Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

QUÁ TRÌNH TẬP HỢP LỰC LƯỢNG TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN QUỐC TẾ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 183 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THÚY

QUÁ TRÌNH TẬP HỢP LỰC LƯỢNG
TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN QUỐC TẾ
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Mã số: 62 22 52 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU CÁT

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Thúy


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được nghiên cứu
1.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

7
7
22

Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ
TRÌNH TẬP HỢP LỰC LƯỢNG CỦA PHONG TRÀO CỘNG
SẢN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

2.1. Những nhân tố khách quan
2.2. Những nhân tố chủ quan

24
24
38

Chương 3: THỰC TRẠNG TẬP HỢP LỰC LƯỢNG CỦA PHONG TRÀO
CỘNG SẢN QUỐC TẾ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

54

3.1. Quan điểm, mục tiêu, nội dung và phương thức tập hợp lực lượng

của phong trào cộng sản quốc tế
3.2. Một số hình thức tập hợp lực lượng tiêu biểu của phong trào

54

cộng sản quốc tế

72

Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ SỰ THAM GIA, ĐÓNG GÓP CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH TẬP
HỢP LỰC LƯỢNG TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN
QUỐC TẾ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

4.1. Một số nhận xét
4.2. Sự tham gia, đóng góp của Đảng cộng sản Việt Nam đối với
quá trình tập hợp lực lượng của phong trào cộng sản quốc tế

109
109
124

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


152
164

PHỤ LỤC

151


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CMKHCN
CNCS
CNĐQ
CNQT
CNTD
CNXH
DĐĐPCĐ
ĐCS
ĐCS - CN
ĐPT
ĐQCN
GCCN
GCTS
GCVS
HNKTQT
ICS
IMCWP
KH - CN
KH - KT
PTCN

PTCNQT
PTCSQT
PTCS-CNQT
SPF

TCH
XHCN
XH- DC

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Cách mạng khoa h c công nghệ
Chủ nghĩa cộng sản
Chủ nghĩa đế quốc
Chủ nghĩa quốc tế
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tự do
Chủ nghĩa xã hội
Diễn đàn đa phương chính đảng
Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản và công nhân
Đang phát triển
Đế quốc chủ nghĩa
Giai cấp công nhân
Giai cấp tư sản
Giai cấp vô sản
Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội thảo quốc tế các ĐCS
Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân
Khoa học công nghệ

Khoa học kỹ thuật
Nhà xuất bản
Phong trào công nhân
Phong trào công nhân quốc tế
Phong trào cộng sản quốc tế
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Diễn đàn Sao Paulô
Tư bản chủ nghĩa
Tư bản phát triển
Toàn cầu hoá
Xã hội chủ nghĩa
Xã hội - dân chủ


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Tập hợp lực lượng, đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế (CNQT) của
giai cấp công nhân (GCCN) là một trong những vấn đề lý luận hết sức cơ bản trong
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời là nguyên tắc chỉ đạo tổ chức và hoạt
động của các Đảng cộng sản (ĐCS) cũng như của toàn bộ phong trào cộng sản quốc
tế (PTCSQT). Xét về bản chất, PTCSQT là một phong trào chính trị của những người
theo con đường của chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen
sáng lập - một lực lượng cách mạng mang tính quốc tế, phấn đấu không chỉ vì sự
nghiệp giải phóng bản thân giai cấp công nhân (GCCN), mà còn tiến tới giải phóng
toàn nhân loại khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
(XHCN) và xã hội cộng sản văn minh. Do đó, vấn đề đoàn kết quốc tế, tập hợp lực
lượng, phối hợp hành động chung trong PTCSQT là một tất yếu khách quan, một
nhân tố rất quan trọng tạo nên sức sống, động lực phát triển và bảo đảm sự thắng lợi
của phong trào cũng như của cả tiến trình vận động cách mạng thế giới.

Lịch sử tồn tại và vận động của PTCSQT đã cho thấy, đoàn kết quốc tế là
một nhân tố cực kỳ quan trọng tạo nên sức sống và động lực phát triển của phong
trào, là nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng XHCN. Ý thức một cách sâu sắc
về tầm quan trọng của tình đoàn kết quốc tế và phối hợp hành động giữa các lực
lượng cộng sản ở các nước, ngay từ buổi bình minh của PTCSQT, C.Mác và Ph.
Ăngghen đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng các tổ chức quốc tế đầu tiên của
những người cộng sản: từ Đồng minh những người cộng sản (1847- 1852) đến
Quốc tế I (1864 - 1876) và sau đó là Quốc tế II (1889 - 1914). Những tổ chức quốc
tế này, về cơ bản, đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh đảm bảo sự thống nhất tư tưởng,
tập hợp lực lượng, phối hợp hoạt động giữa các chính đảng của GCCN châu

u

trong suốt nửa sau thế kỷ XIX và thập niên đầu thế kỷ XX. Kế tục sự nghiệp của
Mác và Ăngghen, tháng

19 Lênin sáng lập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản),

đánh dấu giai đoạn phát triển mới của cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN và lao
động trên toàn thế giới, là bước phát triển mới về chất của tình đoàn kết quốc tế
giữa các Đảng cộng sản - công nhân (ĐCS - CN) trên khắp thế giới.
Sau khi Quốc tế III tự giải thể, chín ĐCS - CN châu  u lập ra Cục Thông tin
quốc tế (1947-1956) như một hình thức tổ chức phối hợp tự nguyện nhằm trao đổi kinh


2
nghiệm, iều phối hoạt động giữa các đảng tham gia. Trong điều kiện lịch sử của thời
kỳ Chiến tranh lạnh khi không còn tồn tại một tổ chức quốc tế thống nhất, PTCSQT đã
sáng tạo một hình thức phối hợp và tập hợp lực lượng mới thông qua việc tổ chức hội
nghị đại biểu các ĐCS - CN. Điển hình cho hình thức hoạt động này là hội nghị quốc tế

của đại biểu các ĐCS-CN được tổ chức ở Mátxcơva vào các năm 1957, 1960, 1969.
Những năm tiếp theo, các hội nghị khu vực và các hội nghị lý luận của PTCSQT liên
tục được tiến hành: Hội nghị ĐCS các nước Mỹ Latinh - Caribê (La Habana -1975),
Hội nghị của các ĐCS - CN châu

( éclin-1976, Pari-1982), Hội nghị các ĐCS châu

(Ulan ato-1988), các hội thảo khoa học quốc tế (Xôphia-1978, éclin-1983).v.v...
Trước biến động vô cùng phức tạp của tình hình thế giới sau sự sụp đổ chế độ
XHCN ở Liên xô và Đông

u, PTCSQT bị lâm vào khủng hoảng trên mọi phương

diện. Hoạt động quốc tế cũng như việc tập hợp lực lượng của phong trào gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí có lúc bị bế tắc. Vào thời điểm này, một mặt, các lực lượng
thù địch nhân cơ hội, chớp thời cơ đẩy tới việc chống CNXH một cách quyết liệt: Phủ
nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS và cho rằng CNQT
của GCCN giờ đây chỉ còn là hoài niệm. Mặt khác, trong một số ĐCS - CN đã xuất
hiện những biểu hiện coi nhẹ, thậm chí xa rời nguyên tắc tập hợp lực lượng, đoàn kết
quốc tế của GCCN. Chủ nghĩa quốc tế của GCCN đứng trước những thử thách
nghiêm trọng. Điều đó đã ảnh hưởng và cản trở lớn đến tiến trình phục hồi, củng cố
và phát triển của phong trào. Tuy nhiên, cũng có không ít ĐCS - CN đã nỗ lực, cố
gắng tìm ra nhiều hình thức mới để tập hợp lực lượng, thống nhất quan điểm, phối
hợp hành động, tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các ĐCS - CN, tiêu biểu cho
những hình thức tập hợp lực lượng mới ấy phải kể đến cuộc gặp mặt quốc tế thường
niên giữa đại biểu các ĐCS - CN ở

en (Hy Lạp), Diễn đàn Paulô, ngoài ra còn có

Hội nghị các ĐCS - CN được tổ chức ở


clin (Đức), Nicôsia (Síp), Nêpan...các hội

thảo khoa học giữa đại biểu các ĐCS cầm quyền ở các nước XHCN và hàng loạt các
cuộc tiếp xúc trong khuôn khổ quan hệ song phương giữa các ĐCS - CN và cánh tả.
Hơn hai thập niên qua, PTCSQT với sự nỗ lực chung của các ĐS - CN đã
vượt qua giai đoạn gian khó nhất của cuộc khủng hoảng, tiếp tục trụ lại, từng bước
phục hồi và củng cố. Thành tựu đạt được của PTCSQT thời kỳ sau Chiến tranh lạnh
có sự đóng góp quan trọng của các hình thức liên hệ, phối hợp hoạt động và tập hợp
lực lượng mới giữa các ĐCS - CN. Là một bộ phận cấu thành hữu cơ của PTCSQT,


3
ĐCS Việt Nam luôn trung thành v i CNQT của GCCN, đã và đang tham gia tích
cực các hoạt động chung của phong trào.

