Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ kỹ THUẬT hút áp lực âm (VAC) TRONG PHẪU THUẬT tạo HÌNH KHUYẾT PHẦN mềm CHI dưới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.07 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
-----***-----

VŨ NGUYÊN BÌNH

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT HÚT ÁP LỰC
ÂM (VAC) TRONG PHẪU THUẬT TẠO HÌNH
KHUYẾT PHẦN MỀM CHI DƯỚI
Chuyên ngành : Phẫu thuật tạo hình
Mã số

: 60720123

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM THỊ VIỆT DUNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- GS.TS. Trần Thiết Sơn, người thầy luôn hết lòng chỉ bảo, truyền đạt
kiến thức cho tôi từ những ngày đầu tôi bước vào chuyên ngành. Thầy đã
quan tâm giúp đỡ tôi ngay từ khi định hướng nghiên cứu, tận tình hướng dẫn
kỹ thuật, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho tôi.


- TS. Phạm Thị Việt Dung, người đã bỏ rất nhiều thời gian và công sức,
luôn thúc giục, hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng khoa học đã đóng
góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
- GS. TS Lê Gia Vinh, PGS.TS Nguyễn Bắc Hùng, ThS Thái Duy Quang
và các thầy cô trong Bộ môn Phẫu thuật tạo hình trường Đại học Y Hà Nội đã
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi mỗi khi tôi gặp khó khăn trong quá trình học tập
và thực hiện luận văn.
- Ban giám hiệu, Phòng quản lý đào tạo sau đại học trường Đại học Y Hà
Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
- Tập thể bác sĩ và nhân viên Khoa Phẫu thuật tạo hình bệnh viện Xanh
Pôn đã quan tâm, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong học tập và hoàn thành
luận văn.
- Toàn thể cán bộ nhân viên Khoa Phẫu thuật tạo hình - Hàm mặt bệnh
viện TWQĐ 108, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các bác sĩ nội trú và cao học PTTH,
các bạn bè, đồng nghiệp những người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong
mọi hoàn cảnh.
Con xin bày tỏ lòng biết ơn vô bờ bến tới cha mẹ, những người đã sinh
thành, nuôi dưỡng và dạy dỗ để con có ngày hôm nay đã giúp đỡ chị rất nhiều
trong suốt thời gian qua.
Học viên
Vũ Nguyên Bình


LỜI CAM ĐOAN


Tôi là Vũ Nguyên Bình, Cao học khóa 26 chuyên ngành Phẫu thuật tạo
hình - Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1.

Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn

của TS. Phạm Thị Việt Dung.
2.

Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã

được công bố tại Việt Nam.
3.

Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,

trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 14 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn

Vũ Nguyên Bình


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN

Bệnh nhân


BV

Bệnh viện

PM

Phần mềm

PT

Phẫu thuật

PTTH

Phẫu thuật tạo hình

PTV

Phẫu thuật viên

VAC

Phương pháp hút áp lực âm (Vacuum-assisted closure)

VT

Vết thương


MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH


8

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chi dưới là phần cơ thể có sự phân bố không đồng đều của tổ chức mô
mềm từ gốc chi đến ngọn chi. Vùng đùi và mặt sau cẳng chân có lớp mỡ và tổ
chức cơ dày che phủ xương, trong khi đó vùng mặt trước trong cẳng chân, cổ
chân và mu bàn chân lại chỉ có lớp da mỡ mỏng che phủ gân và xương. Khi bị
tổn khuyết sau cắt bỏ khối u, loét do tì đè, bỏng hay chấn thương ở các vùng
khác nhau thì khả năng lộ các thành phần quan trọng như gân, xương, mạch
máu, thần kinh cũng khác nhau. Bên cạnh đó, tính chất da ở các vùng ở chi
dưới cũng có sự không đồng nhất. Đặc biệt có da vùng gan bàn chân có lớp da
mỡ đệm rất dày dính chặt vào tổ chức dưới da, nên khi bị tổn khuyết thì cần
được tạo hình bằng chất liệu độn dày để bệnh nhân có thể đi lại được trong
khi rất khó có thể huy động được tổ chức phần mêm xung quanh để che phủ.
Khả năng cấp máu cho các vùng của chi dưới cũng kém hơn so với các
phần khác trên cơ thể, đặc biệt như ở mặt hay bàn tay, do đó việc chăm sóc và
tạo hình cho vùng chi dưới cần phải đặc biệt chú ý. Khi bị tổn khuyết phần
mềm vùng chi dưới, nếu không được chăm sóc và che phủ kịp thời sẽ có nguy
cơ cao nhiễm trùng lan tỏa rất khó điều trị và có thể phải cắt cụt chi thể, gây
ảnh hưởng đến cuộc sống của bệnh nhân.

