Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Luận văn: Phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.88 KB, 97 trang )

2
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH
QUY LUẬT PHÁT HUY VAI TRÒ QUẦN CHÚNG
NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
TỈNH LÂM ĐỒNG
1.1

Thực chất phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng

1.2

10
10

Những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng

28

Chương 2 TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY
VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN
NAY


2.1

Tình hình phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay

2.2

46
46

Giải pháp cơ bản phát huy vai trò quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay

63

KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

PHỤ LỤC

88


3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định chủ thể chân chính sáng tạo và
quyết định sự vận động phát triển của lịch sử là quần chúng nhân dân. Ông
cha ta đúc kết: đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Kế thừa và
phát triển những tư tưởng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan niệm đúng
đắn về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Người
khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [35, tr.276]. Thấm nhuần tư
tưởng đó, quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách nhằm khơi dậy, tập hợp, đoàn kết đông đảo quần chúng
nhân dân, phát huy vai trò, sức mạnh to lớn của họ để giành thắng lợi vĩ đại
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
đất nước ta. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 25 năm đổi
mới đất nước vừa qua là bằng chứng sinh động khẳng định chân lý: đổi mới
phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo
của nhân dân. Đồng thời hiện nay cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phát huy
được mọi tiềm năng của quần chúng nhân dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Lâm Đồng là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính
trị, quốc phòng, an ninh của khu vực Tây Nguyên; có lợi thế về khí hậu, cảnh
quan môi trường, đất đai, khoáng sản, để phát triển kinh tế - xã hội. Quần
chúng nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng có truyền thống cách mạng, đoàn
kết gắn bó với Đảng, với chế độ; có ý chí anh dũng kiên cường, bất khuất
trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng: kinh tế - xã hội phát
triển, quốc phòng an ninh được củng cố và tăng cường, đời sống của đại bộ


4
phận nhân dân được cải thiện và ngày càng nâng cao [14, tr.43]. Có được

những thành quả quan trọng đó là do Lâm đồng đã phát huy được sức mạnh
tổng hợp của nhiều lực lượng, nhiều yếu tố; mà một trong những vấn đề có
tính quy luật và là động lực trực tiếp, chủ yếu, đó là phát huy được vai trò của
quần chúng nhân dân. Cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã
hội các cấp trong tỉnh đã có nhận thức đúng đắn vai trò của quần chúng nhân
dân, khơi dậy và phát huy được tính năng động, sáng tạo của quần chúng
nhân dân các dân tộc trong tỉnh tích cực, tự giác, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu
vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
của tỉnh. Tuy nhiên, đến nay Lâm Đồng vẫn là tỉnh nghèo, những thành tựu
đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Những nhân tố chủ
quan của các chủ thể tiến hành công tác vận động, phát huy vai trò của quần
chúng nhân dân trong tỉnh vì sự nghiệp đổi mới còn nhiều bất cập. Trong khi
đó trình độ dân trí của Lâm Đồng không đồng đều, còn có sự cách biệt lớn
giữa thành thị với nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dân cư đa dạng, đồng bào
dân tộc thiểu số ở tỉnh Lâm Đồng chiếm tỷ lệ khá cao, trình độ, năng lực, kinh
nghiệm lao động sản xuất, tiếp thu tiến bộ khoa học để phát triển kinh tế, xã
hội, tổ chức cuộc sống còn hạn chế. Những vấn đề nêu trên có tác động không
nhỏ đến chất lượng, hiệu quả phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng. Vì vậy, đặt ra yêu cầu khách quan cần
nghiên cứu làm rõ cả lý luận và thực tiễn vấn đề phát huy vai trò quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề phát huy vai trò quần chúng nhân dân đã được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong sự toàn
diện và phong phú của các vấn đề đã được nghiên cứu, có thể khái quát thành
mấy khuynh hướng chính sau đây:


5
Trước hết, quan niệm về nhân dân, vai trò và phát huy vai trò của quần

chúng nhân dân. Tiêu biểu cho khuynh hướng này có các công trình: “Dân là
gốc, dân là chủ”, Bùi Đình Phong [46]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
quần chúng nhân dân trong lĩnh vực an ninh trật tự”, Phùng Văn Nam [41];
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng”, Lê Thị Thanh Phụng [47]; “Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân
trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Phạm Văn Nhuận [43];
“Bộ đội Biên phòng phát huy vai trò của quần chúng nhân dân ở các xã biên
giới phía Bắc trong nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay”, Bùi Bảo
Kiếm [26]; “Phát huy vai trò quần chúng nhân dân các xã biên giới trong
nhiệm vụ phòng chống buôn lậu của Bộ đội Biên phòng hiện nay”, Trần Văn
Lực [39].
Các công trình trên đã đề cập một cách tương đối có hệ thống cơ sở lý
luận và thực tiễn về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vai trò của quần chúng nhân
dân với vai trò của cá nhân lãnh tụ. Từ đó, đi đến khẳng định yếu tố quyết
định thuộc về vai trò của quần chúng nhân dân. Tác giả Bùi Đình Phong đặt
vấn đề nghiên cứu quan niệm về dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh một cách
khá toàn diện, từ đó đi đến khẳng định dân là gốc của cách mạng, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới không những chỉ
là dân chủ đại diện mà phải mở rộng và tăng cường dân chủ trực tiếp. Vấn đề
phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, tác giả Phạm Văn Nhuận đã luận giải một số nội dung, yêu cầu
cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay đó là: quán triệt quan điểm nhân dân,
quần chúng; phát huy vai trò nhân dân là người chủ đất nước; cán bộ, đảng
viên nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ vì hạnh phúc của nhân dân. Tác giả
Bùi Bảo Kiếm, Trần Văn Lực đã phân tích và làm sâu sắc thêm những vấn đề