ằng thực tiễn sinh động của công cuộc

đổi mới, ĐCS Việt Nam góp phần vào quá trình phục hồi, củng cố PTCSQT hiện
nay. Việc nghiên cứu một cách thấu đáo, hệ thống nội dung, kết quả cũng như vấn
đề đặt ra trong sự phối hợp hoạt động của PTCSQT những năm qua sẽ góp phần
không chỉ làm rõ hơn thực chất bức tranh toàn cảnh của phong trào và triển vọng
của nó, mà còn lý giải nhiều vấn đề cấp thiết trên cả phương diện lý luận cũng như
thực tiễn đặt ra trước phong trào trong khúc quanh đầy biến cố phức tạp sau Chiến
tranh lạnh. Từ đây, có cơ sở hiểu sâu sắc hơn về đường lối quốc tế đúng đắn, sáng
tạo của ĐCS Việt Nam - một yếu tố rất quan trọng đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh chung của GCCN
quốc tế trên hành trình tự giải phóng và phát triển.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Quá trình tập hợp l c lượng trong
phong trào cộng sản quốc tế từ năm


đến năm

” để viết luận án tiến sĩ lịch sử,

chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục ích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là làm rõ thực trạng quá trình tập hợp lực lượng của
PTCSQT từ năm 2001 đến năm 2014, những vấn đề đặt ra và sự tham gia, đóng góp
của ĐCS Việt Nam đối với quá trình này
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình tập hợp lực
lượng của PTCSQT từ năm 2001 đến năm 2014
- Phân tích thực trạng quá trình tập hợp lực lượng của PTCSQT từ năm 2001
đến năm 2014 bao gồm: Quan điểm, mục tiêu, nội dung, phương thức tập hợp lực
lượng, đồng thời phối hợp hoạt động tiêu biểu của PTCS từ năm 2001 đến năm
2014 và nhận xét về quá trình này
- Phân tích những vấn đề đặt ra của quá trình tập hợp lực lượng của PTCSQT
hiện nay bao gồm: Những khó khăn chủ yếu và một số yêu cầu đặt ra
- Phân tích quan điểm, thực tiễn tham gia và những đóng góp chủ yếu của ĐCS
Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn đối với quá trình tập hợp lực lượng, đoàn kết quốc
tế trong PTCSQT từ năm 2001 đến năm 2014, nhận xét và rút ra kinh nghiệm


4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT từ
năm 2001 đến năm 2014

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- V❀ n❁i dung: Luận án dành cho việc luận bàn về quá trình tập hợp lực
lượng của PTCSQT bao gồm: Quan điểm, nội dung và phương thức tập hợp lực
lượng của PTCSQT hiện nay; đồng thời luận án tập trung phân tích một số hình
thức tập hợp lực lượng tiêu biểu của PTCS từ năm 2001 đến năm 2014 (đó là gặp
mặt quốc tế tại

- hình thức tập hợp lực lượng mới của các ĐCS -CN quốc tế và

Diễn đàn Sao Paulô - một diễn đàn đa phương phối hợp hoạt động của các lực
lượng cộng sản và cánh tả trên thế giới: Để làm rõ mục tiêu, nội dung, lực lượng
tham gia, cấp độ, quy mô. Ngoài ra luận án còn nêu một số hoạt động phối hợp khác
của phong trào). Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nội dung của chương 3, chương 4
luận án phân tích những vấn đề đặt ra hiện nay và nêu những đóng góp của ĐCS
Việt Nam đối với quá trình tập hợp lực lượng của PTCSQT hiện nay
- Về không gian: Tập hợp lực lượng trong PTCSQT hiện nay là các ĐCS mở
rộng, tăng cường quan hệ, hỗ trợ, hợp tác cả song phương và đa phương với các lực
lượng cộng sản, lực lượng cảnh tả ở các nước, khu vực khác trên thế giới, thông qua
các cơ chế diễn đàn, hội nghị, hội thảo khu vực và quốc tế theo những chủ đề nhất
định với nhiều hình thức cơ động, linh hoạt. Vì vậy Khi nghiên cứu quá trình tập
hợp lực lượng trong PTCSQT ở diện rộng, lu✶n án tập trung tr❂ng điểm nghiên cứu
tập hợp lực lượng của PTCSQT hiện nay là các ĐCS mở rộng, tăng cường quan hệ,
hỗ trợ, hợp tác đa phương với các lực lượng cộng sản, lực lượng cảnh tả ở các
nước, vào một số khu vực như: châu ➶ ✁ Mỹ Latinh là chủ yếu (đó là gặp mặt quốc
tế tại ❆✂✄☎✆ hình thức tập hợp lực lượng mới của các ĐCS - CN quốc tế và Diễn đàn
Sao Paulô), ngoài ra còn một số hình thức hoạt động khác và sự tham gia đóng góp
của ĐCS Việt Nam đối với quá trình này
- Về thời gian: Luận án giới hạn sự nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2014
(Luận án giới hạn sự nghiên cứu từ năm 2001 vì là năm bắt đầu vào thế kỷ XXI và
năm 2014 là năm Hội nghị lần thứ XX Diễn đàn Sao Paulô và gặp mặt quốc tế tại

ần thứ XVI).


5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, những nhận định đánh giá của ĐCS Việt
Nam về CNQT của GCCN, về đoàn kết quốc tế, phối hợp và tập hợp lực lượng
trong PTCSQT nhất là từ Đại hội IX đến Đại hội XI. Tác giả coi đây là nguồn cung
cấp những căn cứ lý luận, khoa học và thực tiễn giúp cho việc định hướng tư tuởng
khi nghiên cứu đề tài luận án.
Mọi nhận định, đánh giá trong luận án sẽ được xây dựng trên cơ sở phân
tích, khái quát những dữ kiện thực tế, những văn kiện, tư liệu gốc được thông qua
tại các đại hội, hội nghị, các hội thảo, diễn đàn quốc tế do các ĐCS - CN tổ chức từ
những năm 90 thế kỷ XX đến nay, đồng thời luận án kế thừa một cách có chọn lọc
những kết quả của các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài luận án.
- Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận cơ bản của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; hệ thống phương pháp luận
sử học mác xít, thống nhất giữa phương pháp nghiên cứu lịch sử và lôgíc. Các phương
pháp khác như phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, đối chiếu, thống kê. v.v.., được
vận dụng thích hợp đối với việc nghiên cứu từng nội dung cụ thể để trình bày nội
dung luận án..
5. Đóng góp mới về hoa học của luận án
- Luận án trình bày có hệ thống quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT
từ năm 2001 đến năm 2014 đặt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó lường, so sánh lực lượng thế giới có phần bất lợi cho PTCSQT
hiện nay, đó là tác động từ các nhân tố khách quan (sự thay đổi tương quan lực
lượng trên thế giới, sự tác động của cách mạng khoa học - công nghệ (CMKH-CN),
toàn cầu hóa (TCH), sự điều chỉnh của


hiện đại, trào lưu xã hội - dân chủ

quốc tế) và nhân tố chủ quan (Tác động từ sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu,
Liên Xô; những hành tựu của sự nghiệp cải cách, đổi mới ở các nước XHCN hiện
nay và tác động từ quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT trước năm 2001)
- Phân tích thực trạng quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT từ năm
2001 đến năm 2014 bao gồm: Quan điểm, mục tiêu, nội dung, phương thức tập hợp
lực lượng, và một số hình thức tập hợp lực lượng tiêu biểu từ năm 2001 đến năm
2014. Qua đó rút ra nhận xét về quá trình này