Có nhiều phương pháp để chăm sóc vết thương trước và sau khi tạo
hình tổn khuyết. Từ trước đến nay, các cơ sở y tế thường chỉ chăm sóc bằng
phương pháp thay băng định kì và băng bằng gạc vô trùng. Tuy nhiên phương
pháp này chỉ có thể ngăn ngừa được nhiễm trùng mà không có tác dụng nào
khác. Từ năm 1993 đã bắt đầu có nghiên cứu về hiệu quả của việc sử dụng
liệu pháp hút áp lực âm (VAC) để điều trị các tổn khuyết phần mềm lớn với
những ưu điểm vượt trội hơn so với phương pháp thay băng thông thường [1].
Liệu pháp hút áp lực âm là sử dụng hệ thống hút chuyên dụng tạo ra lực hút
ám lực âm lên toàn bộ vết thương nhằm loại bỏ dịch ứ đọng, những mảnh tổ


9

chức hoại tử nhỏ và vi khuẩn trong vết thương và dịch phù nề ở tổ chức xung
quanh. Ngoài ra nó còn làm tăng tuần hoàn cấp máu cho vùng tổn thương, và
tăng hình thành tổ chức hạt. Đây là phương pháp điều trị rất có hiệu quả, tạo
điều kiện khép kín tổn thương, giúp giảm thời gian điều trị, giảm các phiền
nhiễu trong quá trình chăm sóc vết thương, và giảm chi phí điều trị [2].
Ở Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu về việc sử dụng liệu pháp
hút áp lực âm để điều trị các tổn khuyết, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu
nào đánh giá đầy đủ và hệ thống dành riêng cho các tổn khuyết ở chi dưới để
xác định những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp này trên vùng cơ
thể có đặc điểm riêng này. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu để tài:
“Đánh giá hiệu quả kỹ thuật hút áp lực âm (VAC) trong phẫu thuật tạo
hình khuyết phần mềm chi dưới” với hai mục tiêu sau:
1.

Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật hút áp lực âm (VAC) trong điều

2.


trị khuyết phần mềm chi dưới.
Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình khuyết phần mềm chi dưới
sau sử dụng kỹ thuật hút áp lực âm.


10

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Đặc điểm tổn thương vùng chi dưới
1.2.3.1.

1.1.1. Đặc điểm giải phẫu các vùng chi dưới

Chi dưới được giới hạn phía trên bởi nếp lằn bẹn và nếp lằn mông,
được chia thành các vùng: vùng đùi, vùng gối, cẳng chân, cổ chân, bàn chân.
Cấu trúc của chi dưới có tác dụng nâng đỡ trọng lượng cơ thể, duy trì cân
bằng của cơ thể và giúp cho việc đi lại.

Hình 1.1: Hình thể ngoài chi dưới [3]

1.1.1.1. Vùng đùi


11

Vùng đùi đuợc giới hạn phía trên bởi nếp lằn bẹn ở phía trước và nếp
lằn mông ở phía sau, giới hạn phía dưới là một đường ngang phía trên nền

xương bánh chè 3 khoát ngón tay [4].
Da và tổ chức dưới da thường mềm và tương đối mỏng. Lớp mỡ và tổ
chức cơ dày, trong đó có các thành phần mạch máu và thần kinh quan trọng.
Xương đùi nằm sâu dưới các lớp cơ dày này nên tổn thương vùng này thường
là tổn thương khuyết da và phần mềm đơn thuần, có thể tổn thương mạch máu
kèm theo, phải có một lực tác động rất mạnh mới có thể gây gãy xương hở [5]
[6] [7] [8] [9] [10].

Hình 1.2: Cấu tạo vùng đùi [3]
1.1.1.2. Vùng gối
Gối được giới hạn phía trên bởi đường vòng cách bờ trên xương bánh
chè ba khoát ngón tay và phía dưới bởi đường vòng phía dưới lồi củ chày.
Vùng gối và quanh gối có lớp da và tổ chức dưới da khá mỏng, ngay
sát dưới là cơ, xương, khớp, mạch máu và thần kinh. Vì vậy một tổn thương
nguyên phát hay thứ phát cũng dễ gây khuyết tổ chức , lộ cơ, xương, khớp,


12

mạch máu, thần kinh, làm ảnh hưởng tới khả năng sống của các tổ chức này.
Bên cạnh đó, khớp gối ngay sát da và tổ chức dưới da, không có cơ che phủ
nên khi tổn thương rất dễ bị lộ khớp vì vậy rất cần tổ chức che phủ kín khớp
khi có tổn thương. Vùng gối sau có hố khoeo, nằm ngay sát dưới da và chứa
nhiều thành phần mạch máu và thần kinh quan trọng của vùng gối, các thành
phần này rất dễ tổn thương vì nằm nông sát da. Do đó việc che phủ vùng này
nếu có tổn thương rất quan trọng [4] [6] [11].

