: Đánh giá kết quả tư liệu.

Để thực hiện tốt các bước tôi thường thực hiện:
* Bước 1: Chuẩn bị tư liệu.
Để học sinh chuẩn bị các tư liệu được tốt, đúng yêu cầu của bài giáo viên cần
phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị những loại tư liệu gì, những tư liệu đó
phải có tác dụng thực hiện bài tập và hướng vào chủ đề của bài học.

17


Lưu ý: Cần phải có một thời gian thích hợp để học sinh sưu tập đủ tư liệu và
có chất lượng theo yêu cầu (thường là nhắc học sinh chuẩn bị từ cuối giờ của tiết
1).
* Bước 2: Trình bầy tư liệu.
Khi tổ chức cho học sinh trình bầy các tư liệu đã được sưu tập, giáo viên cần:
- Tổ chức với nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn như: đọc thơ, ca dao, hát,
trình bầy tranh ảnh…. với hình thức thi đua, các trò chơi sinh động và hấp dẫn.
- Tổ chức cho nhiều học sinh được trình bầy kết quả sưu tập của mình (nếu tất
cả các em đều được trình bầy càng tốt)
- Yêu cầu học sinh giải thích nội dung, ý nghĩa sản phẩm sưu tập của mình
gắn với chủ đề đang học.
Ví dụ: Khi dạy bài "Biết ơn các liệt sỹ" (tiết 2) có học sinh sưu tập được câu
tục ngữ:
- Uống nước nhớ nguồn.
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Sau khi học sinh đọc xong 2 câu tục ngữ trên, giáo viên hỏi:
Em hiểu hai câu tục ngữ trên nói lên điều gì?
(Phải biết ơn những người đã hi sinh để cho cuộc sống của chúng ta ngày hôm
nay được bình yên, hạnh phúc….)
II. Kết quả việc thực hiện các biện pháp trên:
Năm học 2012 - 2013, khi chưa áp dụng các biện pháp trên việc thực hiện

giảng dạy các dạng bài của môn Đạo đức lớp 3 thh́ cuối năm học kết quả môn Đạo
đức ở lớp tôi được đánh giá như sau:
II. Kết quả việc thực hiện các biện pháp trên:

18


Năm học 2012 - 2013, khi chưa áp dụng các biện pháp trên. Sau khi thực hiện
giảng dạy các dạng bài (như phần trên) của môn Đạo đức thh́ cuối năm học kết quả môn
Đạo đức ở lớp tôi được đánh giá như sau:
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Nhận xét

Sĩ số lớp

Nhận xét 1: Biết giữ lời hứa với bạn bè,
mọi người.
Nhận xét 2: Biết làm việc phù hợp với
khả năng

Nhận xét 3: Biết quan tâm, chăm sóc
ông bà, cha mẹ.
Nhận xét 4: Tích cực tham gia việc
trường, việc lớp.
Nhận xét 5: Biết quan tâm tới hàng xóm,
láng giềng.
Nhận xét 6: Biết ơn các thương binh, liệt
sĩ.
Nhận xét 7: Biết đoàn kết với thiếu nhi
quốc tế.
Nhận xét 8: Biết tôn trọng tài sản, thư từ
của người khác.
Nhận xét 9: Biết tiết kiệm nước.
Nhận xét 10: Biết bảo vệ, chăm sóc cây
trồng, vật nuôi.

Số HS đạt
tích V

17

11

17

10

17

8


17

11

17

9

17

14

17

8

17

12

17

11

17

10

Ghi chú


- Số học sinh hoàn thành: 17em (100 %). Trong đó: Loại A+ có 3 em,
chiếm( 17,6 %); loại A có 14 em, chiếm ( 82,4%).
Kết quả và qua thực tế của học sinh tôi nhận thấy:
- Học sinh chưa nắm vững các chuẩn mực đạo đức đã học.
- Chưa có kỹ năng đánh giá, nhận xét những việc làm, hành động của
người khác, từ đó chưa tỏ được thái độ đồng tình, ủng hộ hay phê phán, giúp đỡ
bạn bè - người khác cùng thực hiện theo chuẩn mực đạo đức.
- Chưa có nhiều thói quen trong hành động đạo đức, chưa thường xuyên
rèn luyện và thực hành các chuẩn mực đạo đức.

19


* Năm học 2013 - 2014, để khắc phục những tồn tại trên của học sinh, tôi
đã áp dụng các biện pháp (đã nêu ở phần trên) để giảng dạy các dạng bài tập của
môn Đạo đức. Kết quả quả giảng dạy rất phấn khởi:
- Học sinh nắm vững các chuẩn mực đạo đức đã học.
- Có kỹ năng đánh giá, nhận xét những việc làm, hành động của người
khác, biết tỏ thái độ đồng tình ủng hộ hoặc phê phán; biết giúp đỡ bạn bè, biết
nhắc nhỡ người khác cùng thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức.
- Có thói quen rèn luyện, thực hành theo các chuẩn mực đạo đức.
Kết quả môn Đạo đức cuối năm học 2013- 2014 như sau:
TT
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10

Nhận xét
Nhận xét 1: Biết giữ lời hứa với bạn
bè, mọi người.
Nhận xét 2: Biết làm việc phù hợp
với khả năng
Nhận xét 3: Biết quan tâm, chăm sóc
ông bà, cha mẹ.
Nhận xét 4: Tích cực tham gia việc
trường, việc lớp.
Nhận xét 5: Biết quan tâm tới hàng
xóm, láng giềng.
Nhận xét 6: Biết ơn các thương binh,
liệt sĩ.
Nhận xét 7: Biết đoàn kết với thiếu
nhi quốc tế.
Nhận xét 8: Biết tôn trọng tài sản, thư
từ của người khác.
Nhận xét 9: Biết tiết kiệm nước.
Nhận xét 10: Biết bảo vệ, chăm sóc
cây trồng, vật nuôi.

