Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN dạy hội thoại cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.54 KB, 17 trang )

Dạy hội thoại cho học sinh lớp 5
I.Tổ chức dạy hội thoại:
Một bài tập dạy hội thoại có thể thực hiện theo một trong hai hướng: Hướng
phân tích và hướng thực hành.
1.Dạy hội thoại theo hướng phân tích:
 Là cách dạy đưa ra những nhận xét, đánh giá các yếu tố tạo thành tình huống
giả định nêu ra trong đề bài. Sự phân tích này làm rõ đích giao tiếp, nhân vật
giao tiếp, đề tài giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp. Từ đó đưa ra dự kiến các lời
hội thoại phù hợp nhất với đích giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp
 Việc phân tích các tình huống hội thoại để chỉ ra các yếu tố của ngữ cảnh và
tìm ra lời thoại phù hợp. Lúc này thật sự cuộc thoại chưa diễn ra. Cả thầy và
trò đều phỏng đoán về diễn biến của cuộc thoại. Cách dạy này mang tính
chất duy lí, dự báo chứ chưa tạo ra cuộc hội thoại đích thực, không quan sát,
đánh giá nó trong diễn biến thực tế. Vì vậy, khi dạy cần coi phân tích tình
huống giao tiếp giả định như một biện pháp dạy mở đầu tiết học về hội thoại
sau đó chuyển sang tổ chức thực hành cuộc thoại theo đề bài, chứ không
dùng duy nhất phân tích tình huống giao tiếp giả định như một phương pháp
dạy học.
2.Dạy hội thoại theo hướng thực hành:
Giao tiếp là hoạt động thực tiến nên cách tốt nhất để nhanh chóng trao dồi
năng lực giao tiếp cho học sinh là đưa các em vào hoạt động thực hành. Dựa trên
tình huống giao tiếp giả định trong đề bài hội thoại, giáo viên tổ chức cho học sinh
thực hành tình huống đó trên lớp. Phương pháp thích hợp nhất lúc này là đóng vai.
Giáo viên chỉ cần thống nhất với cả lớp các yếu tố giao tiếp chi phối cuộc thoại đã
quy định trong đề bài, còn các hoạt động hội thoại ( lời nói, nét mặt, cử chỉ …),
quá


trình hội thoại diễn ra như thế nào cứ để cho học sinh đóng vai sáng tạo và tự hoàn
thiện dần qua các lần luyện tập.
Ví dụ: Bài “ Luyện tập thuyết trình, tranh luận” TV5, tập 1 ( trang 91 )


Bài tập 2: Hãy đóng vai một trong ba bạn Hùng, Quý, Nam ( trong bài Cái gì
quý nhất ) nêu ý kiến tranh luận bằng cách mở rộng thêm lí lẽ và dẫn chứng để lời
tranh luận thêm sức thuyết phục.
Mẫu: ( Hùng ) - Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Lúa gạo quý như vàng. Trong
bài Hạt gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo là “ hạt vàng làng ta ”.
Lúa gạo nuôi sống tất cả mọi người. Có ai trong chúng ta không ăn mà sống được
đâu?...
( Bài tập 2 trang 91 - TV5, tập 1)
Với bài tập này, giáo viên chỉ cầ thống nhất với học sinh:
 Nhân vật tham gia hội thoại: Hùng, Quý, Nam.
 Đề tài hội thoại: về cái gì quý nhất đời trên đời.
 Hoàn cảnh giao tiếp: ở lớp học ( diễn lại cảnh các bạn trên đường đi học về)
 Tình huống hội thoại: 3 bạn tranh luận về cái gì quý nhất ở trên đời.
 Đích hội thoại: Học sinh phải nêu được ý kiến tranh luận về cái gì quý nhất
( bằng cách mở rộng lí lẽ và dẫn chứng để lời tranh luận thêm sức thuyết phục)
Dạy hội thoại theo hướng thực hành có thế mạnh là đưa học sinh tắm mình
trong thực tiến hội thoại, khai thác kinh nghiệm hội thoại có sẵn của các em để
nâng cao lên. Do đó, giúp các em thêm tự tin và mạnh dạn; đồng thời hứng thú học
tập hội thoại. Cả giáo viên và học sinh cùng bình luận, đánh giá cuộc hội thoại như
nó đã diễn ra trong thực tiễn và học được chứng kiến.