Hình 1.3: Cấu tạo vùng gối [3]
1.1.1.3. Vùng cẳng chân
Vùng cẳng chân được giới hạn ở phỉa trên bởi đường vòng qua dưới lồi

củ chày, ở phía dưới bởi đường vòng qua hai mắt cá [4].
Ở cẳng chân, phân bố phần mềm không đồng đều, khu sau và khu
ngoài có nhiều cơ trong khi đó mặt trước trong cẳng chân lại chỉ có lớp da
mỏng che phủ cho xương chày nằm ngay phía dưới. Vì vậy khi có chấn
thương trực tiếp vào mặt trước trong cẳng chân thường gây gãy hở thân


13

xương chày với vết thương khuyết hổng phần mềm lớn ở mặt trước trong
cẳng chân và thường gây lộ xương [12].
Da ở mặt trước trong cẳng chân ít đàn hồi, ít di động, nằm áp sát vào
thành và mào xương chày, nên khi có khuyết hổng phần mềm nhỏ (trên dưới
2cm) cũng khó có thể khâu kín được vết thương, nhất là khi có sung nề kèm
theo hoặc ở giai đoạn muộn khi hết sưng nề thì bờ mép vết thương đã co lại.
Ở 1/3 dưới cẳng chân chỉ có da bọc gân và xương nên khi có vết thương ở bất
cứ vị trí nào trong khu vực này cũng có thể làm lộ gân, xương [6].
Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm bất lợi nói trên thì cẳng chân lại có
khu trước ngoài và vùng bắp chân có nhiều cơ, các thành phần mạch máu và
thần kinh quan trọng đều nằm sau trong lớp cơ này nên khó bị tổn thương.
Bện cạnh đó, mạch máu nuôi da khá phong phú nên đây được coi là nguồn
cung cấp các vạt da cân, vạt da cơ và là nơi dễ chăm sóc vết thương, là nền
nhận nuôi dưỡng tốt cho mảnh da ghép [5].

Hình 1.4: Cấu tạo cẳng chân [3]


14

1.1.1.4. Vùng cổ, bàn chân

Ở vùng cổ chân và mu bàn chân chỉ có lớp da mỏng che phủ gân,
xương, khớp và mô dưới da rất ít tổ chức mỡ. Một tổn thương khuyết da nhỏ
ở vùng này cũng khó có thể khâu kín được, vết khâu thường căng, dễ bị bục
chỉ và hoại tử mép. Khi gân, xương, khớp bị lộ ra ngoài nếu không được che
phủ sớm sẽ dẫn tới nhiễm khuẩn rất khó điều trị, nhiều trường hợp phải cắt
cụt chi thể. Ở quanh mắt cá, da ít được mạch máu cung cấp, vì vậy những vết
thương vùng này thường dễ nhiễm trùng và chậm lành thương [13].
Khác với cấu trúc da mỏng ở vùng cổ chân và mu bàn chân, vùng gan
chân có tổ chức da rất dày, chắc, dính chặt vào các lớp dưới da và không di
động. Đây là vùng chịu trọng lực trực tiếp của cơ thế. Trong đó gần như toàn
bộ gan chân lại tiếp xúc trực tiếp với nhiều môi trường khác nhau trong quá
trình vận động nên rất dễ bị nhiễm khuẩn, lâu liền vết mổ và trợt loét lại. Do
cấu trúc đặc biệt này cộng với chức năng của vùng gan chân nên cần có
phương pháp tạo hình tổn khuyết thích hợp để bệnh nhân sớm phục hồi vận
động và tránh để lại các di chứng.
Vùng cổ, bàn chân có khớp cổ chân, nhiều xương, khớp, dây chằng tạo
nên nhiều ngóc ngách nên khi có tổn khuyết phần mềm vùng này dễ bị nhiễm
khuẩn, dễ viêm lan tỏa và khó giải quyết triệt để được [14].

Hình 1.5: Cấu tạo cổ, bàn chân


15

1.2.3.2.

