Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Đề xuất ứng dụng công nghệ Bim trong quản lý chất lượng xây dựng dự án nhà để xe Ga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 145 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Thu Huyền
Lớp: 23QLXD11
Chuyên ngành đào tạo: Quản lý xây dựng.
Đề tài nghiên cứu “Đề xuất ứng dụng công nghệ BIM trong quản lý chất lượng xây
dựng dự án nhà để xe ga quốc nội, cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất”.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, tài liệu trích
dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào trước đây

Hà Nội, ngày 8 tháng 10 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Huyền


LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và nghiên cứu, được sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình gia đình thầy
cô, bạn bè và đồng nghiệp, tác giả đã hoàn thành được luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý xây dựng với đề tài: “Đề xuất ứng dụng công nghệ BIM trong quản lý chất
lượng xây dựng dự án nhà để xe ga quốc nội, cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất”.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Hữu Huế đã trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Các kết quả đạt được trong luận văn là những đóng góp nhỏ về mặt khoa học cũng như
thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng xây dựng công trình.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn, do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những lời chỉ bảo và
góp ý của bạn bè, thầy, cô giáo và đồng nghiệp.

Hà Nội, ngày 8 tháng 10 năm 2018


Tác giả

Nguyễn Thị Thu Huyền

Mục Lục


DANH MỤC HÌNH VẼ, HÌNH ẢNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm gần đây, khi nước ta bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế, diện mạo đất
nước ngày càng không ngừng đổi mới. Đó là việc đời sống kinh tế của người dân ngày
càng được cải thiện, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển. Tất nhiên cùng với
sự phát triển và nâng cao không ngừng của các ngành nghề kinh tế, các lĩnh vực khác
của đời sống, bộ mặt đất nước ngày càng thay đổi. Đó là sự mọc lên của các công trình
công nghiệp và dân dụng nhằm đáp ứng yêu cần của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển không ngừng,
đó là sự cạnh tranh giữa các công ty trong ngành xây dựng trong nước với nhau và giữa
các công ty nước ngoài, liên doanh. Một trong những yếu tố cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong lĩnh vực xây dựng không chỉ là quy mô, tính chất công trình mà còn là chất
lượng công trình xây dựng. Đây là một nhân tố rất quan trọng, quyết định đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Bởi lẽ công trình xây
dựng có đặc điểm là nguyên chiếc, đơn nhất, cố định không thể di dời và vốn có hạn, do
đó tầm quan trọng của công tác quản lý chất lượng công trình là vô cùng to lớn. Trên
thực tế hiện nay, đã xảy ra không ít sự cố liên quan tới chất lượng công trình xây dựng

mà hậu quả của chúng là vô cùng to lớn, không thể lường hết được, gây thiệt hại không
nho cho nhà nước và xã hội. Do đó vấn đề đặt ra ở đây là công tác quản lý chất lượng
công trình xây dựng. Điều đó cho thấy chất lượng công trình, sản phẩm xây dựng cần
tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh trong mọi khâu của quá trình đầu tư xây dựng công
trình.
Ngày nay, do sự phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng nhiều công nghệ mới đã
được tạo ra và được ứng dụng vào trong ngành Xây dựng. Những công nghệ mới này
đã làm tăng năng suất lao động, cũng như tăng tính hiệu quả, chất lượng của công trình
xây dựng. Một trong những công nghệ mới này là Building Information Modeling, được
viết tắt là BIM. BIM là một công nghệ hiện đại, mới xuất hiện trong ngành công nghiệp
xây dựng. Trong quá trình xây dựng, thông tin có thể nhận được từ văn bản dự thầu, hợp
đồng, bảng báo giá và lịch trình. Với một thiết kế hoặc mô hình xây dựng chứa nhiều
thông tin được tạo ra từ công cụ nền tảng BIM, người dùng có thể mô phỏng và trực
quan đặc tính vật lý và chức năng đặc trưng của thiết kế; trao đổi thông tin dự án, lịch