Khi dạy bài hội thoại, nếu chỉ có hoạt động thực hành hội thoại thì không đủ,
vì bên cạnh việc rèn luyện kĩ năng hội thoại còn cần nâng dần hiểu biết có tính lí
luận nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng hội thoại. Vì vậy cần kết hợp phương
thức dạy hội thoại theo hướng thực hành với sử dụng biện pháp phân tích hội thoại
khi cần thiết.
II. Phương pháp đặc trưng dạy các bài tập hội thoại cho học sinh:
Đóng vai
II.1.Mỗi bài tập dạy hội thoại tiểu học nhằm thực hiện một tình huống giao

tiếp giả định. Dạy hội thoại theo hướng phân tích, phương pháp sử dụng chủ yếu là
phương pháp hỏi đáp ( giữa thầy và trò, giữa trò và trò) để phân tích tình huống
giao tiếp giả định, phân tích cuộc hội thoại dự báo sẽ diễn ra. Còn dạy hội thoại
theo hướng thực hành chủ yếu là tập trung tạo ra cuộc hội thoại phù hợp yêu cầu đề
bài bằng phương pháp đóng vai. Học sinh sẽ tham gia đóng các nhân vật hội thoại
và thực hiện cuộc giao tiếp như đề bài quy định.
Ví dụ: Bài “ Tập viết đoạn đối thoại” TV5, tập 2 (trang 77 - 78)
1. Đọc đoạn trích sau của truyện Thái sư Trần Thủ Độ:
Có lần, Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, muốn xin riêng cho một người làm chức
câu đương. Trần Thủ Độ bảo người ấy:
- Ngươi có phu nhân xin cho làm chức câu đương, không thể ví như những
câu đương khác. Vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Người ấy kêu van mãi, ông mới tha cho.
Theo Đ¹i viÖt sö kÝ toµn th.
2. Dựa theo nội dung của đoạn trích trên, em hãy cùng các bạn trong nhóm
viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch theo gợí ý sau:
Xin Thái sư tha cho!


Nhân vật: Trần Thủ Độ; một phú nông muốn xin làm chức câu đương; mấy

anh

lính hầu.
Cảnh trí: Công đường có đặt một án thư lớn. Trên án thư có một hộp bút,
vài cuốn sách, một chiếc quạt. Trần Thủ Độ đang ngồi viết bên án thư. Hai bên có
mấy người lính đứng cung kính.
Thời gian: Buổi sáng
Gợi ý lời đối thoại:
- Trần Thủ Độ lệnh cho lính hầu mời cho phú nông vào.

- Trần Thủ Độ hỏi tên tuổi, nguyện vọng của phú nông.
- Trần Thủ Độ hỏi phú nông về chức phận của câu đương
- Phú nông trả lời, chứng tỏ rất ít hiểu biết về chức phận của câu đương.
- Trần Thủ Độ bảo phải chặt một ngón chân của phú nông để đánh dấu.
- Phú nông sợ hãi kêu van xin tha.
- Trần Thủ Độ tha cho anh ta.
Lính:

- ( Bước vào ) Bẩm Thái sư! Người nhà phu nhân đã tới rồi ạ.

Trần Thủ Độ: - Cho anh ta vào!
( Lính đi ra, sau đó dẫn vào một người khoảng 30 tuổi, ăn
mặc kiểu nhà giàu nhưng hơi quê kệch ).
Phú nông:

- Lạy Đức Ông!

Trần Thủ Độ: - Ngươi có phải là Đặng Văn Sửu không?
Phú nông:

…..

3.Phân vai đọc lại ( hoặc diễn thử) mà kịch trên
II.2. Đặc điểm của phương pháp đóng vai:
a)Đóng vai chỉ là một cách thức, một phương pháp để học cinh học tập. Nó
diễn ra ngay trong lớp học, không đòi hỏi sự trang trí phức tạp. Các đoạn thoại kế


tiếp nhau để phát triển đề tài hội thoại, thúc đẩy giao tiếp tự hình thành và hoàn
thiện ngay trong thực tiễn đóng vai, do cả thầy và trò cùng tham gia sáng tạo.