1.1.2. Đặc điểm tổn khuyết phần mềm chi dưới

1.1.2.1. Nguyên nhân



Các tổn khuyết do nguyên nhân chấn thương: là nguyên nhân chính và hay gặp
nhất, gồm chấn thương do tai nạn giao thông, tai nạn lao động và tai nạn sinh
hoạt. Tổn khuyết do chấn thương thường do năng lượng cao nên rất phức tạp,



hay kèm theo các tổn thương gãy xương, đứt gân – cơ, lộ khớp…. [11] [15]
Thương tổn thường bẩn, nhiều dị vật, tổ chức tại chỗ dập nát hoại tử, đặc biệt



là trong chấn thương do tai nạn giao thông [12] [16].
Thường có phối hợp với các thương tổn ở các cơ quan khác như sọ não, lồng
ngực, chi trên, chấn thương bụng, khung chậu…, vì vậy phải khám sàng lọc




thật kĩ tránh bỏ sót tổn thương.
Các tổn khuyết sau cắt bỏ tổ chức sẹo bỏng, loét sau xạ trị, ung thư
Các tổn khuyết này khi cắt lọc thường phải lấy rộng và sâu để tránh bỏ sót
tổn thương vì vậy nó thường để lại khuyết phần mềm lớn, trải trên nhiều đơn
vị giải phẫu nhất là vùng cổ, bàn chân, đòi hỏi phải có chất liệu tạo hình khối



lượng tổ chức lớn để che phủ, trám độn [17].
Tổn khuyết sau cắt sẹo di chứng bỏng thường được tạo hình phủ để mang lại





chức năng tối đa.
Các tổn khuyết do các nguyên nhân khác
Khuyết phần mềm do vết thương hỏa khí thường gây dập nát, mất da, tổ chức



dưới da, gân cơ, và có thể kèm theo tổn thương xương khớp….
Khuyết phần mềm do sau cắt bỏ các khối u gai lớn, u máu, các nơ-vi sắc tố



lớn mà không đóng trực tiếp được vì vậy cần tạo hình che phủ khuyết.
Khuyết phần mềm do tì đè, viêm nhiễm, loét do bàn chân đái tháo đường
[15].
1.1.2.2. Tình trạng nhiễm khuẩn



Vết thương sạch: khuyết da phần mềm, tổ chức bề mặt sạch, không còn tổ
chức hoại tử, không có dịch mủ, cấy khuẩn âm tính, bề mặt tổn khuyết có tổ
chức hạt lên tốt [18].


16




Vết thương bẩn: Tại chỗ vẫn còn dị vật hoặc tổ chức hoại tử, có thể là tổ chức
da mỡ lóc bị hoại tử thứ phát. Hoặc có dịch mủ bẩn, bề mặt tổn khuyết có giả
mạc. Hoặc xét nghiệm cấy khuẩn dịch tại chỗ tổn khuyết dương tính. Khi đó
cần cắt lọc tổ chức hoại tử, chăm sóc vết thương để kích thích tổ chức hạt
mọc tốt, và điều trị kháng sinh theo kháng sinh đồ, chuẩn bị nền nhận thật tốt
để tạo hình thì hai [19].
1.1.2.3. Mức độ tổn khuyết



Khuyết da đơn thuần: với các tổn khuyết ở vùng đùi, cẳng chân (phía mặt
trước ngoài và bắp chân) có nên cân, cơ dày, nuôi dưỡng tốt thích hợp cho
ghép da che phủ. Khớp gối, mặt trước xương chày, vùng cô chân và mu chân
nếu diện tích nhỏ có thể liền sẹo tự nhiên hoặc khâu néo trực tiếp, ngược lại
nếu diện tích lớn cần được che phủ thích hợp bằng các bạt tại chỗ, vạt lân cận
hay vạt vi phẫu để tránh nhiễm trùng, hoại tử tổ chức, lộ các thành phần phía
dưới. Vùng gót và gan chân có da dày và không di động, lại là vùng tì đè và
chịu trọng lực của cơ thể nên kể cả với các khuyết có diện tích nhỏ cũng cần