6
- Trên cơ sở những cứ liệu khoa học và thực tiễn mới, luận án khẳng định vai
trò, vị trí hết sức quan trọng của tập hợp lực lượng và sự phối hợp hành động chung
giữa các ĐCS - CN trong tiến trình cách mạng thế giới vì mục tiêu giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, xây dựng xã hội mới - XHCN. Luận án chứng minh rằng,
mặc dù quá trình tập hợp lực lượng trong những năm đầu thế kỷ XXI gặp không ít
khó khăn thách thức lớn và còn nhiều hạn chế, song khuynh hướng vận động tích
cực của nó vẫn ngày càng được củng cố, tăng cường trong những năm tiếp theo của
thế kỷ XXI. Luận án cũng nêu lên những đóng góp chủ yếu của ĐCS Việt Nam đối
với đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng trong PTCSQT giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩ

oa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

- Trong điều kiện CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào và PTCSQT
đang đứng trước khó khăn thử thách lớn, luận án góp phần tìm hiểu, làm rõ thêm
quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT giai đoạn 2001- 2014. Từ đó, luận án
khẳng định hơn bất kỳ khi nào, vấn đề tập hợp lực lượng, đoàn kết quốc tế trong
giai đoạn hiện nay càng trở nên cấp bách, có ý nghĩa sinh tử đối với PTCSQT để

phong trào có thể phục hồi và tiếp tục phát triển.
- Kết quả nghiên cứu đạt được của luận án có thể đóng góp vào việc tìm hiểu
một cách cơ bản, hệ thống về quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT từ năm
2001 đến năm 2014, trên cơ sở đó thấy rõ hơn vai trò động lực, sức mạnh to lớn của
tập hợp lực lượng, đoàn kết quốc tế trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch thế giới
của GCCN. Từ đây, luận án có thể góp phần củng cố thêm niềm tin trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân đối với việc thực hiện đường lối quốc tế của Đảng ta trong
tình hình mới, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra. Đồng thời, luận án có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Lịch sử
PTCS - CNQT, công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống trường Đảng,
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện cũng như ở một số cơ sở giáo dục của
Nhà nước và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận án có kết cấu gồm 4 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU

Từ khi ch

XHCN

Liên xô và Đông Âu sụp đổ đến nay, PTCSQT nói

chung và tập hợp lực lượng trong phong trào nói riêng ở nhiều khu vực trên thế giới,

vẫn là chủ đề được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Về chủ đề này, đã
xuất hiện những bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơ quan
nghiên cứu của các ĐCS cầm quyền cũng như của các ĐCS ở các nước tư bản. Nhìn
chung, các bài viết và công trình nghiên cứu được công bố đã đề cập nhiều mặt và
khía cạnh khác nhau về tình hình PTCSQT thời kỳ sau chiến tranh lạnh, trong đó một
số tác giả đi sâu khảo sát hoạt động của phong trào tại những khu vực cụ thể. Tuy
nhiên, cho đến nay cả ở trong và ngoài nước còn ít các công trình chuyên sâu và t❖ng
hợp, phân tích và đánh giá một cách toàn diện về sự vận động và triển vọng của
PTCSQT, nhất là những chuyển biến mới của phong trào, trong đó vấn đề tập hợp
lực lượng trong PTCSQT được đề cập trên một số khía cạnh như liên minh giữa các
ĐCS với các lực lượng cánh tả, tiến bộ; những hình thức liên hệ mới của PTCSQT,
nhu cầu đoàn kết và phối hợp hoạt động giữa những người cộng sản với các lực
lượng, các phong trào chính trị - xã hội khác trong bối cảnh CMKHCN và TCH trong
những năm đầu thế kỷ XXI, tuy nhiên, cũng có những công trình nghiên cứu đã đưa
ra những nhận xét khá xác đáng về một số hoạt động của phong trào cũng như của
các ĐCS trong thời gian gần đây. Sau đây xin nêu một số công trình tiêu biểu của các
tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài đã được nghiên cứu.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng đến quá trình tập hợp lực lượng trong Phong trào cộng sản
quốc tế
Th

nhất: Những công trình nghiên cứu của các tác giả liên quan đến

nh ng nhân tố khách quan ảnh hưởng đến quá trình tập hợp lực lượng trong
PTCSQT từ năm 2001 đến năm 2014, bao gồm: Sự thay đổi tương quan lực lượng
thế giới hiện nay, CMKHCN và TCH, và sự phát triển của CNTB hiện đại và trào
lưu xã hội - dân chủ quốc tế đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều
chính trị gia trong và ngoài nước. Sau đây xin nêu một số công trình tiêu biểu như:



8
Ở nước ngoài: Có những công trình tiêu biểu: "Ch✩ ngh❘a tư b✴n tr✧✝c
ngưỡng cửa thế kỷ ❳❳✞" của Kapuctin [79] đã chỉ rõ tương lai của C

không chỉ

phụ thuộc vào quá trình công nghệ sản xuất mà phụ thuộc chủ yếu vào người lao
động, thông qua “Cuộc gặp giữa các ĐCS - CN khu vực ắc Mỹ những người cách
mạng ở khu vực này muốn khẳng định, tuy

đang tạm thời thắng thế song

những người cách mạng ở đây vẫn hướng tới tương lai CNXH; "Toàn cầu hóa với
giai cấp công nhân" của Lacôn [81] đã tổng hợp các tài liệu từ các học giả Pháp,
Mỹ và bằng những số liệu trong những năm 1995 - 1998, tác giả đã làm rõ những
thuận lợi và đặc biệt là những thách thức mà TCH đặt ra đối với GCCN ở các nước
nhất (Pháp, Đức, Italia, Mỹ) và sự tập hợp lực lượng; "Triển vọng của giai
cấp vô sản ở thế kỷ ❳❳✞" của Victor Trushkov [157] đã phân tích những tác động
của TCH, CMKHCN đến giai cấp những người lao động, qua đó, tác giả rút ra nhận
định: Trong thế kỷ XXI, giai cấp vô sản là “động lực trí tuệ và đạo đức” là “người
thực thi bước quá độ từ

lên CNXH”, tuy còn nhiều điểm phải bàn thêm,

nhưng đây là một bài phân tích khá thuyết phục với cách tiếp cận và số liệu chứng
minh cập nhật về sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thế kỷ XXI; "Cách mạng khoa
học kỹ thuật với giai cấp công nhân" của

Viễn Triệu [154] đã nhấn mạnh, trong


xã hội đương đại, khoa học - kỹ thuật (KHKT) càng phát triển lành mạnh thì càng
có lợi cho việc thực hiện quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa của GCCN, phát triển
lành mạnh KHKT và vứt bỏ sự tha hóa của KHKT là điều kiện căn bản để cuối
cùng xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập xã hội hoàn toàn mới, thực hiện triệt để giải
phóng GCCN, ngoài ra tác giả còn nhận định, thế kỷ XXI là thế kỷ KH- CN phát
triển mạnh mẽ hơn, cũng là thế kỷ các nước trên thế giới cạnh tranh và đua nhau
phát triển KH - CN; "Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chính trị quan trọng
nhất" của Maicơnhepsi [101] đã phân tích những nguyên nhân cơ bản của những
tiêu cực trong PTCN ở các nước phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ, đồng thời chỉ rõ
GCCN vẫn là giai cấp lãnh đạo phong trào có thể làm thay đổi, thậm chí lật đổ
"Chủ nghĩa Mác, ❈✟❳✠ trong thiên niên kỷ mới" của Tedgrant và
Robsewell [142] đã nêu rõ, sức mạnh của GCCN cả về số lượng và tình đoàn kết
quốc tế đang gánh trên vai định mệnh của xã hội và tương lai của nhân loại.v.v...
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình được đăng tải trong các tạp chí và trang
Website sau: "❈✟❳✠ dân chủ: ý thức hệ của giai cấp công nhân châu ✡☛" của Tào Á Hùng,


9
Trương Phượng Quyên [74]; "Nền kinh tế mới và phong trào công nhân” của Mdyates [19];
"Quan niệm mới về giai cấp những người lao động trong xã hội tư bản hiện đại" của
[162]; "Thực trạng cuộc sống của người lao động Mỹ" của Michel Parenty
[115]; "Phong trào công đoàn ở châu ☞✌ trong bối cảnh TCH" của Cố Hân, Phạm Dậu
Khánh [54]; "Cơ sở xã hội của những người cánh tả" của

[163].v.v...