6
về phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong tính đặc thù ở các xã biên

giới trong nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia và phòng, chống buôn lậu.
Thứ hai, vấn đề xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ
có đủ năng lực, kinh nghiệm trong đoàn kết vận động quần chúng nhân dân.
Có các công trình: “65 năm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Nguyễn Bá
Dương [9]; “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, của nhà báo Tương
Lai, Báo Mới 26/8/2011; “Thực hành dân chủ kỷ cương, công khai và trách
nhiệm”, Trương Văn Non [44]; “Triết lý lấy sức dân, của dân, tài dân làm lợi
cho dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Nguyễn Cương [7].
Ở các công trình này các tác giả đã tập trung làm rõ vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị các cấp ở
địa phương vững mạnh, định ra chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; đồng thời phải phát huy quyền,
nghĩa vụ của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Tác giả Trương Văn Non
đã luận giải và đi đến khẳng định: thực hiện đầy đủ quyền dân chủ đi đôi với
tăng cường kỷ cương của pháp luật tạo ra môi trường chính trị - xã hội lành
mạnh, như vậy sẽ phát huy được sức mạnh của mọi yếu tố, mọi nguồn lực để
phát triển. Từ những lược khảo quan niệm về dân trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam, tác giả Nguyễn Cương khẳng định và làm sáng tỏ thêm tư tưởng Hồ Chí
Minh về triết lý lấy sức dân, của dân, tài dân để làm lợi cho dân. Bởi vì,
không chỉ dân là gốc, dân là nền móng, dân như nước, mà dân còn là chủ.
Mục đích xây dựng nước Việt Nam không chỉ độc lập mà còn tự do, hạnh
phúc và dân chủ. Do vậy, phải đem toàn bộ sức người, sức của, tinh thần, vật
chất, tài năng, của cải, tài sản trong dân để làm lợi cho dân.
Thứ ba, những vấn đề về đoàn kết, vận động quần chúng nhân dân tạo sự
đồng thuận xã hội để phát triển: “Đoàn kết xã hội động lực phát triển xã hội”,


7
Hà Văn Núi [45]; “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí

Minh”, Nguyễn Trọng Chuẩn [6]; “Kinh nghiệm và yêu cầu vận động bà con
các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng “Xây dựng nếp sống văn minh, xoá bỏ các
tập tục lạc hậu”, Cao Thị Ngọc Thủy [50]; “Lâm Đồng với công tác tuyên
truyền giáo dục tinh thần đoàn kết chống chia rẽ kỳ thị dân tộc”, Lê Văn Tư
[56].
Tác giả Cao Thị Ngọc Thủy đã khẳng định thực hiện sự nghiệp đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Lâm
Đồng đã có sự phát triển, đời sống của bà con các dân tộc đã được cải thiện
một bước. Tuy nhiên, trình độ dân trí của bà con các dân tộc thiểu số còn thấp
là một cản trở lớn cho sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng. Vì vậy, phải tăng
cường công tác giáo dục làm chuyển biến nhận thức của đồng bào. Từ chuyển
biến về nhận thức làm chuyển biến về hành động, phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội, bảo vệ an ninh, quốc phòng, từ đó các luật tục lạc hậu sẽ từng bước bị
đẩy lùi, nếp sống văn minh, đời sống văn hoá mới sẽ từng bước được xây
dựng, củng cố. Tác giả Lê Văn Tư đã luận giải những vấn đề có tính chất đặc
thù trong công tác tuyên truyền, giáo dục chống chia rẽ, kỳ thị dân tộc ở tỉnh
Lâm Đồng. Xây dựng đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh, đoàn kết giữa
đồng bào người Kinh - người Thượng có ý nghĩa quan trọng trong phát triển
kinh tế, xã hội ở địa phương.
Với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng các công trình trên đều
khẳng định vấn đề đoàn kết nhân dân, phương pháp vận động quần chúng
khoa học sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội, khơi dậy được mọi tiềm năng, trí
sáng tạo trong quần chúng nhân dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, là
động lực trực tiếp trong sự nghiệp đổi mới.
Những nghiên cứu nêu trên là cơ sở lý luận và là nguồn tư liệu thiết
thực để tác giả nghiên cứu, tham khảo, kế thừa và phát triển trong thực


8
hiện đề tài. Tuy nhiên, do mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nên

các công trình trên đây chỉ tập trung nghiên cứu về phát huy vai trò quần
chúng nhân dân nói chung, chưa có công trình nào tiếp cận, đi sâu nghiên
cứu vấn đề: “Phát huy phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng”. Do vậy, đề tài luận văn tác giả lựa chọn
không trùng lắp với các công trình đề tài đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn: Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về
phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm
Đồng, đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp đổi mới ở địa bàn chiến lược này hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Làm rõ thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng.
Đánh giá thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân thành tựu và hạn chế
của việc phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh
Lâm Đồng hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp đổi mới ở Lâm Đồng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Những khía cạnh bản chất của phát huy vai
trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng.
* Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vai
trò quần chúng nhân dân, phát huy vai trò quần chúng nhân dân gắn với điều kiện đặc
thù về kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Lâm Đồng; thời gian từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


9
* Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần

chúng nhân dân, vai trò và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng.
* Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo, tổng kết, đánh giá của
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Ban Dân vận Trung ương; của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh và một số cơ quan chức năng của tỉnh Lâm Đồng; các công trình
nghiên cứu khoa học các cấp đã công bố và khảo sát thực tiễn của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn là dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả sử dụng một
số phương pháp cơ bản như: phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; lôgíc
và lịch sử; phương pháp thống kê, so sánh, hệ thống hóa và phương pháp
chuyên gia để làm sáng tỏ và cụ thể hóa nội dung nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Với những kết quả nghiên cứu bước đầu, luận văn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo, nghiên cứu giảng dạy về vấn đề vai trò và phát huy vai trò
quần chúng nhân dân. Đồng thời là cơ sở để các cấp lãnh đạo, các ngành
trong tỉnh Lâm Đồng nghiên cứu, tham khảo trong việc hoạch định các chủ
trương, chính sách đoàn kết, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT PHÁT HUY
VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở TỈNH LÂM ĐỒNG
1.1. Thực chất phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng

1.1.1. Đặc trưng, vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới ở tỉnh Lâm Đồng
Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau về quần chúng nhân
dân và vai trò quần chúng nhân dân. Quan niệm duy tâm, tôn giáo phủ nhận
vai trò quần chúng nhân dân sáng tạo ra lịch sử, mọi sự thay đổi trong xã hội
là do ý chí của đấng tối cao, do “mệnh trời”. Cũng có những nhà tư tưởng đề
cao vai trò của quần chúng nhân dân, nhưng lại không nhận thức được một
cách khoa học vai trò đó. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những dấu hiệu
đặc trưng, bản chất quan niệm về quần chúng nhân dân, đó là: những người
lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội; bộ phận dân cư
chống lại những lực lượng xã hội lạc hậu, phản động, giai cấp thống trị áp
bức, bóc lột cản trở tiến bộ xã hội; lợi ích là vấn đề cơ bản liên kết các thành
viên trong trong cộng đồng người; thông qua qua hoạt động trực tiếp hay gián
tiếp của mình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, quần chúng nhân dân
thúc đẩy tiến bộ xã hội. Theo đó, có thể khẳng định rằng quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quần chúng nhân dân là một quan niệm có tính lịch sử,
vận động và phát triển theo sự phát triển của lịch sử xã hội; do đó, có tính giai
cấp sâu sắc. Quần chúng nhân dân không phải là phép cộng của tất cả những
cá nhân mà là sự liên kết những cá nhân ấy thành một khối thống nhất, dưới
sự lãnh đạo của một giai cấp, đảng phái hay một thủ lĩnh. Cơ sở của sự liên


11
kết là lợi ích cơ bản của con người. Lợi ích cơ bản bảo đảm cho con người
sinh sống, tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Theo Hồ Chí Minh, đó là “quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [38, tr.272]. Mục đích của
sự liên kết chính là nhằm thực hiện những nhiệm vụ của thời đại đặt ra vì
hạnh phúc của chính con người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở xác định đúng đắn mối quan hệ giữa
vai trò cá nhân và vai trò quần chúng nhân dân trong sự phát triển xã hội,

khẳng định: quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo và quyết
định sự vận động, phát triển của lịch sử. Quần chúng nhân dân không những
đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất, trong cách mạng xã hội mà
còn đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp phát triển các giá trị văn hóa
tinh thần của đời sống xã hội. V.I.Lênin viết “Cách mạng là ngày hội của
những người bị áp bức bóc lột. Không lúc nào mà quần chúng nhân dân có
thể tỏ ra là người tích cực sáng tạo ra những trật tự xã hội mới như trong thời
kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế thì nhân dân có thể làm được
những kỳ công” [27, tr.131].
Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhận thức đúng
đắn vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
Người khẳng định “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải
là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào” [36, tr.197]. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn coi nhân dân là cội nguồn sức mạnh vô tận, là yếu tố
quyết định sự thành bại của cách mạng. Một trong năm bài học kinh nghiệm
lớn đã được nêu rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “Sự nghiệp
cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là
người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất


12
phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân” [21, tr.65]; trong mọi nhiệm vụ của
cách mạng, Đảng ta luôn “dựa vào dân, lấy dân làm gốc”.
Đổi mới để phát triển là quy luật chung của tất cả các quốc gia dân tộc
cho phù hợp với đặc điểm, xu thế thời đại hiện nay. Đổi mới tuy không phải là
cách mạng xã hội và không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm cải cách,
nhưng đổi mới là quá trình mang tính cách mạng nhằm tạo ra những bước

nhảy vọt trong sự phát triển đất nước và xây dựng mô hình phát triển mới.
Với ý nghĩa đó, sự nghiệp đổi đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, năm 1986 mang tính cách mạng, toàn
diện, triệt để và sâu sắc. Thực hiện sự nghiệp ấy là quá trình giải quyết mối
quan hệ biện chứng của những yếu tố khách quan, chủ quan: điều kiện tự
nhiên, sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện của Nhà nước, vai trò của các
tổ chức chính trị, xã hội nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân – với
ý nghĩa là nguồn gốc, động lực và là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Bởi vì,
sự nghiệp đổi mới khởi đầu từ quần chúng nhân dân, chính từ sự tìm tòi, sáng
tạo của quần chúng nhân dân ở các hợp tác xã nông nghiệp và các doanh
nghiệp đã khẳng định tính đúng đắn và đặt ra yêu cầu tất yếu phải đổi mới để
phát triển. Vì vậy, sự nghiệp đổi mới hiện nay đòi hỏi phải phát huy vai trò
quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu, chương trình kinh tế xã
hội, giữ vững ổn định chính trị và văn hóa tư tưởng.
Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là một bộ phận quần chúng
nhân dân Việt Nam sinh sống và lao động trong địa giới hành chính của tỉnh, là
chủ thể góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở tỉnh
Lâm Đồng. Xét theo nghĩa hẹp thì quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là
những người lao động chưa phải là cán bộ, đảng viên. Nhưng xét theo nghĩa
rộng mà sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng hướng tới nhằm phát huy vai trò