Người tham gia đóng vai là học sinh trong tổ, trong lớp. Các em đóng vai
nhằm nhằm tập dượt theo đề bài tập hội thoại. Sản phẩm của các lần đóng vai là
các màn hội thoại hoặc giao tiếp, các sản phẩm này sẽ được các bạn trong lớp phân
tích, nhận xét, rút kinh nghiệm; nhờ đó, các lần tập dượt hội thoại tiếp theo đạt hiệu
quả cao hơn, tốt hơn. Mục đích của việc đóng vai là hoàn thành một bài tập hội
thoại; thông qua đó hình thành kĩ năng hội thoại, tích luỹ các kinh nghiệm ứng xử
trong hội thoại để chuẩn bị cho các cuộc hội thoại đích thực các em sẽ trải qua
trong cuộc đời.
Khi đóng vai, học sinh cần chú ý không chỉ lời nói mà còn cả các động tác
hình thể, cách biểu cảm trên nét mặt, trong giọng nói.. có tác động đến hiệu quả hội
thoại.
b)Khi tổ chức đóng vai thực hiện một tình huống giao tiếp giả định, ngoài
hội thoại, giáo viên có thể dùng kết hợp thêm nhiều biện pháp để phát triển đề tài
như: phiếu bài tập, đưa ra lời giải trên giấy, hỏi - đáp, sử dụng các đồ dùng dạy
học…
c)Hội thoại trong hoạt động đóng vai được thực hiện trong mỗi giai đoạn của
cuộc giao tiếp với những chức năng nhiệm vụ khác nhau:
 Đoạn thoại mở đầu cuộc giao tiếp: bao gồm những nghi thức lời nói dùng
trong lúc gặp gỡ, làm quen và các lời thoại giới thiệu đề tài giao tiếp.
 Đoạn thoại triển khai đề tài giao tiếp: gồm những đoạn thoại của các nhân
vật trò chuyện và thương lượng hay trình bày, phân tích trao đổi, thảo luận…
 Đoạn thoại kết thúc cuộc giao tiếp: gồm những nghi thức lời nói dùng trong
lúc kết thúc cuộc giao tiếp.
III. Quy trình dạy bài hội thoại:


Cùng với văn bản, hội thoại cũng có hai phương diện cần xem xét: tiếp nhận
hội thoại và sản sinh hội thoại. Người nghe hội thoại chủ yếu là tiếp nhận khi hội
thoại đang diễn ra ( cũng có trường hợp người nghe tiếp nhận cuộc thoại khi đã kết
thúc, ví dụ: nghe thông qua lời kể, lời ghi âm, …); hội thoại là sản phẩm của nhiều

người ( tối thiểu là hai người).
Nhà trường có dạy tiếp nhận và sản sinh hội thoại không?
 Nhà trường khi dạy đọc và nghe các văn bản tự sự, khi dạy phân tích
các ngữ liệu tự sự trong các phân môn của môn Tiếng Việt đều ít
nhiều đề cập đến tiếp nhận hội thoại.
 Nhà trường thực sự đưa việc dạy tiếng vào quá trình giao tiếp, thông
qua học mà học sinh được hướng dẫn để tìm hiểu cách xác định đề
tài, chủ đề, đích của hội thoại, phân biệt vai trò các đối tượng tham
gia hội thoại, luyện tập cách mở đầu, kết thúc, cách phát triển cuộc
thoại, luyện tập các kĩ năng trao lời và đáp lời… Tức là các em được
hướng dẫn để sản sinh hội thoại.
Thông qua việc học hội thoại trong nhà trường, học sinh mới thực sự học
cách sử dụng tiếng nói phong phú, đa dạng gắn với cuộc sống sôi động hàng ngày,
hoạ tiếng nói trong giao tiếp và để giao tiếp.
Theo PGS.TS Nguyễn Trí trong cuốn “ Một số vấn đề dạy hội thoại cho học
sinh tiểu học” thì dạy hội thoại có thể được tiến hành theo quy trình ba bước chính
như sau:
Bước 1: Phân tích tình huống hội thoại nêu ra trong đề bài.
Ở bước này, cần làm rõ các nội dung:
 Đề tài hội thoại.
 Nhân vật tham gia hội thoại.
 Hoàn cảnh xã hội.