Ở trong nước: Có những công trình tiêu biểu nghiên cứu về sự điều chỉnh
của CNT tác động đến GCCN và PTCS - CNQT ở các nước T


N của những tác

giả: "CNTB ngày nay: Tự điều chỉnh kinh tế" của Đỗ Lộc Diệp [15]; "Mỹ - Nhật Tây Âu đặc điểm kinh tế so sánh" của Đỗ Lộc Diệp [16]; Cùng với chương trình
nghiên cứu cấp Nhà nước về

ngày nay do Đỗ Lộc Diệp làm chủ nhiệm

(1996) có một loạt bài nghiên cứu. Đề tài đã phân tích về một số phương án, chính
sách then chốt, điển hình của Mỹ - Nhật - Tây Âu, hệ thống thần kinh của nền kinh
tế Mỹ - Đức - Nhật. Qua những công trình trên, các tác giả đã phân tích, đối chứng
và rút ra sự khác biệt giữa các nền kinh tế tại các trung tâm quyền lực TBCN. Để so
sánh hai mô hình chủ yếu của CNTB, đặc biệt về kinh tế thị trường có CNTB chống
CNTB của M.Albert; "Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25
năm tới (1996 -2020)" của Nguyễn Cơ Thạch [143] đã mang đến cái nhìn tổng quát
về thế giới trong 50 năm trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và quân sự... tác giả đã
đưa ra những nhận định sắc sảo về tình hình thế giới đến năm 2020. Với cách nhìn
nhận khoa học về những xu thế lớn trên thế giới, tác giả cũng đề xuất những khuyến
nghị cần thiết giúp Việt Nam có thể bắt nhịp được với những biến đổi nhanh chóng
của thế giới; "Một số vấn đề về tình hình thế giới sau sự kiện 11/9 và Afghanistan"
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [63]. Các giả đã tập trung phân tích
về tình hình chính, kinh tế văn hóa khoa học kỹ thuật và quân sự trên thế giới sau sự
kiện 11/9 và Afghanistan ảnh hưởng đến đời sống quan hệ quốc tế; "Góp phần nhận
thức thế giới đương đại" của Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa và Trần Hữu Tiến
[12] đã phân tích về cuộc CMKHCN và xu thế TCH rộng lớn mà nội dung chủ đạo
là TCH tư bản chủ nghĩa. Các nước đang nắm lấy vận hội mới do toàn cầu hóa đem
lại và cũng phải đối mặt với những nguy cơ to lớn do những mặt trái của TCH tạo
ra. Trong những vấn đề phức tạp đó, từ góc độ nghiên cứu của mình, các giả của tập
sách đã nêu ra những luận chứng, kiến giải khác nhau để góp phần nhận thức thế
giới đương đại; "Thế giới phẳng" của Thomas L.Friedman [40] đã làm rõ khái niệm
về “thế giới phẳng”, khẳng định tất cả chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng,



10
đồng thời đưa ra quan điểm rằng: các quốc gia trong tương quan với các chủ thể
trên thế giới hiện nay đề phải tiến hành đổi mới và hội nhập để có thể khai thác hết
những thuận lợi và hạn chế tối đa khó khăn, thách thức do thế giới phẳng gây ra nếu
không muốn trật bánh khỏi “đường ray của con tàu phát triển”; "✍✎ thế chủ yếu của
sự phát triển khoa học công nghệ, sự hình thành và vai trò của kinh tế tri thức trong
hai thập niên đầu thế kỷ ✍✍✏" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [70] đã
phân tích về cuộc CMKHCN diễn ra mạnh mẽ, đạt được nhiều kỳ tích tác động đến
tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế đương đại. Đặc
điểm nổi bật của cuộc CMKHCN hiện đại là ở chỗ khoa học, công nghệ và sản xuất
không còn là ba lĩnh vực tách rời nhau. Cách mạng khoa học công nghệ trực tiếp
hoặc gián tiếp dẫn đến những biến đổi khó lường về kinh tế - xã hội, văn hoá, tư
tưởng, lối sống và cả kiến trúc thượng tầng chính trị của xã hội. Khoa học, công
nghệ, tri thức là tài sản cả loài người không của riêng giai cấp, dân tộc nào, song
những thành tựu của CMKHCN lại do các tập đoàn tư bản lớn và các nước tư bản
phát triển chi phối. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng những thành tựu ấy để củng cố, tăng
cường địa vị thống trị của nó; "Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu
thế TCH" của Thái Văn Long [94] đã phân tích rõ những nhân tố tác động đến độc
lập dân tộc của các quốc gia đang phát triển và những đặc điểm chung của cuộc đấu
tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của các nước đang phát triển, cuốn sách cũng
phân tích cụ thể về nội dung cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của
Việt Nam trong xu thế TCH; "TCH- Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị
quốc tế và văn hóa" của Phạm Thái Việt [160] đã phân tích về khái niệm nguồn
gốc, bản chất, quá trình hình thành và phát triển cũng như những tác động của TCH
đến những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa hiện nay; "Toàn
cầu hóa và phong trào công đoàn quốc tế" của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
[153] đã cung cấp thông tin về những trải nghiệm, những đánh giá, nhận định về
những thách thức của TCH và các vấn đề công đoàn phải đối mặt giải quyết;

"Phong trào chống mặt trái của TCH và những vấn đề đặt ra với Việt Nam" của
Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp và Mai Hoài

[129] đã phân tích về

TCH, nguồn gốc ra đời, mục tiêu, tính chất, lực lượng tham gia của phong trào
chống mặt trái TCH, từ đó nêu lên thực trạng và dự báo khuynh hướng vận động
của phong trào và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, đề xuất những khuyến
nghị nhằm giúp cho Đảng và Nhà nước có phương thức tham gia phong trào này


11
một cách hiệu quả; "Trào lưu xã hội dân chủ ở các nước phương tây hiện nay và
ảnh hưởng của nó" ùi Việt Hương [78] đã nghiên cứu về: Lịch sử hình thành và
vận động của trào lưu xã hội dân chủ quốc tế từ khởi đầu đến cuối thập niên 1980;
bản chất của trào lưu xã hội dân chủ hiện đại; quan hệ giữa trào lưu xã hội dân chủ
quốc tế với PTCSQT và quan hệ của ĐCS Việt Nam đối với trào lưu xã hội dân chủ
quốc tế; "Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế TCH và vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam" của Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp [134] đã tiếp cận vấn đề bảo vệ
độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trên cơ sở phân tích những vấn đề về
lý luận và thực tiễn từ đó nhấn mạnh tính cấp thiết đặt ra đối với chủ quyền quốc gia
dân tộc trong xu thế TCH hiện nay; "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn
hiện nay" của Nguyễn Hoàng Giáp [49] đã đề cập tới những vấn đề có tính thời sự
của nền chính trị quốc tế hiện nay như: xu thế TCH, mối quan hệ giữa các nước lớn,
chống chủ nghĩa khủng bố, trật tự thế giới mới trong đó có ảnh hưởng đến PTCSQT;
"Tập bài giảng Quan hệ quốc tế" của Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế [50] đã
phân tích về thời đại ngày nay và mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, CNXH hiện
thực và vai trò của nó trong quan hệ quốc tế, CNT và sự tác động của CMKHCN
hiện đại, các nước đang phát triển và trào lưu Xã hội dân chủ quốc tế tác động đến hiện
nay PTCSQT nói chung và sự tập hợp lực lượng trong phong trào nói riêng...