13
của họ thì quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng bao gồm: cán bộ, đảng viên
và nhân dân cư trú, lao động thường xuyên, lâu dài ở tỉnh Lâm Đồng, không
phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, trình độ, nghề nghiệp khác nhau.
Về cơ cấu dân tộc, tôn giáo: dân số ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay có
khoảng 1.200.000 người, với tính đa dạng về dân tộc và tôn giáo, trong đó: dân
tộc Kinh ≈ 77%; K’Ho ≈ 12%; Mạ ≈ 2,5%; Nùng, Tày ≈ 2%; Hoa, Chu-ru ≈
1,5%, các dân tộc khác mỗi dân tộc có tỷ lệ dưới 1% sống thưa thớt ở các

vùng sâu, vùng xa trong tỉnh [66]. Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng có
sự gia tăng mạnh về số lượng do quá trình bố trí lại dân cư và tình trạng di
dân tự do (năm 1990 dân số Lâm Đồng khoảng 680.000 người, đến năm 2010
tăng gần 50%, mà chủ yếu là ở khu vực nông thôn và sản xuất nông nghiệp).
Toàn tỉnh có 143 xã, phường, thị trấn, trong đó có 49 xã và 64 thôn buôn đặc
biệt khó khăn, phần lớn trong số này là các xã, thôn, buôn có đông đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống, nằm ở vùng sâu, vùng xa. Sự đa dạng cộng đồng
dân cư ở Lâm Đồng mang nhiều đặc điểm đa dạng của các vùng miền khác
nhau, hội tụ nhiều nét văn hoá tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó là: cần cù,
năng động, sáng tạo, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, với cơ
cấu ngành nghề khá đa dạng, tạo nên sự đa dạng về tập quán sản xuất và tay
nghề của quần chúng nhân dân trong tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc thiểu số
và gia tăng cơ học dân số luôn là yếu tố gây nghèo, bất lợi đối với tăng trưởng
kinh tế và công tác xoá đói giảm nghèo, tạo sức ép lớn về giải quyết các vấn
đề đời sống xã hội, an ninh chính trị, môi trường sinh thái và giải quyết công
ăn việc làm cho quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc thiểu số bản địa ở Lâm Đồng là
thờ cúng đa thần, cúng ma…Với tín ngưỡng đó, một mặt phản ánh trình độ
dân trí thấp, đồng thời cũng qua đó cho ta thấy được khó khăn trong việc
tuyên truyền quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong


14
phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Về tôn giáo, toàn tỉnh có 4 tôn giáo chính là
(Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành và Cao đài). Với các tín đồ chiếm 65%
dân số, (tỷ lệ này trong đồng bào dân tộc thiểu số là 78,7%) [66]. Ngoài ra
còn có một số tôn giáo không thuộc hệ phái chính thống khác. Vấn đề dân tộc,
tôn giáo và di dân tự do ở Lâm Đồng tạo nên nét đặc trưng riêng, đòi hỏi chủ
thể phát huy vai trò quần chúng nhân dân của tỉnh phải quán triệt và thực hiện
nghiêm túc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây dựng chủ

trương, chính sách phù hợp với đặc thù về địa lý, kinh tế, lịch sử, văn hoá để
tác động đúng nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là
đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Đặc thù về phân bố dân cư: Lâm Đồng là một tỉnh miền núi, diện tích tự
nhiên khoảng 9.772,19 km2; rừng và đất rừng chiếm 64% diện tích toàn tỉnh;
đất nông nghiệp chiếm 80%; mật độ dân cư trung bình 123 người/km2; do điều
kiện địa lý, nên dân cư phân bố không đều, tập trung chủ yếu dọc các trục lộ,
các trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn (huyện Lạc Dương 16 người/km2) [63].
Đặc điểm này liên quan trực tiếp đến công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục
quần chúng nhân dân, tổ chức và phát động phong trào quần chúng nhân dân
khó có bề rộng và chiều sâu đồng bộ.
Về trình độ kinh tế, xã hội: thế mạnh phát triển kinh tế của tỉnh Lâm
Đồng là nông, lâm nghiệp, công nghiệp hóa chủ yếu trên lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn. Nông, lâm nghiệp chiếm 49% cơ cấu kinh tế, giá trị nông
sản xuất khẩu ≈ 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Hiện nay, tỉnh đang
hình thành và phát triển một số khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khai thác
khoáng sản (Bauxít nhôm) và nông lâm sản, đặc biệt đã hình thành một số
khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, tỷ trọng công nghiệp xây dựng mới đạt 20% cơ cấu kinh tế. Lĩnh vực du lịch - dịch vụ chiếm tỷ
trọng 31% cơ cấu kinh tế, với lợi thế đặc biệt về khí hậu, rừng, cảnh quan


15
thiên nhiên và sắc thái văn hoá riêng, độc đáo của quần chúng nhân dân các
dân tộc ở tỉnh Lâm Đồng là đặc trưng thuận lợi để phát triển văn hoá du lịch.
Đây là một trong những lợi thế mở ra cơ hội, môi trường, điều kiện
thuận lợi để khai thác và sử dụng được tiềm năng đa dạng về trình độ tay
nghề, độ tuổi, giới… của quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng trong sự
nghiệp đổi mới. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng phản ánh cơ cấu
trong quần chúng nhân dân đó là phần lớn là nông dân, nông thôn; do vậy tư
tưởng manh mún, nhỏ lẻ, tính cố kết cộng đồng có những mặt còn hạn chế, dễ

bị các thế lực thù địch kích động lôi kéo, mua chuộc, nhất là đồng bào dân tộc
thiểu số. Sau hơn 25 năm đổi mới, đời sống quần chúng nhân dân đã được cải
thiện đáng kể, nhưng chưa vững chắc, còn tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo trong
đồng bào các dân tộc thiểu số, Lâm Đồng vẫn là tỉnh nghèo.
Đặc điểm về đời sống văn hoá, tâm lý: quần chúng nhân dân ở tỉnh
Lâm Đồng có những mặt tích cực như thật thà, chịu khó trong lao động sản
xuất, có tinh thần đoàn kết trong cả cộng đồng cũng như đối với từng cộng
đồng dân tộc trên địa bàn của tỉnh. Đây là những mặt thuận lợi để quần chúng
nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng bước vào xây dựng cuộc sống mới văn minh, tiến
bộ. Tuy nhiên, mặt hạn chế là đồng bào dân tộc thiểu số trình độ dân trí thấp,
còn nhiều tập tục lạc hậu, chậm đổi mới, ít sáng tạo, bảo thủ. Trình độ dân trí
vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng kinh tế mới còn thấp, một bộ phận còn
nặng tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, chưa cố gắng tự lực vươn lên. Những đặc
điểm đó là những trở ngại lớn, phản ánh tính năng động chủ quan của quần
chúng nhân dân trong việc tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất và xây dựng đời sống văn hoá mới còn hạn chế.
Tiếp nối truyền thống vẻ vang đấu tranh giải phóng quê hương, trong
sự nghiệp cách mạng mới, đặc biệt là thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước từ
năm 1986, dưới sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của đảng bộ và chính quyền