 Môi trường xảy ra hội thoại.
 Đích của hội thoại.
 Vấn đề cần giải quyết qua hội thoại.
Bước 2: Phác hoạ diễn biến chính cuộc thoại bằng lời
Giáo viên cho học sinh dựa trên kết quả phân tích tình huống hội thoại, mỗi
em nêu ra cách giải quyết vấn đề đặt ra trong bài tập. Các em dùng trí tưởng tượng

kết hợp với các hiểu biết của bản thân liên quan đến đề tài để nêu ra khái quát các
diễn biến chính trong một cuộc thoại. Dựa vào diễn biến chínhvà nội dung chủ yếu
mà khi thực hành hội thoại học sinh sẽ tự tìm ra lời hội thoại cụ thể.
Bước 3: Thực hành hội thoại:
Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành cuộc thoại theo tình huống được
bài tập đặt ra theo phươg pháp đóng vai.
Khi thực hành, dựa trên gợi ý những diễn biến chính của cuộc thoại, từng
nhân vật phải tìm ra lời thoại của mình.
Tổ chức thực hành tối thiểu 2 lần hoặc nhiều hơn tuỳ thuộc theo quỹ thời
gian. Sau mỗi lần thực hành, giáo viên và học sinh nhận xét về:
 Mức độ phù hợp của lời thoại với nội dung cuộc thoại, với hoàn cảnh
xã hội, với môi trường và nhân vật tham gia hội thoại
 Việc giải quyết vấn đề đặt ra trong cuộc thoại
 Đích của hội thoại
 Cách sử dụng ngữ điệu, các yếu tố phụ trợ cho lời nói……
nhằm giúp cho lần thực hành sau phát triển các kết quả đạt được, khắc phục các
nhược điểm của lần thực hành trước.
IV.Các kiểu bài tập về dạy hội thoại cho học sinh trong sách giáo khoa
Tiếng Việt 5:


Nội dung dạy hội thoại được được phân phối ở sách tiếng Việt lớp 5: Tập
thuyết trình, tranh luận, chuyển thể các câu chuyện thành cuộc thoại. Cụ thể:
1. Kiểu bài tập dạy tập thuyết trình, tranh luận:
a) Cấu trúc của bài tập:
Bài tập này đưa ra một đề tài ( mẩu chuyện hoặc bài ca dao … ), sau đó yêu
cầu học sinh nêu ý kiến tranh luận, thuyết trình bằng cách mở rộng lí lẽ và dẫn
chứng.
Bài tập 1: Hãy đóng vai một trong ba bạn Hùng, Quý, Nam ( trong bài Cái
gì quý nhất ) nêu ý kiến tranh luận bằng cách mở rộng thêm lí lẽ và dẫn chứng để

lời tranh luận thêm sức thuyết phục.
Mẫu: ( Hùng ) - Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Lúa gạo quý như vàng. Trong
bài Hạ gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo là “ hạt vàng làng ta ”.
Lúa gạo nuôi sống tất cả mọi người. Có ai trong chúng ta không ăn mà sống được
đâu?...

( Bài tập 2 trang 91 - TV5, tập 1

)
* Với bài tập này, học sinh phải tạo ra được các đoạn thuyết trình ngắn phù
hợp với tình tiết trong truyện nhằm thuyết phục người nghe.
Đây là bài tập đầu tiên giúp học sinh làm quen với thuyết trình, tranh luận
nên đã có gợi ý sẵn ngay sau yêu cầu của bài nhằm định hướng cho học sinh. Điều
này có ưu điểm và hạn chế nhất định:
+ Ưu điểm:
- Học sinh có thể dựa vào mẫu để đóng vai Quý hoặc Nam trình bày ý kiến
của mình một cách nhanh chóng, dễ dàng, không cần sáng tạo.
- Phát huy được khả năng giao tiếp ( thuyết trình, trao đổi, … ) cho học sinh
+ Hạn chế:
- Tiếp thu bài thụ động, theo khuôn mẫu.