sử dụng vạt thích hợp để che phủ đảm bảo phục hồi chức năng [8], [20], [21].
Khuyết phần mềm lộ gân, xương, khớp: đây là những tổn khuyết phức tạp đôi
khi kèm theo khuyết tổ chức gân xương, đặc biệt là tổn khuyết quanh khớp gối,
mặt trước xương chày, cổ chân, gót chân. Trong trường hợp có nhiễm khuẩn
kèm theo thì việc điều trị rất khó khăn vì tỉ lệ viêm rò và thiểu dưỡng vạt là rất
cao. Chức năng vận động sau phẫu thuật rất kém do tổn thương phức tạp, thời
gian điều trị kéo dài, thiểu dưỡng tại các vùng khớp vận động. Cần cắt lọc, nạo
hết ổ viêm, ổ nhiễm trùng, điều trị chăm sóc tốt cho tổ chức hạt mọc. Có thể
ghép da thì đầu che phủ tạm thời gân xương để tạo điều kiện tạo hình vạt che




phủ thì hai [6].
Khuyết PM kèm khuyết xương: ngoài việc điều trị khuyết phần mềm còn phải



cân nhắc điều trị khuyết xương nhằm đảm bảo chức năng vận động sau này.
Tổn thương phối hợp: các khuyết PM chi dưới có thể kèm theo tổn thương
mạch máu, thần kinh, ngoài ra hay kèm theo những tổn thương (phần mềm


17

hoặc xương) vùng cẳng chân, những tổn thương khác như chấn thương sọ
não, chấn thương ngực, chấn thương bụng…, trong trường hợp này ưu tiên
điều trị các tổn thương nguy hiểm đến tính mạng trước, các khuyết phần mềm
vùng cổ, bàn chân được xử lý tối thiểu [5-11, [13].
1.2. Phương pháp hút áp lực âm (VAC)
1.2.3.3.

1.2.1. Lịch sử sử dụng VAC trong điều trị

Từ cuối thế kỉ 20, trên Thế giới đã bắt đầu có những nghiên cứu thực
nghiệm và lâm sàng về tác động của áp lực âm lên bề mặt của vết thương. Từ
năm 1989, Argenta và Morykwas tại trường Đại học Y khoa Wake Forest ở
Carolina (Hoa Kỳ) đã nghiên cứu điều trị vết thương bằng liệu pháp chân
không và đã thấy rằng: việc tạo ra một áp lực âm 125mmHg tác động lên bề
mặt vết thương thì lưu lượng máu đến vết thương tăng 400%, số lượng vi

khuẩn giảm rõ rệt và sự hình thành tổ chức hạt tăng lên đáng kể; đặc biệt cơ
chế tác dụng ngắt quãng hiệu quả hơn cơ chế liên tục [22]. Năm 1993,
Fleischmann và cộng sự ở Cộng hòa Liên bang Đức báo cáo sử dụng liệu
pháp chân không trong điều trị 15 bệnh nhân bị gãy xương hở. Với liệu pháp
này, kết quả là không có trường hợp nào bị viêm xương – tủy xương, tất cả
vết thương đều sạch và tổ chức hạt nhanh phát triển. Sau đó, tác giả cũng sử
dụng VAC trong điều trị cho 25 BN có hội chứng khoang cẳng chân và 313
bệnh nhân nhiễm khuẩn vết thương cấp tính, nhiễm khuẩn mạn tính khác, kết
quả thu được rất khả quan [1], [23], [24].
Sau những báo cáo của Fleischmann, nhiều tác giả khác cũng có báo
cáo về điều trị vết thương bằng VAC. Những công trình này đều khẳng định
rằng: ngoài kết quả như trong nghiên cứu của Fleischmann, vết thương không
bị bội nhiễm thêm vi khuẩn từ bên ngoài cũng như lây lan vi khuẩn từ vết
thương ra bên ngoài do luôn được bịt kín. Hơn nữa, với liệu pháp này vết
thương luôn được giữ khô sạch, không có mùi hôi nên bệnh nhân thoải mái dễ


18

chịu, ít bị mặc cảm tự ty, thời gian điều trị được rút ngắn, hiệu quả điều trị
cao, giảm yêu cầu chăm sóc về điều dưỡng, giảm chi phí điều trị [25], [26].
Nhiều công trình nghiên cứu cơ bản trên thực nghiệm đã chứng minh
rằng: VAC có tác dụng loại bỏ dịch phù nề nên loại trừ nguyên nhân bên
ngoài gây rối loạn vi tuần hoàn trong giai đoạn viêm của quá trình liền
thương, tăng cường cung cấp máu nuôi dưỡng, sức căng cơ học từ áp lực hút
có tác dụng kích thích tổ chức hạt phát triển. Bên cạnh đó, lực hút cũng loại
bỏ dịch ứ đọng và làm giảm vi khuẩn ở vết thương, thu nhỏ diện tích vết
thương. Những tác dụng đó tạo thuận lợi cho quá trình liền thương.
Năm 1995, hãng KCI (Kinetic Concepts Inc) ở Hoa Kỳ đã thiết kế và chế
tạo thành công thiết bị đảm bảo cho thực hiện liệu pháp chân không một cách