Như vậy: Những công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên liên quan đến
những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT từ năm
2001 đến năm 2014, bao gồm: Sự thay đổi tương quan lực lượng thế giới hiện nay,
CMKH-CN và TCH, và sự phát triển của CN

hiện đại và trào lưu xã hội - dân chủ

quốc tế. Những nhân tố này không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động thực tiễn của
PTCS nói chung và quá trình tập hợp lực lượng trong phong trào nói riêng, mà còn
đặt ra nhiều vấn đề cấp bách trên phương diện lý luận cần phải lý giải và tháo gỡ, góp
phần soi sáng con đường đấu tranh của các ĐCS - CN trong những năm tới.
Th

hai: Nh ng công trình nghiên cứ u của các tác giả liên quan đến

nhữ ng nhân tố chủ quan quan ảnh hưởng đến quá trình tập hợp lực lượng trong
PTCSQT từ năm 2001 đến năm 2014.
Một là: Sự sụp
của sự nghiệp cải các

của chế độ XHCN ở Đông

Xô và thành tựu

i mới ở các nước XHCN có những bài viết trong hội

thảo quốc tế, đề tài, tập bài giảng, sách và các văn kiện của ĐCS trong và ngoài
nước đã nghiên cứu như sau:



12
Ở nước ngoài: "Chủ nghĩa xã hội là ❣✑✒ xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế
♥✓✔✒" của Chu Thượng Văn, Chu Cẩm uý và Trần Tích Hỷ [159] đã phân tích khái
niệm, đặc điểm ra đời, thành công, hạn chế và mô hình của CNXH hiện thực và ảnh
hưởng đến quan hệ quốc tế nói chung và tập hợp lực lượng trong PTCSQT nói riêng;
"CN✕✖ và triển vọng của nó ở các nước phát triển" của Jose Manuel Mariscal [99]
đã khẳng định

ở các nước phát triển hiện đại đang tiến hành điều chỉnh, đến

lúc hết hạn độ tự nó đi lên CNXH và từ đó ảnh hưởng đến quá trình tập hợp lực
lượng của các ĐCS ở các nước này; "CN✕✖✗ Hiện thực và triển vọng" của

tos

[137] đã phân tích đặc điểm ra đời, thành tựu, khó khăn và hạn chế của CNXH hiện
thực, sai lầm đã gây hậu quả rất tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng
như quan hệ quốc tế của CNXH hiện thực. Sự giảm sút lòng tin vào ĐCS, vào bộ
máy nhà nước diễn ra đồng thời với sự hoài nghi nhất định về chủ nghĩa Mác Lênin làm tổn thương nghiêm trọng đến hình ảnh của CNXH trong một bộ phận
nhân dân lao động ở cả trong nước và ngoài nước. Toàn bộ điều này đòi hỏi phải
được khắc phục triệt để thông qua những cải biến mang tính cách mạng, nhằm tạo
ra động lực mới cho sự phát triển của CNXH hiện thực. v.v…
Ở trong nước: "CN✕✖ ở Liên ✕ô và Đông ✘✉✱ nguyên nhân sụp đổ và bài học
kinh nghiệm" của an Tuyên giáo thành uỷ Hà Nội [10] đã phân tích rõ về mô hình
CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu và những nguyên nhân chủ quan và khách
quan dẫn đến sụp đổ và bài học kinh nghiệm cho các ĐCS trên thế giới nói chung và
các ĐCS đang cầm quyền hiện nay nói riêng, cũng như ảnh hưởng rất to lớn đến
PTCSQT hiện nay; "Những đặc điểm chủ yếu, những xu thế lớn của thế giới và triển
vọng hai thập niên đầu thế kỷ ✕✕✙" của Nguyễn Đức Bình [11] đã nêu: Sự sụp đổ của
CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu như một bi kịch lớn của nhân loại. Thế giới

sau chiến tranh lạnh, đế quốc Mỹ càng hung hăng hơn bao giời hết trong tham vọng
khống chế, chi phối trật tự toàn cầu và từ đó tác động đến xu thế lớn của thế giới hiện
nay là: Hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các
dân tộc và các quốc gia trên thế giới, các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng
nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại
và nhiều lĩnh vực khác, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường,
đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và
nền văn hoá dân tộc, các nước XHCN, các ĐCS - CN, các lực lượng cách mạng, tiến


13
bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội, các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng
tồn tại hoà bình; "Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học" của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa
học [65] đã nêu ra những luận chứng, kiến giải những kiến thức chuyên sâu về CNXH và
về thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của ĐCS Việt Nam; "Tập bài giảng Quan hệ quốc tế" của Nguyễn Hoàng Giáp,
Nguyễn Thị Quế [50] đã phân tích về CNXH hiện thực và sau một thời gian thực hiện cải
cách, cải tổ, đổi mới do nhiều nguyên nhân, nên diễn biến và kết quả của nó ở mỗi nước
XHCN không hoàn toàn giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Cùng hướng tới mục tiêu
nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, các
nước XHCN đã phát động cải tổ, cải cách và đổi mới. Vậy nhưng, cũng chính từ bước đi
cấp thiết và có ý nghĩa quyết định này đối với vận mệnh của CNXH, thì một số ĐCS lại tỏ
ra lúng túng, không tìm ra bước đi thích hợp, dao dộng hoặc xa rời những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng CNXH, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống
phá của CNĐQ. Thậm chí, một bộ phận lãnh đạo chóp bu trượt vào lập trường cơ hội phản
bội đã đưa cải tổ, cải cách lâm vào bế tắc và thất bại. Sự đổ vỡ chế độ XHCN ở Đông Âu
và Liên Xô cuối những năm 80 - đầu 90 là bằng chứng sinh động nhất khẳng định cải
cách, cải tổ, đổi mới mà xa rời nguyên tắc, mục tiêu CNXH thì chẳng những khó tránh
khỏi thất bại, mà còn tự xoá bỏ những thành quả của CNXH. Trái lại, tại một số nước

XHCN khác, do có sự vững vàng về bản lĩnh chính trị và có đường lối thích hợp, nên các
ĐCS cầm quyền đã lãnh đạo cải cách, đổi mới thắng lợi, vượt qua được thử thách khắc
nghiệt nhất bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống XHCN thế giới. Chế độ XHCN ở những
nước này không chỉ trụ vững mà còn bước phát triển mới.
Tài liệu đề cập đến vấn đề cơ bản trong đường lối của ĐCS Việt Nam về xây
dựng ✚✛✜✢ ở Việt Nam và tập hợp lực lượng trong PTCSCNQT hiện nay như: "Tài
liệu học tập lớp bồi dưỡng Bí thư cấp ủy cấp huyện" của Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh [72], "Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới" của
Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế [52]...
Hai là: Nghiên cứu về PTCSCNQT và quá trình tập hợp lực lượng trong
phong trào trước năm 2001.
Ở nước ngoài: Trước đây, các nhà nghiên cứu ở các nước XHCN, trước hết
là ở Liên Xô và Trung Quốc, luôn chú trọng nghiên cứu, tổng kết kịp thời sự phát


14
triển của PTCSCNQT, các học giả Xô viết hàng năm đã xuất bản nhiều công trình
khoa học mang tính tổng hợp, khái quát toàn diện về phong trào. Trên cơ sở những
kết quả nghiên cứu khoa học đạt được, nội dung môn “Lịch s❯ PTCS, công nhân
qu✬c tế” thường xuyên được bổ sung, cập nhật và đưa vào chương trình giảng dạy
chính thức cho sinh viên các ngành khoa học xã hội nhân văn, các trường chính trị
từ trung ương đến địa phương. Cụ thể là: "Phong trào công nhân quốc tế: Những
vấn đề lịch sử và lý luận" của .N Pônômariôp [119] đã trình bày một cách chi tiết
và hệ thống về lịch sử hình thành, phát triển của phong trào công nhân quốc tế từ
khởi đầu cho đến những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, đồng thời chỉ ra và
luận giải trên cơ sở khoa học những quy luật cơ bản trong sự vận động của phong
trào. Các tác giả cũng tập trung làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các
ĐCS - đội tiên phong của GCCN thế giới, hạt nhân lãnh đạo của PTCNQT như là
một tất yếu lịch sử trong quá trình đấu tranh tự giải phóng của GCCN. Phong trào
công nhân, dưới sự lãnh đạo của ĐCS ở các nước, nhất là ở các nước