- Lí lẽ và dẫn chứng các em đưa ra thường ngắn, đơn giản, xoay quanh ý
kiến của nhân vật trong bài
- Học sinh chưa gắn được ý kiến của các nhân vật trong bài với các vấn đề
trong cuộc sống do vốn kinh nghiệm, ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Do vậy
mà ý kiến các em đưa ra thường chưa phong phú.
- Khả năng sáng tạo của học sinh chưa rõ ràng.
b) Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập:
- Thao tác 1: Đọc kĩ lại mẩu chuyện, xác định số ý kiến của các nhân vật,

những điểm có lí của từng ý kiến mà các nhân vật nêu ra, đọc kĩ mẫu.
- Thao tác 2: Phân tích những điểm có lí trong từng ý kiến
- Thao tác 3: Sáng tạo thêm các các lí lẽ và dẫn chứng nhưng vẫn đảm bảo lí
lẽ và dẫn chứng gốc.
Bài tập 2: Dựa vào ý kiến của một nhân vật trong mẩu chuyện dưới đây, em
hãy mở rộng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết trình, tranh luận cùng các bạn:
Đất, Nước, Không Khí và Ánh Sáng đều tự cho mình là người cần nhất đối
với cây xanh.
Đất nói:
- Tôi có chất màu để nuôi cây lớn. Không có tôi, cây không thể sống được!
Nước kể công:
- Nếu chất màu không có nước vận chuyển thì cây có lớn lên được không?
Không Khí chẳng chịu thua:
- Cây xanh rất cần khí trời. Không có khí trời thì tất cả cây cối đều chết rũ.
Còn Ánh Sáng nhẹ nhàng nói:
- Cây cối dù có đủ đất, nước, không khí nhưng thiếu ánh sáng thì sẽ không
thể có màu xanh. Không có màu xanh thì còn gọi là cây xanh sao được!
( Bài tập 1 trang 93 - TV5, tập 1 )


* Giống như bài tập 1, bài tập này học sinh phải tạo ra được các đoạn thuyết
trình ngắn phù hợp với tình tiết trong truyện nhằm thuyết phục người nghe. Nhưng
do là tiết thứ hai nên không cần có gợi ý sẵn ngay sau yêu cầu của bài. Điều này có
ưu điểm và hạn chế nhất định:
- Ưu điểm:
+ Học sinh tự do tìm lí lẽ và dẫn chứng theo quan điểm của mình.
+ Ý kiến đưa ra đa dạng, phong phú.
+ Học sinh tự khám phá ra kiến thức cho mình.
+ Tiếp thu bài nhanh, chắc chắn.
+ Phát triển khả năng sáng tạo lời thoại, ngôn ngữ, tư duy, khả năng lập luận

có lí cho học sinh.
- Hạn chế: Những học sinh trình độ đại trà hoặc yếu sẽ gặp khó khăn trong
việc sáng tạo được lời thoại, tìm lí lẽ, dẫn chứng.
* Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập:
- Thao tác 1: Đọc kĩ lại mẩu chuyện, xác định số nhân vật và ý kiến của các
nhân vật, những điểm có lí của từng ý kiến mà các nhân vật nêu ra.
- Thao tác 2: Phân tích những điểm có lí trong từng ý kiến, sự cần thiết của
từng thành phần: đất, nước, không khí, ánh sáng trong đời sống.
- Thao tác 3: Sáng tạo thêm các lí lẽ và dẫn chứng nhưng vẫn đảm bảo lí lẽ
và dẫn chứng gốc.
Bài tập 3: Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ
sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài cao dao sau:
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đè ra trước gió còn chăng, hỡi đèn?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây?