20

Sĩ số


Số HS

lớp

đạt tích V

16

16

16

16

16

15

16

15

16

13

16

16


16

14

16

16

16

16

16

15

Ghi chú


- Số học sinh hoàn thành: 16 em( 100 %). Trong đó: A+ có 9 em( 56 %),
A có 7 em( 44 %).
* Năm học 2014 - 2015, để khắc phục những tồn tại của học sinh, tôi đã
tiếp tục áp dụng các biện pháp (đã nêu ở phần trên) để giảng dạy các dạng bài
tập của môn Đạo đức. Tuy chưa kết thúc năm học nhưng kết quả quả giảng dạy
rất khả quan. Cụ thể:
- Học sinh nắm vững các chuẩn mực đạo đức đã học.
- Có kỹ năng đánh giá, nhận xét những việc làm, hành động của người
khác, biết tỏ thái độ đồng tình ủng hộ hoặc phê phán; biết giúp đỡ bạn bè, biết
nhắc nhỡ người khác cùng thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức.
- Có thói quen rèn luyện, thực hành theo các chuẩn mực đạo đức.

Kết quả môn Đạo đức năm học 2014- 2015( tính đến nay) như sau:
TT
1
2
3
4
5
6
7

Nhận xét
Nhận xét 1: Biết giữ lời hứa với bạn
bè, mọi người.
Nhận xét 2: Biết làm việc phù hợp

Sĩ số

Số HS

lớp

đạt tích V

15

15
14

với khả năng
Nhận xét 3: Biết quan tâm, chăm sóc


15

ông bà, cha mẹ.
Nhận xét 4: Tích cực tham gia việc

15

trường, việc lớp.
Nhận xét 5: Biết quan tâm tới hàng

15

15

xóm, láng giềng.
Nhận xét 6: Biết ơn các thương binh,

15

15

liệt sĩ.
Nhận xét 7: Biết đoàn kết với thiếu

15

15

nhi quốc tế.


15

Phần thứ ba

21

14

14

Ghi chú


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Từ những khó khăn, hạn chế trong quá trình dạy học về các dạng bài tập của
môn Đạo đức. Qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu tôi đã tìm ra một số biện
pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Đạo
đức, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục Đạo đức cho học sinh Tiểu
học. Để việc áp dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy đạt kết quả cao, tôi xin
trình bày một số bài học kinh nghịêm như sau:
1. Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình của môn Đạo đức ở lớp 3.
Đặc biệt là cấu trúc sách Bài tập Đạo đức lớp 3 để phân chia nội dung, chương
trình thành các dạng bài tập cơ bản, từ đó có các biện pháp dạy học phù hợp với
từng dạng bài tập đó.
2. Ở các dạng bài tập khác nhau cần có những phương pháp giảng dạy khác
nhau nhưng cũng phải hết sức linh hoạt khi vận dụng, tránh sự lặp lại khuôn mẫu
hình thức gây nhàm chán cho học sinh
3. Với học sinh lớp 3, ngoài việc cung cấp các chuẩn mực đạo đức cho học

sinh cần đặc biệt quan tâm rèn luyện kỹ năng hành động, thực hành các hành vi
đạo đức cho học sinh để việc "học" thực sự đi đôi với "hành", "lý thuyết" gắn
liền với "thực tế".
4. Chỉ coi môn Đạo đức là môn học "ít giờ", không được coi môn này là môn
"phụ". Có như vậy ta mới luôn tìm tòi các biện pháp để nâng cao chất lượng, đáp
ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu môn Đạo đức đã đề ra.
5. Nhà trường cần tổ chức các hoạt động ngoại khoá theo các chủ đề khác
nhau để nâng cao hiệu quả dạy môn Đạo đức.
6. Sử dụng các biện pháp tác động cá biệt tới học sinh : Như phát triển gương
người tốt việc tốt, khắc phục những biểu hiện yếu kém.

22


7. Có kiểm tra đánh giá việc áp dụng hành vi chuẩn mực dạo đức trong thực
điểm của tiết dạy.
8. Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng về chuẩn mực đạo đức để học sinh học
tập và noi theo.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Mỗi năm học, phòng Giáo dục và Đào tạo nên chọn các sáng kiến kinh
nghiệm tốt in thành các tập san theo môn học để cung vấp cho các trường làm tài
liệu sinh hoạt chuyên môn.
Mỗi giáo viên cần tâm huyết hơn nữa với nghề; tập trung nghiên cứu tài liệu,
chuẩn bị các điều kiện dạy học có thể, th́m ṭi các biện pháp, phương pháp tối ưu
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học nói chung và dạy học nói riêng môn đạo đức
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo dục của nước nhà.
Trên đây là "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các
dạng bài tập Đạo đức lớp 3" mà tôi đă áp dụng, chắc không tránh khỏi thiếu sót.
Rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và các đồng nghiệp
. Xin chân thành cảm ơn !


Hương Sơn, ngày 6 tháng 3 năm 2015

23



×