thuận lợi và hiện đại. Phần quan trọng nhất của thiết bị là bộ phận tạo lực hút âm
tính được điều khiển bằng mạch vi xử lý, có khả năng điều chỉnh chế độ hút liên
tục hoặc ngắt quãng với lực hút từ 25 – 200 mmHg [27, 28]. Gần đây, một số tác
giả Hàn Quốc đưa ra quan niệm sử dụng VAC với chế độ hút dạng chu kì với lực
hút thay đổi từ 50 – 125 mmHg, vừa đảm bảo tác dụng tốt như hút áp lực âm
ngắt quãng nhưng lại ít gây cảm giác đau, khó chịu cho bệnh nhân [29] [30].
1.2.3.4.

1.2.2. Nguyên lý hoạt động và tác dụng

VAC là phương pháp điều trị sử dụng lực hút áp lực âm tính tại vết
thương với tác dụng loại bỏ tổ chức hoại tử, máu ứ đọng, dịch rỉ viêm khỏi
vết thương.
Nguyên lý tác dụng của VAC là lực hút từ bình chứa dịch có áp suất âm
được truyền qua ống dẫn và mảnh foam (gạc xốp chứa nhiều lỗ nhỏ chuyên
dụng) được đặt vừa khít trong vết thương để tác động tới toàn bộ bề mặt của
vết thương đã được bịt kín, dưới tác dụng của lực hút này thì dịch ứ đọng,
những mảnh tổ chức hoại tử nhỏ trong vết thương và dịch phù nề ở tổ chức
xung quanh vết thương được hút qua các lỗ của foam để gom vào ống dẫn và
đổ vào bình chứa dịch có áp suất âm.


19

Để không khí từ môi trường xung quanh không bị hút qua vết thương
vào hệ thống tạo áp lực âm thì vết thương và foam trong vết thương hoặc
foam trùm ra ngoài phải được bịt kín bằng tấm dán đặc biệt dính chắc vào da.
Tấm dán này được làm từ hợp chất dạng silicon có màu trong suốt, mỏng và
mềm, cho hơi nước thấm qua nhưng ngăn không cho vi khuẩn trong vết
thương lọt ra ngoài cũng như vi khuẩn từ bên ngoài xâm nhập vào vết thương.

Sau khi dán bịt kín thì cắt một lỗ nhỏ trên tấm dàn và đặt bản hút trên lỗ nhỏ
này, tiếp đó là kết nối hệ thống ống từ bản hút tới bình chứa có áp suất âm.
Như vậy đã tạo được lực hút tác động tới toàn bộ bể mặt của vết thương.
Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh hiệu quả của
phương pháp hút áp lực âm so với chăm sóc vết thương thông thường. Theo
một nghiên cứu của Stannard năm 2005 đã kết luận rằng VAC giúp tăng tưới
máu, giảm phù nề, kích thích tạo mô hạt, giảm tỷ lệ nhiễm trùng từ 33%
xuống 9%) [31]. Năm 2001, DeFranzo công bố một nghiên cứu đưa ra kết
luận rằng VAC có thể kích thích mô hạt che phủ các vật liệu cấy ghép kim
loại bị bộc lộ ở vết thương [32]. Greer vào năm 1998 khi nghiên cứu đã nhận
thấy VAC giúp làm giảm nhu cầu sử dụng vạt tự do cho phủ tổn khuyết [33].
Từ một số nghiên cứu đã được công bố, người ta đã đưa ra được các tác
dụng của phương pháp VAC [34], [35]:
-

Làm giảm khoang chết trong vết thương
Tạo môi trường tốt cho vết thương do loại trừ được dịch tiết của vết
thương, dịch phù nề chứa các mảnh vỡ tế bào, các chất trung gian

-

sinh học đã phóng thích khi bị thương tổn
Làm giảm nhanh lượng vi khuẩn trong vết thương
Giúp tăng cường sự tưới máu và mạch hóa, kích thích tạo mô hạt
Làm giảm kích thước vết thương


20

Hình 1.6: tác dụng của VAC [36]

1.2.3.5.