Bài tập này giống bài tập 2, chỉ có một khó khăn khác đối với học sinh: đối
với học sinh thành phố thì sự hiểu biết về sự cần thiết của chiếc đèn dầu trong cuộc
sống trước khi có điện rất khó hình dung đối với các em, kinh nghiệm thực tế
không có, mặt khác việc ngắm trăng đối với trẻ em thành phố là cái gì đó xa vời
nên việc xâu chuỗi các sự kiện để tìm lí lẽ và dẫn chứng đưa ra nhằm thuyết phục
được mọi
người là rất khó nếu không có sự trợ giúp của giáo viên. Do vậy khi hướng dẫn học
sinh thực hiện bài tập giáo viên nên thu thập tư liệu ( tranh ảnh, băng hình, tin
tức..) nhằm giúp học sinh hiểu rõ hơn về sự cần thiết của chiếc đèn dầu trong cuộc
sống của ông cha ta, từ đó học sinh mới có thể thực hiện được bài tập đầy đủ, phát
huy khả năng sáng tạo, ngôn ngữ cho học sinh, mặt khác tích hợp việc hiểu cuộc
sống của con người cho học sinh.

2. Kiểu bài tập dạy chuyển thể các câu chuyện thành cuộc thoại :
a) Cấu trúc của bài tập:
Bài tập này nêu ra một đoạn chuyện hay một câu chuyện, sau đó yêu cầu học
sinh chuyển thành một đoạn thoại hay một cuộc thoại theo một số gợi ý. Sách tiếng
Việt 5 có một số bài tập theo kiểu này:
Bài tập 1: Tập viết đoạn đối thoại
1. Đọc đoạn trích sau của truyện Thái sư Trần Thủ Độ:
Có lần, Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, muốn xin riêng cho một người làm chức
câu đương. Trần Thủ Độ bảo người ấy:
- Ngươi có phu nhân xin cho làm chức câu đương, không thể ví như những
câu đương khác. Vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Người ấy kêu van mãi, ông mới tha cho.
Theo Đ¹i viÖt sö kÝ toµn th.


2. Dựa theo nội dung của đoạn trích trên, em hãy cùng các bạn trong nhóm
viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch theo gợí ý sau:
Xin Thái sư tha cho!
Nhân vật: Trần Thủ Độ; một phú nông muốn xin làm chức câu đương;
mấy

anh lính hầu.
Cảnh trí: Công đường có đặt một án thư lớn. Trên án thư có một hộp bút,

vài cuốn sách, một chiếc quạt. Trần Thủ Độ đang ngồi viết bên án thư. Hai bên có
mấy người lính đứng cung kính.
Thời gian: Buổi sáng
Gợi ý lời đối thoại:
- Trần Thủ Độ lệnh cho lính hầu mời cho phú nông vào.
- Trần Thủ Độ hỏi tên tuổi, nguyện vọng của phú nông.

- Trần Thủ Độ hỏi phú nông về chức phận của câu đương
- Phú nông trả lời, chứng tỏ rất ít hiểu biết về chức phận của câu đương.
- Trần Thủ Độ bảo phải chặt một ngón chân của phú nông để đánh dấu.
- Phú nông sợ hãi kêu van xin tha.
- Trần Thủ Độ tha cho anh ta.
Lính:

- ( Bước vào ) Bẩm Thái sư! Người nhà phu nhân đã tới rồi ạ.

Trần Thủ Độ: - Cho anh ta vào!
( Lính đi ra, sau đó dẫn vào một người khoảng 30 tuổi, ăn
mặc kiểu nhà giàu nhưng hơi quê kệch ).
Phú nông:

- Lạy Đức Ông!

Trần Thủ Độ: - Ngươi có phải là Đặng Văn Sửu không?
Phú nông:

…..
( Bài tập 1-2 ( trang 77,78 ) - Tiếng Viết 5, tập 2 )


Thực hiện bài tập này, học sinh có nhiệm vụ cần tạo ra các đoạn đối thoại
phù hợp nội dung câu chuyện. Học sinh sẽ gặp một số khó khăn:
- Các em phải huy động chủ yếu vốn sống gián tiếp về nhà Trần mới là được
bài tập, trong khi vốn sống này ở đa số các em hầu như chưa có gì.
- Các em chưa được hướng dẫn cách chuyển thể câu chuyện thành đoạn
thoại.