đầu như Pháp, Đức,

PT hàng

nh, Italia và các nước tư bản khác như Tây an Nha, ồ Đào

Nha, Áo, Bỉ, Thuỵ Điển, Đan Mạch... được phân tích, đánh giá tương đối toàn diện,
sâu sắc trên cả phương diện lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Từ những kết quả
nghiên cứu của công trình khoa học nêu trên, có thể thấy rõ PTCSQT ngày nay vốn
có truyền thống đấu tranh cách mạng sôi nổi, kiên định và rất đáng trân trọng. Đồng
thời, không ít những vấn đề phức tạp trong sự vận động của PTCSQT từ trước năm
2001 liên quan đến nền tảng cơ sở giai cấp - xã hội, phương thức tập hợp lực lượng
và phương pháp đấu tranh, tính đa dạng về quan điểm chính trị và khối đoàn kết
thống nhất... có thể lý giải được một phần từ cách tiếp cận lịch sử phát triển của
phong trào. Nhân tố lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng luôn đồng hành và
tác động theo nhiều chiều tuyến khác nhau đối với sự vận động của PTCS- CNQT
trong bối cảnh của thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Đây là điều rất cần thiết phải được
tính đến khi nghiên cứu về PTCS- CNQT hiện nay.
Sau sự sụp đổ của chế độ ✣✤✥N ở Liên ✣✦ và Đông ★✪✫ thực tiễn vận động
của PTCSQT nói chung và vấn đề tập hợp lực lượng trong phong trào nói riêng, là
chủ đề được giới nghiên cứu ngoài nước quan tâm. Đã xuất hiện những bài viết,
công trình nghiên cứu bước đầu của các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu, của
các ĐCS cầm quyền cũng như chưa cầm quyền, đồng thời cũng có cả không ít


15
những bài viết và công trình mang nặng ý đồ chính trị của lực lượng chống CNXH,
liên quan đến việc đổi mới nhận thức về chủ nghĩa Mác -Lênin, về vận mệnh của
CNXH, về thành tựu và kinh nghiệm xây dựng CNXH, về thực trạng PTCS CNQT, về chủ nghĩa quốc tế và sứ mệnh lịch sử của GCCN... Trong những công
trình đó, vấn đề tập hợp lực lượng trong PTCSQT được đề cập trên một số khía

cạnh như liên minh giữa các ĐCS với các lực lượng cánh tả, tiến bộ; những hình
thức liên hệ mới của PTCSQT, nhu cầu đoàn kết và phối hợp hoạt động giữa những
người cộng sản với các lực lượng, các phong trào chính trị - xã hội khác trong bối
cảnh cách mạng KH - CN và TCH, v.v...
Các công trình, bài viết có liên quan đến đề tài luận án thường tập trung phân
tích những ảnh hưởng của cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh, những tác động
của quá trình TCH và chiến lược của các nước lớn... đối với hoạt động liên hiệp,
đoàn kết quốc tế của các ĐCS - CN cũng như đối với quá trình tập hợp lực lượng
trong PTCSQT. Một số công trình, bài viết khi lý giải sự cần thiết phải đổi mới tư
duy lý luận, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin trong tình hình mới, đã
nêu ra những đánh giá đối với CNQT của GCCN và vai trò của đoàn kết quốc tế,
liên minh giữa các lực lượng cộng sản, công nhân trên thế giới. ❅áng chú ý là
những bài viết và công trình nghiên cứu của một số học giả Trung Quốc và của các
nhà khoa học ở một số nước khác đã được dịch sang tiếng Việt, như: "Chủ nghĩa cộng
sản hôm nay và ngày mai" của Cunhan

nvanrô [4]; "✭ã hội hậu tư bản" của Peter

F.Drueker [17]; "Báo cáo của Chủ tịch Hội đồng toàn quốc Rôbe Uy" của Rôbe Uy
[135]; "Báo cáo về cuộc gặp gỡ của các ĐCS và công nhân tại Aten, Hy Lạp" của
Đối ngoại Trung ương ĐCS Việt Nam [5]... Nội dung chủ yếu của các công
trình nêu trên đã nêu rõ những thách thức của PTCSQT, phong trào XHCN thế giới
trên nhiều phương diện, trong đó phân tích khá cụ thể những khó khăn, bất cập của
việc tìm kiếm những phương thức tập hợp lực lượng giữa các ĐCS - CN với nhau
và với các lực lượng cánh tả, tiến bộ khác. Nhu cầu cấp thiết phải đổi mới phương
thức tập hợp lực lượng và đoàn kết quốc tế giữa các ĐCS và công nhân trên thế giới
cũng như ở châu Âu được phân tích khá rõ nét.
Trong số những bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
như đã kể trên, còn có những bài viết, công trình nghiên cứu mang đậm màu sắc
chính trị chống cộng như:"Đợt sóng thứ ba" của Alvin Toffler [152]; "Sự kết thúc



16
của lịch sử" của Francis FuKuyama [40]... Chịu chi phối từ góc nhìn của GCTS, các
công trình này về cơ bản phủ nhận diễn trình phát triển và những thành quả của
PTCS - CNQT nói chung, do đó cũng đưa ra những nhận định, đánh giá rất sai lệch
đối với sự phối hợp hoạt động, tập hợp lực lượng trong PTCSQT nói riêng.
Ở trong nước: Các công trình nghiên cứu về PTCSCNQT trước và sau khi
iên Xô tan rã cũng luôn được sự quan tâm nghiên cứu với qui mô và mức độ khác
nhau. Trên các ấn phẩm chuyên ngành đã xuất hiện những công trình, bài viết về nhiều
khía cạnh của PTCSQT, hoặc về hoạt động của PTCS và một số ĐCS ở các khu vực.
Chẳng hạn: "Tình hình các ✮CS Tây Âu" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
[60]; "Lực lượng cánh tả ở nhiều nước đang giành được uy tín cao" của Văn Tiến
[151]; "Quốc tế Cộng sản và vấn đề tập hợp lực lượng trong đấu tranh cách mạng”
của Trần Ngọc Linh [91]; "Thực trạng và triển vọng của PTCSQT trong giai đoạn
cách mạng hiện nay" của Phân viện Hà Nội - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh [116]; "PTCS - CNQT sau khi Liên Xô tan rã và triển vọng của phong trào
trong vài thập niên đầu thế kỷ XXI" của Đào Duy Quát [121]; "Những chuyển động
mới của PTCSQT hiện nay" của Lưu Văn

n, Nguyễn Hoàng [2]; "Những chuyển

động mới trong PTCS-CN Tây Bắc Âu thời gian gần đây" của Nguyễn Hoàng Giáp,
Nguyễn Thanh Vân [44]... Các công trình này, một mặt phân tích bối cảnh quốc tế
phức tạp thời kỳ sau chiến tranh lạnh tác động đến hoạt động của các ĐCS trên thế
giới, mặt khác bước đầu đã tập trung đánh giá một cách khái quát những khó khăn,
hạn chế của PTCS các nước trên thế giới trong thập niên 90 của thế kỷ XX.
Như vậy: Các bài viết, hội thảo và các luận án tiến sĩ nêu trên đã phân tích về
sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu, Liên Xô, cũng như những thành tựu của
sự nghiệp cải cách, đổi mới ở các nước XHCN đạt được từ năm 1991 đến năm 2000