1.2.3. Chỉ định và chống chỉ định của VAC [37-39]

1.2.3.1. Chỉ định
-

Các khuyết hổng phần mềm, vết thương sau rạch cân giải phóng chèn ép

-

khoang
Vết thương nhiễm trùng nguyên phát hoặc thứ phát, vết thương có tổ chức

-

kém được nuôi dưỡng
Các tổn thương bỏng
Loét do tỳ đè, tiểu đường hoặc xạ trị
Cố định mảnh da ghép, các vạt tổ chức
1.2.3.2. Chống chỉ định

-

Rối loạn đông máu và chảy máu cấp tính ở vết thương
Nền vết thương bị hoại tử
Tổ chức u trong vết thương
Viêm xương – tủy xương không được điều trị
Mạch máu và tạng bị bộc lộ



21

1.2.3.6.

1.2.4. Dụng cụ, vật liệu cần thiết cho VAC

1.2.4.1. Vật liệu tạo foam (gạc xốp chuyên dụng):
Hiện nay có hai loại vật liệu khác nhau được dùng để sản xuất foam là
polyurethane (PU) – foam đen và polyvinyl alcohol (PVA) – foam trắng. Hai
loại này khác nhau về lý tính và chỉ định sử dụng.
- Foam PU: màu đen, mềm. liên kết cơ học khá bền chắc, không ngấm
nước, có kích thước lỗ từ 400 – 2000 µm, bị xẹp lún nhiều dưới tác dụng của
lực hút. Sau 3 – 4 ngày đặt trong vết thương, tổ chức hạt phát triển vào trong
các lỗ của foam [40]. Trong đó có 2 loại: Ether PU và ester PU.
• Ester PU: kích thước lỗ nhỏ hơn, dễ ngấm nước hơn, cấu trúc
dạng tổ ong trong chất liệu dày đặc hơn
• Ether PU: kích thước lỗ lớn hơn, ít ngấm nước hơn
- Foam PVA: màu trắng, không bị xẹp lún, kém mềm dẻo hơn foam PU,
có kích thước lỗ 700 – 1500 µm nên tổ chức hạt không phát triển vào trong lỗ
foam.
Trong đó foam PU đen (loại ester) có nhiều ưu điểm khi sử dụng với
vết thương cần lấy bỏ những mảnh tổ chức hoại tử nhỏ cùng với dịch vết
thương hoặc khi đặt vào những vết thương có nền lỗi lõm hoặc nhiều ngóc
ngách nhờ vào tính mềm mại của nó. PU ether thường được sử dụng trong
liệu pháp nhỏ giọt chân không (iNPWT - VACinstill).
Foam PVA trắng thường được sử dụng với tổn thương sâu dạng đường
hầm và tổn thương cần được làm phẳng bề mặt. Với tính chất lỗ nhỏ hơn và
mật độ lớn hơn, foam PVA không cho tổ chức hạt phát triển vào các lỗ foam
nên việc thay băng cho bệnh nhân bớt đau hơn [36].



22

Hình 1.7: Foam PU và tấn dán, bản hút
1.2.4.2. Dụng cụ phụ trợ
-

Tấm dán được sử dụng để bịt kín vết thương là loại chuyên dụng, có đặc điểm
là mỏng, bền dai, màu trong suốt, đảm bảo cho hô hấp của da và hơi nước

-

thấm qua
Bản hút được dùng để truyền tải lực hút từ bình hút áp lực âm đến vết thương.
Bản hút này có thể gắn vào bất kì vị trí nào trên vết thương đã được bịt kín

-

thông qua một lỗ nhỏ
Ống dẫn nối từ bản hút tới bình hút áp lực
1.2.4.3. Máy hút tạo áp lực âm
Hiện nay, có nhiều loại máy có thể sử dụng để thực hiện VAC trên lâm
sàng. Mỗi công ty cung cấp thiết bị VAC lại có một loại máy khác nhau. Về
cơ bản các máy đều có thể tạo được áp lực âm tính với áp lực từ 25 – 200
mmHg, với nhiều kiểu hút như hút liên tục, hút ngắt quãng hoặc hút có chu kì.
Trong thực tiễn lâm sàng, các máy hút điều khiển tự động không phải là
lựa chọn duy nhất cho mọi điều trị bằng VAC. Sau khi đã băng kín vết
thương, về nguyên tắc có thể tạo áp lực âm bên trong vết thương bằng các



23

máy hút khác, ví dụ như hệ thống hút trung tâm của bệnh viện. Tuy nhiên,
hiệu quả giữa các loại máy hút này là không như nhau.

Hình 1.8: Hệ thống hút VAC
1.2.3.7.