Bài tập 2: Tập viết đoạn đối thoại
1. Đọc đoạn trích dưới đây của truyện Thái sư Trần Thủ Độ:
Linh Từ Quốc Mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, bị một người quân hiệu
ngăn lại. Về nhà, bà khóc:
- Tôi là vợ thái sư mà bị kẻ dưới khinh nhờn.
Ông cho bắt người quân hiệu đến. Người này nghĩ là phải chết. Nhưng khi
nghe anh ta kể rõ ngọn ngành, ông bảo:
- Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa!
Nói rồi, lấy vàng, lụa thưởng cho.
2. Dựa theo nội dung của đoạn trích trên, em hãy cùng các bạn trong nhóm
viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch sau:
Giữ nghiêm phép nước
Nhân vật: Trần Thủ Độ; Linh Từ Quốc Mẫu; người quân hiệu; một vài
người lính và gia nô.
Cảnh trí: Một căn phòng rộng có kê án thư, trên có hộp bút, mấy cuốn
sách, một chiếc quạt. Trần Thủ Độ đang ngồi đọc sách.
Thời gian: Khoảng gần trưa.
Gợi ý lời đối thoại:


- Linh Từ Quốc Mẫu phàn nàn với Trần Thủ Độ về chuyện bà bị người quân
hiệu coi thường
- Trần Thủ Độ lệnh cho quân lính đi bắt người quân hiệu.
- Quân lính áp giải người quân hiệu vào.
- Trần Thủ Độ hỏi người quân hiệu có đúng là anh ta bắt vợ ông xuống kiệu
không, có biết bà là phu nhân của thái sư không.
- Người quân hiệu khẳng định là anh ta biết và kể lại đầu đuôi câu chuyện.
- Trần Thủ Độ khen ngợi, thưởng vàng và lụa cho người quân hiệu.

( Linh Từ Quốc Mẫu bước vào phòng, vẻ mặt buồn bực như vừa khóc )

Trần Thủ Độ:

- ( Ngạc nhiên ) Phu nhân sao thế?

Linh Từ Quốc Mẫu: - ( Tấm tức ) Phép nước bây giờ đảo lộn hết rồi! Một
tên
quân hiệu mà dám hỗn với cả vợ thái sư. Như thế thì
còn trên dưới gì nữa!
Trần Thủ Độ:

- Bà hãy bớt nóng giận đi! Kể cho tôi nghe đầu đuôi

câu
chuyện thế nào đã!
Linh Từ Quốc Mẫu: - Hôm nay tôi có việc qua cửa Bắc. Có tên quân hiệu
nhất định bắt tôi xuống kiệu. Ông nghĩ xem: Tôi là vợ
quan thái sư, thế mà kẻ dưới dám khinh nhờn là thế
nào?
Trần Thủ Độ:

……

Bài tập 3: Tập viết đoạn đối thoại
1. Đọc đoạn một trong hai phần sau đây của truyện Một vụ đắm tàu:


a) Phần I: Từ đầu đến gỡ chiếc khăn đỏ trên mái tóc băng cho bạn. Có thể
đặt tên phần này là Làm quen hoặc Giu-li-ét-ta.
b) Phần II: Từ cơn bão dữ dội bất ngờ nổi lên đến hết. Có thể đặt tên phần
này là Cơn bão hoặc Marli-ô.

2. Em hãy cùng các bạn trong nhóm viết tiếp một số lời đối thoại để chuyển
một trong hai phần nói trên thành màn kịch theo gợi ý sau:
Màn 1:

Giu-li-ét-ta

Nhân vật: Giu-li-ét-ta, Ma-ri-ô, một vài hành khách và thuỷ thủ.
Cảnh trí: Buổi chiều tối, trên boong một chiếc tàu thuỷ giữa đại dương,
Giu-li-ét-ta đang đứng tựa vào lan can, nhìn ra biển. Xung quanh
em, một vài hành khách và thuỷ thủ đang trò chuyện với nhau về
biển, về thời tiết hoặc về con tàu.
Gợi ý lời đối thoại:
- Giu-li-ét-ta và Ma-ri-ô chào nhau, làm quen với nhau.
- Từng bạn kể về mình, về gia đình, về mục đích của chuyến đi.
- Hai bạn chia tay, hẹn ngày mai gặp lại.
- Giu-li-ét-ta kêu lên khi thấy bạn bị xô ngã và an ủi bạn khi băng bó cho
bạn.
Ma-ri-ô :

- (Bước đến bên Giu-li-ét-ta ) Xin lỗi. Mình có làm phiền cậu
không?