16
địa phương, quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng đã phát huy vai trò làm
chủ trong sự nghiệp đổi mới, nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát khỏi đói nghèo,
lạc hậu. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới, làm chuyển biến
mạnh mẽ tình hình kinh tế, đời sống văn hóa, xã hội ở tỉnh Lâm Đồng. Đánh
giá của Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ IX khẳng định “Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách
thức và đạt được những thành tựu quan trọng, thực hiện được mục tiêu đưa
Lâm Đồng thoát khỏi tình trạng chậm phát triển” [14, tr.43].

Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là nguồn lực to lớn trong đổi
mới, phát triển kinh tế địa phương. Con người sống, tồn tại, xã hội phát triển
thì trước hết phải có ăn, mặc, sinh hoạt... để đáp ứng những nhu cầu đó, con
người phải lao động sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất vật chất là điều kiện
cơ bản quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Hoạt động sản xuất vật
chất là hoạt động của toàn bộ xã hội chứ không phải của một cá nhân nào,
trong đó lực lượng cơ bản, đông đảo, quyết định là quần chúng nhân dân;
chính quần chúng nhân dân là nguồn lực lao động tạo ra của cải vật chất nuôi
sống con người và xã hội.
Trước khi bước vào thực hiện sự nghiệp đổi mới năm 1986, trong bối
cảnh chung của cả nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội ở tỉnh Lâm
Đồng làm cho cơ cấu kinh tế mất cân đối, hiệu quả thấp, công tác quản lý xã
hội có nhiều hạn chế, đời sống quần chúng nhân dân ngày càng khó khăn,
lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý,
điều hành của chính quyền địa phương giảm sút. Trước bối cảnh khó khăn,
phức tạp đó, Đại hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng xác định một trong
những nhân tố cơ bản để thực hiện 5 mục tiêu ổn định tình hình kinh tế, xã
hội là “phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo
ra phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng” [10, tr.42].


17
Nguồn lực to lớn mà quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng đã phát
huy sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng gồm cả vật chất và
tinh thần, trí tuệ và lao động. Bằng cơ chế, chủ trương, chính sách đúng đắn
của tỉnh Lâm Đồng, mà yếu tố suy đến cùng là giải quyết đúng đắn quan hệ
lợi ích để khơi dậy tiềm năng sáng tạo của quần chúng nhân dân tạo thành
động lực cho sự phát triển. Cơ chế mới đã tạo điều kiện thuận lợi để vai trò
quần chúng nhân dân được thể hiện sinh động trong thực tiễn sự nghiệp đổi
mới của tỉnh, đã giải phóng được sức lao động của quần chúng nhân dân, gắn

lao động với tư liệu sản xuất và thành quả lao động của chính họ. Với nguồn
lực lao động dồi dào, nhiều phong trào lao động sản xuất sáng tạo của quần
chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng đã đem lại hiệu quả thiết thực: ứng dụng
khoa học kỹ thuật, cải tiến công cụ, phương tiện, mở rộng quy mô, phương
pháp canh tác tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động sản
xuất gắn với bảo vệ bảo môi trường. Phong trào định canh, định cư, xây dựng
kinh tế vườn hộ của đồng bào dân tộc thiểu số có sự chuyển biến rõ rệt, một
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đã tiếp cận với sản xuất hàng hóa, trồng
cây công nghiệp, rau, hoa thương phẩm với kỹ thuật và thu nhập cao, đời
sống của đồng bào được cải thiện, hạn chế được tình trạng du canh, du cư,
phá rừng làm rẫy.
Từ một tỉnh thiếu đói lương thực, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đến
nay ở tỉnh Lâm Đồng đã chấm dứt được tình trạng hộ đói, giảm hộ nghèo còn
13,39% [65], thấp nhất so với các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên. Như vậy,
quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm đồng giữ vai trò là nguồn lực chủ yếu thực
hiện có hiệu quả những mục tiêu phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới
của tỉnh “Nền kinh tế tiếp tục phát triển, nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các
tỉnh miền Đông Nam bộ và so với cả nước ngày càng thu hẹp; Lâm Đồng cơ
bản thoát khỏi tỉnh nghèo, chậm phát triển” [14, tr.175].


18
Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là động lực trong tiến trình đổi
mới, xây dựng, giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị, xã hội ở địa
phương. Vai trò đó, được thể hiện ở cả việc xây dựng chủ thể quyền lực chính
trị và môi trường chính trị, xã hội của tỉnh. Sự nghiệp cách mạng giải phóng
Miền Nam thống nhất đất nước năm 1975 thắng lợi, quần chúng nhân dân ở
tỉnh Lâm Đồng giữ vai trò là chủ thể quyền lực chính trị, mọi quyền hành,
quyền lực thuộc về quần chúng nhân dân và do chính họ quyết định “Chính
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” [33, tr.698]. Quần chúng

nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng trực tiếp bầu ra hệ thống chính quyền các cấp từ
tỉnh đến xã, thay mặt cho quần chúng nhân dân trong tỉnh quản lý, điều hành
xây dựng phát triển kinh tế, giữ vững anh ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
ở địa phương. Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân
dân là một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng, hoàn thiện và tăng
cường quyền lực chính trị ở tỉnh Lâm Đồng. Trong sự nghiệp đổi mới của tỉnh
hiện nay, vai trò của quần chúng nhân dân trong việc giữ vững và nâng cao
quyền lực chính trị ở địa phương càng đặt ra yêu cầu khách quan, được thể
hiện bằng chính phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đây
vừa là quyền và nghĩa vụ của quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng trong
việc thực hiện vai trò của mình.
Chính thông qua hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân đặt ra
yêu cầu tất yếu phải đổi mới, giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị,
xã hội, tạo ra môi trường dân chủ, lành mạnh để phát triển. Tình hình chính
trị, xã hội trên địa bàn Tây Nguyên nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng luôn
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị, xã hội. Quần chúng nhân
dân là những người tích cực xây dựng, đấu tranh, khắc phục những trở ngại,
tác động tiêu cực, giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội trong tỉnh. Những
suy nghĩ sáng tạo, những cách làm hay của quần chúng nhân dân trong sự


19
nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng trong các phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo,
ổn định cuộc sống, các phong trào tự quản ở cơ sở, mà điển hình là phong
trào xây dựng nông thôn mới trên 118 xã của tỉnh đã đem lại những hiệu quả
thiết thực. Qua đó, quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng ngày càng thể
hiện đầy đủ vai trò của mình trong việc xây dựng đời sống chính trị, xã hội,
giữ gìn anh ninh chính trị ở địa phương.
Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là chủ thể kế thừa và phát huy

bản sắc văn hóa các dân tộc, xây dựng đời sống tiên tiến, hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong các cộng đồng dân cư ở địa phương. Những giá
trị văn hóa đặc sắc của các tộc người Tây Nguyên nói chung và quần chúng nhân
dân ở tỉnh Lâm Đồng nói riêng bắt nguồn từ chính cuộc sống lao động, sinh hoạt
của quần chúng nhân dân và có thể khẳng định đó là những giá trị trường tồn
trong đời sống của quần chúng nhân dân với những nét đặc sắc, phong phú như:
các hình thức sinh hoạt văn hóa, sử thi, trường ca, các làn điệu dân ca, điệu múa,
chế tác nhạc cụ dân tộc, mà tiêu biểu nhất là sử thi và cồng chiêng, đó là tiếng
nói tâm linh, tâm hồn của người Tây Nguyên, để diễn tả những niềm vui, nỗi
buồn trong cuộc sống lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng cũng chính là người lưu giữ
các giá trị văn hóa tinh thần phong phú, đặc sắc của một tỉnh trên địa bàn Tây
Nguyên. Những giá trị văn hóa tinh thần của các dân tộc trong tỉnh, tồn tại lâu
đời song hành với đời sống quần chúng nhân dân và được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, những hình thức sinh hoạt văn hóa trong các lễ hội, sử
thi, văn hóa cồng chiêng... việc xác định niên đại của nó còn đang là vấn đề
đặt ra, nhưng nó vẫn được giữ gìn và phát huy, trở thành những giá trị văn hóa
tinh thần đặc sắc trong đời sống quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng, góp
phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Kế


20
thừa, và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc, tiêu biểu ấy trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay, quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng tích cực xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần tiến bộ, lành mạnh, các hiện tượng tiêu cực,
mê tín dị đoan từng bước được ngăn chặn và đẩy lùi ra khỏi đời sống tinh
thần của quần chúng nhân dân.
Mặt khác, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân trong tỉnh với
đời sống phong phú, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ là đề tài vô tận cho
những người lao động trí óc chuyên nghiệp sáng tạo ra những giá trị văn hóa

tinh thần cho xã hội. Hồ Chí Minh đã căn dặn các văn nghệ sĩ “Chỉ có nhân dân
mới nuôi dưỡng cho những sáng tác của nhà văn bằng nguồn nhựa sống, còn
nếu nhà văn quên điều đó, nhân dân cũng sẽ quên anh ta” [34, tr. 516].
Quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là lực lượng to lớn giữ vững và
tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh, đối ngoại của địa phương. Tỉnh
Lâm Đồng có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh
của vùng chiến lược Tây Nguyên và cả nước, là một trong những địa bàn mà
các thế lực thù địch tập trung chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị ở các
tỉnh Tây Nguyên. Phát huy truyền thống cách mạng trong hai cuộc kháng
chiến, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quần
chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là lực lượng to lớn đấu tranh làm thất bại
âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài “tự do tôn giáo”,
“dân chủ”, “nhân quyền” để kích động đồng bào phá rừng, tranh chấp đất đai,
tập trung khiếu kiện đông người, vượt biên trái phép hoặc gây các “điểm
nóng” trên địa bàn, góp phần giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh.
Cùng với những hoạt động đối ngoại của các cấp ủy đảng, chính quyền
địa phương, quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động đối ngoại nhân dân. Là một địa phương có lợi thế về địa hình,


21
khí hậu, thu hút nhiều người nước ngoài đến du lịch và nghỉ dưỡng, thông qua
những hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, giao tiếp, quần chúng nhân dân
trong tỉnh đã góp phần tích cực vào công tác đối ngoại của địa phương. Mặt
khác, thông qua những mối quan hệ tộc người, gia đình, bạn bè, quần chúng
nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng đã vận động việt kiều đầu tư phát triển kinh tế, xã
hội kinh tế xã hội ở địa phương ngày càng có hiệu quả.
1.1.2. Quan niệm về phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng

Khái niệm “Phát huy” theo Từ điển tiếng Việt là “làm cho cái hay, cái
tốt, cái đúng toả tác dụng và tiếp tục phát triển thêm” [57, 1023]. “Cái hay”;
“cái tốt” là những cái vốn có, cái khả năng, cái tiềm tàng bên trong sự vật, do
khách quan vốn có của sự vật quy định. Vì vậy, phát huy là quá trình khơi
dậy, thúc đẩy làm có cho những cái hay, cái tốt vốn có tiềm tàng bên trong của
sự vật bộc lộ, lan tỏa rộng rãi trong hiện thực. Phát huy là một quá trình liên
tục từ thấp đến cao, gắn với cái hay, cái đúng, cái tốt được nảy nở và gia tăng
không ngừng, gắn liền với sự loại bỏ cái không hay, cái lỗi thời, lạc hậu.
Phát huy vai trò quần chúng nhân dân là quá trình khơi dậy, huy động,
thúc đẩy mọi tiềm năng, tính tích cực, sáng tạo của quần chúng nhân dân vào
hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của đất
nước. Phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh
Lâm Đồng là yêu cầu khách quan để phát triển, nhưng để phát huy vai trò quần
chúng nhân dân một cách đúng hướng, có hiệu quả phải nhận thức đúng đắn
những yếu tố, điều kiện khách quan chi phối về tự nhiên, kinh tế, xã hội, cơ cấu
xã hội giai cấp của tỉnh và vai trò của các nhân tố chủ quan tác động đến ý chí,
tình cảm của quần chúng nhân dân. Tính đặc thù trong thực hiện sự nghiệp đổi
mới của Lâm Đồng khác với các địa phương khác đó là: công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Lâm Đồng chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, du


22
lịch; nông, lâm nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Lâm Đồng
là một tỉnh đa thành phần dân tộc, tôn giáo, trình độ dân trí thấp, nhất là vùng
đồng bào dân tộc thiếu số; tình hình chính trị - xã hội còn có những nhân tố gây
bất ổn định. Đội ngũ cán bộ ở cơ sở cũng còn nhiều hạn chế về phương pháp
vận động, thuyết phục quần chúng… Những yếu tố khách quan, chủ quan đó
tác động trực tiếp, thường xuyên đến quá trình phát huy vai trò quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng.
Trên cơ sở cách tiếp cận về lý luận và đặc điểm đặc thù của quần chúng

nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng, tác giả đưa ra quan niệm: Phát huy vai trò quần
chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng là quá trình
chủ thể phát huy của tỉnh dùng các chủ trương, chính sách để khơi dậy, tổ
chức và huy động tiềm năng, tính năng động, sáng tạo của quần chúng
nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng.
Xét về nguồn gốc thì tiềm năng, tính động, sáng tạo là cái hay, cái tốt của
quần chúng nhân dân trong thực hiện vai trò của mình. Tiềm năng, tính năng
động, sáng tạo của quần chúng nhân dân có nguồn gốc trực tiếp là từ địa vị
kinh tế, xã hội và nhu cầu lợi ích của họ. Nguồn gốc gián tiếp là những nhân tố
tác động thuộc về lĩnh vực chính trị tinh thần như: hệ tư tưởng, văn hóa, đạo
đức, truyền thống, tâm lý dân tộc... Do vậy, mọi tiềm năng vốn có trong quần
chúng nhân dân chỉ được khơi dậy và đem lại hiệu quả trong hoạt động khi họ
nhận thức được đầy đủ vai trò của mình và lợi ích cơ bản của họ được bảo đảm
một cách đầy đủ trên thực tế. Điều đó quy định cơ chế phát huy vai trò quần
chúng nhân dân là tác động đúng và trúng nhu cầu lợi ích, làm chuyển hóa tư
tưởng, củng cố và nâng cao nhận thức, niềm tin, ý chí, qua đó làm chuyển biến
về năng lực hoạt động thực tiễn. Xét về hình thức biểu hiệu thì mọi tiềm năng
của quần chúng nhân dân được biểu hiện ra thành hành động mang tính tích
cực, chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.


23
Mục tiêu phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới ở
tỉnh Lâm Đồng là khơi dậy và huy động tối đa mọi nguồn lực của quần chúng
nhân dân để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
quần chúng nhân dân; giữ gìn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc;
giữ vững và tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Chủ thể phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới ở tỉnh Lâm Đồng, bao gồm: cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân trong tỉnh. Chủ thể

phát huy là hệ thống chính trị của tỉnh nhận thức đúng những vấn đề có tính
đặc thù của địa phương, bằng những chủ trương, biện pháp phù hợp để phát
hiện và huy động được những động lực cơ bản bên trong, thúc đẩy quần
chúng nhân dân đem hết mọi khả năng và hành động một cách tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới của tỉnh. Chủ thể quần
chúng nhân dân là lực lượng to lớn, phát huy mọi tiềm năng của mình thực
hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
Nội dung phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới ở tỉnh Lâm Đồng là quá trình phát động phong trào cách mạng quần
chúng nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân ở địa phương. Bao gồm:
Thứ nhất, phát huy tiềm năng, sức mạnh của sự đồng thuận trong quần
chúng nhân dân. Sự nghiệp đổi mới là vì dân và cũng do quần chúng nhân dân
tạo nên, bắt nguồn từ tiềm năng sáng tạo của quần chúng nhân dân. Nhưng để
biến những tiềm năng đó thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì phải
có một lực lượng xã hội to lớn, đó là sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Tiềm năng, sức sáng tạo của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ
và trở thành nguồn lực to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng khi