đã tác động rất lớn đến PTCSQT và ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức, nội dung
và quá trình tập hợp lực lượng trong phong trào cộng sản quốc tế trước năm 2001.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến phương thức tập hợp
lực lượng, phối hợp hoạt động trong Phong trào cộng sản quốc tế và sự tham
gia, đóng góp của Đảng cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến nay
Ở nước ngoài: Giới nghiên cứu lý luận đặc biệt quan tâm đến quan điểm của
một số ĐCS - CN ở khu vực EU về vấn đề tập hợp lực lượng như ĐCS Anh, Pháp,
Bồ Đào Nha, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hy Lạp..., về vấn đề tập hợp lực lượng như,


17
thông qua tham luận của đại biểu các đảng này tại Diễn đàn Sao Paolô, cuộc gặp gỡ
thường niên của các ĐCS-CN ở

ten, Nicôsia,

; "Tri❃n vọng của chủ nghĩa

xã hội" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [68] đã khẳng định tính đúng
đắn đường lối đổi mới của Việt Nam; cải cách, mở cửa của Trung Quốc, coi đó là
“sự bổ sung độc đáo vào lý luận của CNXH”, là cơ sở cho sự đoàn kết tin cậy, sát
cánh bên nhau hơn nữa giữa các ĐCS - CN, không chỉ trong khu vực mà cả trên
phạm vi toàn thế giới; "Đảng đoàn Cánh tả thống nhất trong Nghị viện châu ✯✰"
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Thông tin khoa học [66] đã đề
cập vai trò của Đảng đoàn Cánh tả thống nhất trong Nghị viện châu Âu và ảnh
hưởng đến PTCS ở các nước châu Âu; "Hai chủ nghĩa một trăm năm" của Tiêu
Phong [117] đã phân tích đến sự vận động của CNTB và CNXH trong thế kỷ XX và
ảnh hưởng của hai chủ nghĩa này đến quan hệ quốc tế nói chung và PTCSQT nói
riêng; "Quan niệm về ✲✳✵✷ của một số ĐCS" của Ban Đối ngoại Trung ương [6]
đã tổng hợp lại những quan niệm của các ĐCS về con đường đi lên CNXH. Các nhà

nghiên cứu của ĐCS Trung Quốc, Cuba, Liên bang Nga, Pháp, Đức, Italia, Hy Lạp,
Nhật Bản, Mỹ trong những bài viết của mình đều nhấn mạnh sự cần thiết phải xác
lập những hình thức liên hệ, phối hợp lực lượng thích hợp của các ĐCS - CN trong
giai đoạn hiện nay, khi các thế lực đế quốc cấu kết với nhau tăng cường phản kích
các lực lượng cách mạng, chống các ĐCS, thực hiện chính sách cường quyền hiếu
chiến can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ các quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Đáng chú ý là cùng với việc đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam, nhiều
ĐCS - CN trên thế giới khẳng định những đóng góp của ĐCS Việt Nam đối với việc
củng cố tình đoàn kết trong PTCSQT hiện nay, đồng thời cũng nhấn mạnh, với
đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, ĐCS Việt Nam đã kết
hợp có hiệu quả giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với CNQT của GCCN ở
những thời điểm khó khăn nhất trong hoạt động của phong trào; Trong bài viết: "Sự
chuyển biến mang tính lịch sử về hình thái tổ chức của ĐCS ở các nước TBCN" của
Nhiếp Văn Lân [84] đã nêu rõ từ những năm 70 của thế kỷ XX, đặc biệt khi Liên
Xô, Đông Âu sụp đổ, lý luận và thực tiễn của ĐCS ở các nước tư bản có thay đổi to
lớn và sâu sắc. Sự chuyển biến về hình thái tổ chức của ĐCS là có tính lịch sử và
quan trọng nhất: từ chính đảng đội tiên phong chuyển thành chính đảng mang tính
quần chúng hiện đại.


18
Ở trong nước: PTCSQT và quá trình tập hợp lực lượng của phong trào
cũng là những vấn đề giành được sự quan tâm nghiên cứu kể từ năm 2001 đến nay.
Một là: Một số công trình, bài nghiên cứu khoa học tập trung phản ánh việc
thực hiện những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNQT của GCCN
trong tình hình mới, về sự cần thiết phải đổi mới nhận thức cũng như triển khai thực
hiện các hình thức tập hợp lực lượng vì lợi ích cấp bách trước mắt, cũng như lợi ích
cơ bản, lâu dài và mục tiêu chiến lược cuối cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội của GCCN. Một số công trình, bài viết về kinh nghiệm của một số ĐCS - CN
ở một số khu vực trong việc tập hợp lực lượng, phối hợp hoạt động quốc tế. Những

bài học về tập hợp lực lượng của PTCSQT được phân tích, đánh giá trên góc nhìn
mới với những gợi ý về khả năng vận dụng đối với phong trào hiện nay. Theo
hướng này, đáng chú ý là các bài viết và một số công trình nghiên cứu như: "Về các
xu thế và các hình thức liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng trên thế giới hiện nay chiến lược và sách lược của chúng ta” của Hoàng Thuỵ Giang [42] đã đưa ra những
nhận định về các hình thức, nội dung kiên kết, tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay
dựa trên cơ sở có sự tương đồng về lợi ích, xuất phát điểm, về địa lý, văn hoá và phong
tục, tập quán về dân tộc, tôn giáo; "Những hình thức phối hợp hoạt động của PTCSQT
từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay" của Nguyễn Hoàng Giáp [47]; "Sự phối
hợp hoạt động của các ĐCS và cánh tả trên thế giới hiện nay" của Nguyễn Hoàng
Giáp [48]; "Quá trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT từ năm 1991 đến 2005" của
Đặng Công Minh [110]; "Chủ nghĩa Mác-Lênin trong bối cảnh thế giới ngày nay"
của Trình Mưu, Nguyễn Hoàng Giáp và Nguyễn Thị Quế [112]; "Phong trào cộng
sản ở một số nước Liên minh châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh" của Nguyễn Thị
Quế [128]; "Phong trào Cộng sản quốc tế hiện nay và triển vọng" của Nguyễn
Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế [51]....
Hai là: Đoàn kết quốc tế và vấn đề phối hợp hành động chung của các ĐCSCN trong PTCSQT còn được phản ánh trên một số khía cạnh trong các luận án tiến
sĩ: "Phong trào công nhân các nước TBPT từ cuối thập niên 80 thế kỷ XX đến nay"
của Nguyễn Văn Lan [82]; "Mối quan hệ của Quốc tế cộng sản với ĐCS Việt Nam
Dưới góc nhìn khác về phương thức tập hợp lực lượng mới" của Hồ Tố Lương [98];
"Phong trào cánh tả ở Liên bang Nga từ năm 1991 đến nay và mối quan hệ với
ĐCS Việt Nam" của Nguyễn Thị Hoài Phương [119] đã phân tích khá rõ thực trạng


19
hoạt động của cánh tả Nga và quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với cánh tả Nga thời kỳ
sau chiến tranh lạnh. Đây cũng là một trong những tài liệu tham khảo quý giúp tác
giả có thêm chất liệu mới nâng cao chất lượng nghiên cứu luận án. v.v.…
Ba là: Nghiên cứu hoạt động của các ĐCS cụ thể: "Vài nét về ĐCS Mỹ" của
Mai Hoài