Giu-li-ét-ta: - ( Vui vẻ ) Ồ không, không! Mình đang nghĩ xung quanh chỉ
toàn ngưới lớn, chẳng biết nói chuyện với ai. Cậu tên là gì?
Ma-ri-ô:

- Mình là Ma-ri-ô, 12 tuổi. Còn cậu?


Giu-li-ét-ta: - Mình là Giu-li-ét-ta, cũng 12 tuổi.

Ma-ri-ô:

- Cậu có vẻ lớn hơn tuổi đấy! Cậu đi cùng bố mẹ à?

Giu-li-ét-ta: ………
Màn 2:

Ma-ri-ô

Nhân vật: Ma-ri-ô, Giu-li-ét-ta, một số phụ nữ, trẻ em và một thuỷ thủ.
Cảnh trí: Ban đêm. Cơn bão dữ dội. Những đợt sóng khủng khiếp phá
thủng
thân tàu. Con tàu đang chìm dần, nước tràn ngập các bao lơn.
Ma-ri-ô và Giu-li-ét-ta hai tay ôm chặt cột buồm, khiếp sợ nhìn
mặt
biển. Chiếc xuồng cuối cùng được thả xuống biển.
Gợi ý lời đối thoại:
- Trong cơn bão Giu-li-ét-ta và Ma-ri-ô sợ hãi nhắc nhau: “ Cẩn thận”!

- Một người kêu lên: “ Còn một chỗ đấy! Chỗ cho đứa nhỏ thôi! Xuống
mau!”.
- Ma-ri-ô nhường chỗ cho Giu-li-ét-ta, thả bạn xuống nước.
- Mọi người bảo nhau kéo Giu-li-ét-ta lên xuồng.
- Giu-li-ét-ta bật khóc nức nở, vẫy tay nói lời vĩnh biệt bạn.
Ma-ri-ô :

- (Hét to ) Giu-li-ét-ta! Cẩn thận! Giữ chặt nhé!

Giu-li-ét-ta: - ( Hét to đáp lại) Ma-ri-ô! Tàu đang chìm. Mình sợ lắm!
Ma-ri-ô:


- ( Hét to ) đừng sợ, Giu-li-ét-ta! Trông kìa, có một chiếc

xuồng!
Người dưới xuồng: .....


b) Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập:
- Thao tác 1: Đọc kĩ câu chuyện, xác định số nhân vật và quan hệ giữa các
nhân vật; tách riêng từng sự kiện xảy ra.
Ví dụ: trong bài tập 1: đoạn trích truyện Thái sư Trần Thủ Độ có:
+ 3 nhân vật: Linh Từ Quốc Mẫu, Trần Thủ Độ, người muốn xin chức câu
đương.
+ 2 sự kiện: Việc Linh Từ Quốc Mẫu xin chức câu đương cho một người
thân và cách xử trí của Trần Thủ Độ đối với người xin chức câu đương.
Do Linh Từ Quốc Mẫu không xuất hiện để tham gia trực tiếp cuộc thoại nên
sự kiện thứ nhất có thể lược bớt.
- Thao tác 2: Phân biệt rõ trong các sự kiện dự kiến sẽ chuyển thể thành đoạn
thoại:
+ Hành động , hoạt động của các nhân vật và trình tự xảy ra ( giúp cho việc
xác định và sắp xếp các hành động, hoạt động của các đối tượng tham gia hội
thoại, phân định thứ tự các lượt lời.
+ Ý nghĩa, lời nói của các nhân vật được kể lại gián tiếp ( Giúp cho việc xây
dựng thành các lời thoại trực tiếp của các đối tượng tham gia hội thoại ).
- Thao tác 3:
+ Sáng tạo thêm các nhân vật đệm hoặc các lời thoại để diễn giải hoặc nối
các sự kiện, các hoạt động của các nhân vật tạo nên sự liền mạch cho cuộc thoại.
+Thao tác ghi chép lại cuộc thoại vừa hoàn thành, sau đó sửa chữa, hoàn
chỉnh.




×