trình và hợp tác với các bên liên quan; xây dựng các quy trình thông minh, nhanh chóng
hơn để thu thập thông tin và hỗ trợ chất lượng. Các dữ liệu thông minh trong công nghệ
BIM của dự án sẽ hỗ trợ bảo dưỡng và lập lộ trình, xây dựng hệ thống phân tích, quản
lý tài sản, quản lý không gian, theo dõi và quy hoạch cho phòng ngừa thảm họa, góp
phần nâng cao chất lượng công trình. Công nghệ BIM góp phần to lớn trong nâng cao
chất lượng xây dựng công trình. Tuy nhiên mô hình này mới xuất hiện và chưa được
phổ biến cần được làm rõ cụ thể. Xuất phát từ thực tế trên và sự đồng ý của khoa công
trình- trường Đại học Thủy Lợi cũng như sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của Phó giáo
sư- Tiến sĩ Nguyễn Hữu Huế, nên tôi chọn đề tài “Đề xuất ứng dụng công nghệ BIM
trong quản lý chất lượng xây dựng dự án nhà để xe ga quốc nội, cảng hàng không
quốc tế Tân Sơn Nhất” làm đề tài nghiên cứu thạc sĩ ngành quản lý xây dựng của mình.
2. Mục đích của đề tài:
Đề xuất ứng dụng công nghệ BIM trong quản lý chất lượng xây dựng công trình. Phân
tích những lợi ích và hạn chế mà mô hình BIM mang lại, góp phần nâng cao hiệu quản

lý chất lượng xây dựng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành xây dựng.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả đã dựa trên cách tiếp cận cơ sở lý luận
về khoa học quản lý xây dựng và các quy định hiện hành của hệ thống văn bản pháp luật
trong lĩnh vực nghiên cứu. Đồng thời luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu phù hợp với đối tượng và nội dung nghiên cứu của đề tài trong điều kiện thực tế tại
Việt Nam hiện nay, đó là:
- Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu;
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháo phân tích so sánh
- Một số phương pháp kết hợp khác để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề được đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu:


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Công nghệ BIM áp dụng vào dự án nhà để xe ga
quốc nội, cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất
b) Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tiến hành nghiên cứu các mặt có liên quan đến công tác quản lý chất lượng xây
dựng công trình nhà để xe ga quốc nội, cảng hàng không quốc tế Tân Sơn nhất ứng dụng
mô hình thông tin công trình BIM
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a) Ý nghĩa khoa học của đề tài:
Luận văn góp phần giới thiệu mô hình thông tin công trình BIM, một công nghệ hiện
đại, mới xuất hiện trong ngành công nghiệp xây dựng. Góp phần làm rõ tầm quan trọng
của công nghệ trong quản lý chất lượng xây dựng công trình
b) Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài làm rõ lợi ích của mô hình thông tin công trình BIM ứng dụng trong quản lý chất
lượng xây dựng công trình, giới thiệu và làm rõ tầm quam trọng của mô hình hiện đại

trong xây dựng. Các nhà quản lý, các nhà tư vấn xây dựng, doanh nghiệp có thể nghiên
cứu để rút ra các kiến thức, các biện pháp từ đề tài để có thể giúp cho quản lý chất lượng
xây dựng một cách tốt nhất, góp phần thúc đẩy kinh tế.
6. Kết quả dự kiến đạt được:
- Nghiên cứu tổng quan về quản lý chất lượng công trình xây dựng. Phân tích cơ sở khoa
học và cơ sở thực tiễn trong quản lý chất lượng công trình xây dựng
- Nghiên cứu mô hình thông tin công trình BIM, giá trị mô hình thông tin BIM mang lại
cho Việt Nam, thực trạng áp dụng mô hình thông tin BIM tại Việt Nam, đề xuất lộ trình
áp dụng BIM vào ngành xây dựng
- Nghiên cứu chi tiết ứng dụng công nghệ BIM trong quản lý chất lượng xây dựng dự
án nhà để xe ga quốc nội, cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG
TRÌNH HẠ TẦNG HÀNG KHÔNG
1.1
1.1.1.