1.2.5. Kĩ thuật thực hiện

1.2.5.1. Chuẩn bị vết thương
Trước khi triển khai VAC, phải xử lý vết thương cẩn thận.
Với vết thương có nhiều tổ chức hoại tử, vết thương bẩn: phải thực hiện
cắt lọc một cách cơ bản để loại bỏ hết tổ chức hoại tử, tổ chức bẩn và dị vật nếu
có, sau cắt lọc 6 – 12h thì mới đặt hệ thống tạo áp lực âm để tránh mất máu. Cắt
lọc sạch là yếu tố quan trọng đảm bảo thành công của phương pháp VAC.
Với những vết thương nghi ngờ có chảy máu cấp tính, cần phải cầm
máu kĩ trước khi triển khai phương pháp VAC
Với các trường hợp khác: thay băng, rửa sạch vết thương và đặt hệ
thống VAC đảm bảo vô trùng


24

1.2.5.2. Kĩ thuật đặt hệ thống VAC:
-

Đặt foam đầy kín và sát đáy vết thương, luồn foam vào hết đáy các ngóc
ngách, kích thước và hình dáng bề mặt foam vừa bằng kích thước và hình


-

dáng bề mặt vết thương.
Sau khi đặt foam, bịt kín ngay vết thương bằng tấm dán chuyên dụng để

-

không cho không khí bên ngoài lọt vào vết thương,
Cắt tạo một lỗ nhỏ ở tấm dán nói trên ngay phía trên bề mặt foam, đặt và dính
bản hút vào đúng lỗ vừa tạo. Sau đó lắp ống hút có gắn bản hút nối với ống

-

hút của bình chứa và đặt bình chứa vào trong máy hút.
Đặt lực hút và chế độ hút ở máy hút. Tùy vào đặc điểm vết thương, cảm giác
đau của BN, mục tiêu hút và quan điểm của PTV để đưa ra chỉ số lực hút và
chế độ hút phù hợp. Theo một số nghiên cứu, lực hút 125 mmHg là lý tưởng
cho hình thành tổ chức hạt và làm sạch vết thương. Chế độ hút có thể là hút

-

liên tục, hút ngắt quãng hoặc hút có chu kì.
Kiểm tra tác dụng tạo áp lực âm ở vết thương, khi tạo được áp lực âm tại vết

-

thương thì foam bị xẹp dúm lại và lực hút được thể hiện trên máy.
Thời gian thay foam là 2 – 7 ngày phụ thược vào vết thương, mức độ nhiệm
khuẩn, loại foam sử dụng và mức độ chịu đựng của bệnh nhân.



25

Hình 1.9: Các bước thực hiện VAC [41]
1.3. Các phương pháp điều trị khuyết da và phần mềm chi dưới
Để che phủ khuyết da và phần mềm chi dưới thì có các phương pháp:
-

Liền thương tự nhiên
Khâu đóng trực tiếp
Ghép da
Vạt ngẫu nhiên
Vạt trục mạch
Vạt vi phẫu
1.2.3.8.

1.3.1. Liền thương tự nhiên

Với những tổn thương nhỏ, không có lộ gân xương, vết thương sạch và
tình trạng bệnh nhân không cho phép trải qua cuộc phẫu thuật, chăm sóc để
vết thương liền tự nhiên cũng là phương pháp hiệu quả để điều trị các khuyết
phần mềm chi dưới.
Đối với tổn thương bẩn, nhiều giả mạc, sau khi đã cắt lọc sạch tổn
thương, có thể sử dụng phương pháp hút VAC để làm cho tổn thương sạch.
Sau đó có thể thực hiện phương pháp hút VAC cho đến khi tổn thương tự biểu
mô và liền thương mà không cần can thiệp phẫu thuật.
1.2.3.9.

1.3.2. Khâu đóng trực tiếp


Nhiều tổn thương chi dưới có thể được đóng trực tiếp hoặc bằng cách
huy động tổ chức lân cận. Trước khi khâu đóng trực tiếp, cần phải xác định
vết thương sạch, không còn dị vật, hai mép khâu không quá căng và phải chắc
chắn các tổ chức lân cận có khả năng sống.
1.2.3.10.

1.3.3. Ghép da

Tùy vào từng loại tổn thương, tính chất, vị trí mà có chỉ định ghép da
cho từng vùng cơ thể. Cho dù là loại mảnh ghép da toàn bộ hay xẻ đôi, những
ưu và nhược điểm của kĩ thuật ghép da đều được các nhà phẫu thuật tạo hình
thống nhất từ hơn một thế kỷ qua


×