24
quần chúng nhân dân được tổ chức và định hướng hành động đúng đắn, tạo sự
đồng thuận cao trong quần chúng nhân dân.
Bất kỳ một địa phương nào nào muốn thực hiện nhiệm vụ cách mạng
nói chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng theo hướng phát triển tích cực, bền
vững cũng phải tạo ra sự đồng thuận xã hội. Tuỳ theo đặc điểm mà mỗi địa
phương có phương thức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân theo cách riêng
của mình, với những nét rất khác nhau, đa dạng và phong phú. Quần chúng
nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng có các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp xã

hội khác nhau, có tiếng nói, truyền thống văn hoá và nhu cầu lợi ích riêng
khác nhau, song luôn có một lợi ích chung của toàn dân tộc, của nền văn hoá
Việt Nam; đồng thời có chung lợi ích trong sự nghiệp đổi mới của tỉnh đó là:
đổi mới để phát triển vì hạnh phúc của chính quần chúng nhân dân trong tỉnh.
Đây là cơ sở quan trọng nhất của sự đoàn kết, tạo ra đồng thuận xã hội. Cơ sở
ấy được thực hiện thông qua chủ trương, chính sách của các cấp ủy đảng và
chính quyền địa phương. Chủ trương, chính sách của tỉnh là “ngọn cờ” tập
hợp lực lượng, tạo ra những điểm tương đồng và giải quyết hài hòa quan hệ
lợi ích của quần chúng nhân dân và các giai tầng khác nhau ở địa phương. Vì
vậy, xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách cho phù
hợp với thực tiễn, trình độ nhận thức, năng lực của quần chúng nhân dân, giải
quyết đúng đắn quan hệ lợi ích, quan tâm chăm lo bồi dưỡng sức dân là cơ sở
nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Thứ hai, dự báo, phát hiện, bồi dưỡng, khơi dậy và tạo ra những tiền đề,
điều kiện để mọi tiềm năng, tính sáng tạo của quần chúng nhân dân được nâng
lên một trình độ mới, bao gồm cả trí tuệ, khả năng, kinh nghiệm; cả tiềm lực
vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân trong phát triển kinh tế, xã hội,
giữ vững và tăng cường quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Để khơi dậy và huy
động mọi tiềm năng của quần chúng nhân dân thì quần chúng nhân dân phải
nhận thức được vai trò của chính họ. Mục đích là làm chuyển hóa từ nhận thức


25
đến hành động của quần chúng nhân dân, làm cho họ ý thức được đầy đủ về
quyền và nghĩa vụ của mình từ đó họ hoạt động một cách chủ động, tích cực,
sáng tạo, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn. Chỉ có thể khơi dậy
được sức mạnh và mọi nguồn lực trong quần chúng nhân dân khi các chủ thể
phát huy có dự báo đúng và tạo ra những điều kiện thuận lợi để mọi tiềm năng
trong quần chúng nhân dân được phát huy sinh động trong hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, phát huy vai trò quần chúng nhân dân là một quá trình, do đó

bên cạnh việc phát huy những ưu điểm, những mặt tích cực, phải khắc phục
những hạn chế, điều chỉnh những xu hướng lệch lạc trong nhận thức và hành
động của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là chủ thể trong hoạt
động thực tiễn thông qua các phong trào hành động cách mạng. Phong trào
hành động của quần chúng chỉ đạt được hiệu quả khi đồng thời với việc nâng
cao nhận thức, củng cố niềm tin, ý chí và bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt
động thực tiễn với việc tạo được môi trường thuận lợi cho quần chúng nhân
dân thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Vì vậy, cùng với việc khơi
dậy mọi tiềm năng, tính tích cực sáng tạo thì khắc phục những hạn chế, xu
hướng tiêu cực trong quần chúng nhân dân cũng là một nội dung phát huy vai
trò quần chúng nhân trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Cơ chế phát huy vai trò quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng là một
hệ thống các chủ trương, chính sách của chủ thể phát huy tác động đến nhu
cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân trong tỉnh, đồng thời tạo ra môi trường
chính trị - xã hội ổn định qua đó tác động tới nhận thức, niềm tin của quần
chúng nhân dân tạo ra động lực thúc đẩy quần chúng nhân dân hành động tích
cực, năng động, sáng tạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của tỉnh.
Trước hết, tác động đến nhu cầu lợi ích, mà trực tiếp là lợi ích kinh tế,
vật chất từ đó làm chuyển hóa nhận thức, tư tưởng, tạo sự đồng thuận trong
quần chúng nhân dân về sự nghiệp đổi mới. Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân. Do đó, muốn có lực lượng cách mạng, phải tập hợp


26
được lực lượng quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “phải đoàn
kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân,... phải đoàn kết tốt các đảng phái, các
đoàn thể, các nhân sỹ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác
lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ...; phải đoàn kết chặt chẽ giữa
các đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống
hòa thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc” [37, tr.605]. Sự nghiệp đổi mới ở tỉnh

Lâm Đồng trước hết phải có lực lượng đông đảo, được giác ngộ mục tiêu lý
tưởng, nhận thức và trình độ ngày được nâng cao; đồng thời phải tổ chức
chặt chẽ thành phong trào hành động cách mạng trong hoạt động thực tiễn.
Sức mạnh của quần chúng nhân dân không những không được phát huy đầy
đủ, thậm trí phản tác dụng, nếu chỉ tồn tại với tư cách là những cá nhân đơn
lẻ, rời rạc. Chỉ có thể tạo được sự đồng thuận xã hội khi trước hết quan hệ
vật chất về lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội được giải quyết đúng đắn, quần
chúng nhân dân có nhận thức đúng đắn về mục tiêu của sự nghiệp đổi mới ở
địa phương là vì họ và do chính họ quyết định.
Thứ hai, tuyên truyền, giáo dục để giác ngộ, nâng cao nhận thức của
quần chúng nhân dân ở tỉnh Lâm Đồng về vai trò của họ trong sự nghiệp đổi
mới, những tri thức, kinh nghiệm lao động sản xuất, qua đó củng cố và nâng
cao niềm tin, ý chí, tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân trong thực
hiện sự nghiệp đổi mới ở địa phương.
Thứ ba, định hướng, tổ chức hoạt động của quần chúng nhân dân thực
hiện sự nghiệp đổi mới của tỉnh. Nhận thức tư tưởng của quần chúng nhân
dân được biểu hiện thành hành động cách mạng, chất lượng và hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn. Do vậy, triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, chính sách
tạo ra cơ chế phù hợp, tổ chức thành những mục tiêu, phong trào hành động
nhằm huy động quần chúng nhân dân đem hết mọi khả năng thực hiện các
chương trình, mục tiêu kinh tế, xã hội của tỉnh.


×