nh [3]; "ĐCS Hy Lạp: Truyền thống và hiện đại" của Nguyễn Ngọc

Thái [144]; "Những mốc chủ yếu trong hoạt động của ĐCS Bồ Đào Nha" của Nguyễn
Thị Quế [122]; "Về ĐCS Phần Lan hiện nay" của Nguyễn Thị Quế [123]; "Hoạt
động của ĐCS Tây Ban Nha" của Nguyễn Thị Quế [124]; "Hoạt động của ĐCS
Đức" của Nguyễn Thị Quế [125]; "ĐCS Italia: Đường lối chính trị và hoạt động
thực tiễn" của Nguyễn Thị Quế [126]; "Về hoạt động của ĐCS Bỉ" của Nguyễn Thị
Quế [127];...
Bốn là: Chủ đề đoàn kết, tập hợp lực lượng giữa các ĐCS - CN ở một số khu
vực thế giới được đề cập đến trong những bài viết trong các tạp chí của: "Quan điểm
của một số ĐCS - CN ở khu vực EU về vấn đề tập hợp lực lượng hiện nay" của Vũ
Văn Hoà, Nguyễn Thị Quế [56]; "Hoạt động của một số ĐCS - CN ở một số nước
TBPT" của Vũ Văn Hoà [57]; "Về cuộc gặp mặt quốc tế lần thứ VII đại biểu các
ĐCS - CN tại Aten 8-10/10/2004" của Vũ Văn Hoà [58]; "PTCS các nước TBPT sau
chiến tranh lạnh" của Nguyễn Văn Lan [83]; "Về xu hướng vận động của PTCS ở
các nước TBPT" của Nguyễn Hoàng [59]; "Chủ nghĩa quốc tế của GCCN trong giai
đoạn hiện nay: một số vấn đề đặt ra” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
[67]. Những công trình, bài viết trên chỉ ra những tiến triển trong việc phục hồi, củng
cố mối liên hệ giữa các ĐCS-CN, nhấn mạnh yêu cầu cảnh giác cách mạng, đấu tranh
vạch trần và làm thất bại âm mưu chống CNXH trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; đồng
thời cố gắng làm rõ đâu là mặt thuận, đâu là những khó khăn, hạn chế và bất cập trong
việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế của GCCN và các ĐCS sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở
Đông Âu, Liên Xô.
Năm là: Một trong số nội dung được các nhà nghiên cứu trong nước quan tâm
là đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị, tình đoàn kết quốc tế thuỷ chung trong
sáng của ĐCS Việt Nam với các ĐCS anh em và bè bạn quốc tế trong quá trình lãnh
đạo cách mạng gần 8 thập niên qua. Có thể thấy nội dung này qua một số công trình
nghiên cứu: "Kiên định đường lối đổi mới Việt Nam vững bước tiến vào thế kỷ XXI"
của Trần Đức Lương [97]; "Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận



20
và thực tiễn" của Nguyễn Phú Trọng [155]; "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng từ 1986 đến nay" của Tô Huy Rứa, Hoàng Ch

ảo và Trần Khắc Việt [136]...

Những bài viết, những công trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận quá trình
tập hợp lực lượng giữa các ĐCS - CN ở nhiều góc độ và với mức độ khác nhau. Tuy
nhiên, số công trình nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện, chuyên sâu về quá
trình tập hợp lực lượng trong PTCSQT từ năm 2001 đến 2014 chưa nhiều. Hơn nữa,
chủ đề này cũng chưa trở thành đối tượng nghiên cứu độc lập của một công trình
khoa học nào ở trong cũng như ngoài nước, đặc biệt trên quy mô một luận án tiến sĩ
lịch sử. Đây vừa là vấn đề lý luận cơ bản, rất quan trọng, vừa là vấn đề chính trị
thực tiễn cấp thiết đối với tất cả các ĐCS - CN, nhất là đối với Đảng ta - một ĐCS
cầm quyền đang nỗ lực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nhận thức về chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, về CNXH, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN.
Đáng chú ý, đã có không ít bài viết đề cập CNQT vô sản trong tư tưởng đoàn
kết quốc tế của Hồ Chí Minh, làm rõ sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Đảng ta
và Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam: "Tư tưởng đoàn
kết quốc tế của Hồ Chí Minh” của Phan Ngọc Liên [87]; "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế" của Lê Văn Yên [164]...
Các công trình của các tác giả trong nước, với số lượng đông đảo và nội dung
khá phong phú, đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến nhiều nội dung của đề
tài luận án.Tựu chung, có thể thấy nổi lên những hướng nghiên cứu chủ yếu sau:
Thứ nhất, đánh giá thực trạng của PTCSQT trong những năm đầu thế kỷ
XXI. Phần lớn các công trình, bài viết khi đánh giá PTCSQT thường cố gắng dựa
trên cơ sở những số liệu cụ thể về sự biến động cơ cấu tổ chức, số lượng đảng viên,
kết quả tham gia các kỳ bầu cử, các hình thức hoạt động, khả năng thâm nhập, mức

độ ảnh hưởng trong GCCN và lao động, sự điều chỉnh đường lối và cương lĩnh của
các ĐCS - CN. Do đó, kết quả đánh giá, về cơ bản, thể hiện tính khách quan và
tương đối toàn diện. Có thể thấy điều này qua các công trình, bài viết đã nêu ở trên
(tr.18, tr.19, tr.20). Các tác giả nhấn mạnh, trong những năm đầu thế kỷ XXI, xét về
nhiều mặt, PTCSQT có những bước phục hồi rõ nét, sự phát triển của các ĐCS cầm
quyền đóng góp quan trọng đối với sự hồi phục của phong trào. Tuy nhiên, những
hạn chế, yếu kém trong phương thức hoạt động, sự trì trệ về lý luận, tình trạng mâu


21
thẫn, bất đồng quan điểm trong nội bộ của không ít đảng vẫn là những nguy cơ lớn
khiến cho phong trào chưa thể vượt ra khỏi khủng hoảng kéo dài.
Thứ hai, nghiên cứu hoạt động của các ĐCS cụ thể, từ đó làm rõ quá trình
chuyển biến về các mặt của từng đảng trong bối cảnh lịch sử mới. Các công trình,
bài viết theo hướng này đã phân tích những biến đổi về chính trị, tư tưởng và tổ
chức của các đảng được nghiên cứu, cố gắng chỉ ra sự đa dạng trong nỗ lực của mỗi
đảng kiên trì tìm kiếm các biện pháp nhằm vượt qua khó khăn, thách thức để trụ lại
và từng bước củng cố trong điều kiện thoái trào của cách mạng thế giới. ởi vậy, ở
nhiều thời điểm, không ít ĐCS ở các nước

và đang phát triển bị phân hóa sâu

sắc, bế tắc về phương hướng hoạt động nhưng đại đa số vẫn trụ lại được. Có thể tìm
thấy sự lý giải khá rõ về điều này qua các bài viết.
Thứ ba, nghiên cứu phương thức phối hợp hoạt động, tập hợp lực lượng và
thực hành chủ nghĩa quốc tế của GCCN. Trên hướng nghiên cứu này, các tác giả cố
gắng luận giải sự cần thiết phải xác lập những hình thức liên hệ, phối hợp lực lượng
thích hợp của các ĐCS - CN trong giai đoạn hiện nay, khi mà các thế lực đế quốc cấu
kết với nhau, tăng cường phản kích các lực lượng cách mạng, chống các ĐCS. Mặt
khác, các tác giả cũng chỉ ra yêu cầu phải đổi mới nhận thức về nội dung, hình thức

và phương thức thực hành CNQT của GCCN trong tình hình mới. Các công trình nêu
trên cũng dành dung lượng thỏa đáng để phân tích nguyên nhân và thực trạng phối
hợp hoạt động giữa các ĐCS - CN với các đảng cánh tả hiện nay qua Diễn đàn Sao
Paolô và các cuộc gặp mặt khác giữa các ĐCS tại nhiều khu vực trên thế giới.
Thứ tư, dự báo triển vọng của PTCSQT trong những năm tới. Căn cứ thực
tế phát triển của tình hình PTCSQT và các nhân tố tác động đến phong trào, một
số công trình, bài viết bước đầu đưa ra dự báo khái quát triển vọng chung của
phong trào. Theo đó, trong những năm tới, phong trào tiếp tục xu hướng phục hồi,
nhưng sự phục hồi diễn ra không đồng đều đối với mỗi đảng và từng khu vực,
thậm chí phong trào còn có thể phải chứng kiến cả những phân liệt, đổ vỡ nhất
định. Cách nhìn nhận này cũng nhận được sự chia sẻ của một số công trình khi
nghiên cứu PTCS ở Liên minh châu Âu, ở các nước TBPT khác. Tuy nhiên, dự
báo triển vọng của phong trào là một việc không dễ dàng, cho nên hầu như các dự
báo được đưa ra đều rất khái quát hoặc còn chung chung, chưa được luận chứng
một cách thật sự toàn diện.


×