Khái quát quản lý chất lượng công trình xây dựng
Khái niệm về chất lượng và chất lượng

1.1.1.1 Khái quát về chất lượng


Thế nào là một sản phẩm có chất lượng, đây là một đề tài luôn gây ra những tranh cãi
phức tạp. Nguyên nhân gây ra những tranh cãi này xuất phát từ nhiều quan điểm khác
nhau về chất lượng của một sản phẩm
Theo tiêu chuẩn Nhà nước Liên Xô (15467:70): ”Chất lượng sản phẩm là tổng thể những
thuộc tính của nó quy định tính thích dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu
phù hợp với công dụng của nó”, hoặc một định nghĩa khác: ”Chất lượng là một hệ thống
đặc trưng nội tại của sản phẩm, nó được xác định bằng những thông số có thể đo được
hoặc so sánh được, những thông số này lấy ngay trong sản phẩm đó hay giá trị sử dụng

của nó”. [1]
Theo quan niệm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp của một
sản phẩm/ dịch vụ với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, qui cách đã được xác
định trước chẳng hạn: ”Chất lượng là tổng hợp những tính chất đặc trưng của sản phẩm
thể hiện mức độ thỏa mãn các yêu cầu định trước của nó trong điều kiện kinh tế, xã hội
nhất định”.
Tổ chức kiểm tra chất lượng châu Âu (European Organization for Quality Control) cho
rằng: ”Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu người tiêu dùng”
Theo W.E.Deming: ”Chất lượng là mức độ dự đoán trước về tính đồng đều và có thể
tin cậy được, tại mức chi phí thấp và được thị trường chấp nhận”.
Theo A.Fêignbaum: ”Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp của sản phẩm, dịch vụ
khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được mong đợi của khách hàng”.
Những năm gần đây, một khái niệm chất lượng được thống nhất sử dụng khá rộng rãi là
định nghĩa tiêu chuẩn Quốc tế ISO 8402:1994 do Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa
(ISO) đưa ra, đã được đông đảo các Quốc gia chấp nhận (Việt Nam ban hành thành tiêu
chuẩn TCVN ISO 8402:1999): ”Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể
(đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn nhu cầu đã nêu ra hoặc
tiềm ẩn”. Thỏa mãn nhu cầu là điều quan trọng nhất trong việc đánh giá chất lượng của
bất cứ sản phẩm hoặc dịch vụ nào, chất lượng là phương diện quan trọng nhất của sức
cạnh tranh. Theo ISO 9000:2000: ”Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính
vốn có của một sản phẩm, hệ thống hoặc quá trình thỏa mãn các yêu cầu của khách


hàng và các bên có liên quan”. Yêu cầu là những nhu cầu hay mong đợi đã được
công bố, nó được ngầm hiểu chung hay bắt buộc. Các bên có liên quan bao gồm khách
hàng nội bộ, các bộ nhân viên của tổ chức, những người thường xuyên cộng tác với tổ
chức, những người cung ứng nguyên vật liệu, luật pháp...
Như vậy, chất lượng sản phẩm dù được hiểu theo nhiều cách khác nhau dựa trên những
cách tiếp cận khác nhau thì đều có một điểm chung duy nhất đó là sự phù hợp với yêu
cầu trên các phương diện như tính năng của sản phẩm và dịch vụ đi kèm, giá cả phù

hợp, thời gian, tính an toàn, độ tin cậy.
1.1.1.2 Khái quát về chất lượng công trình xây dựng
Một số những đặc điểm của sản phẩm xây dựng:
Sản phẩm xây dựng là loại sản phẩm luôn được gắn liền với địa điểm xây dựng do khách
(chủ đầu tư) chỉ định. Do vậy các hoạt động sản xuất đều phải được huy dộng và tiến
hành thực hiện ngay trên hiện trường. Điều này cho thấy việc thi công xây dựng sẽ bị
phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình tại nơi sản xuất xây dựng công trình.
Một sản phẩm xây dựng có thể được hình thành bởi nhiều các phương pháp sản xuất
phức tạp khác nhau, quá trình thi công kéo dài. Vị trí của sản phẩm xây dựng cũng
không ổn định, có tính chất lưu động cao.
Sản phẩm xây dựng có tính đơn chiếc, theo đơn đặt hàng, được người mua đặt trước và
giá của sản phẩm cũng được hình thành trước khi sản xuất. Trong quá trình sản xuất
luôn có sự giám sát chất lượng của chủ đầu tư và cũng thường có những thay đổi về mẫu
mã, hình thức cũng như chất lượng (thiết kế) của sản phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu của
Chủ đầu tư và đáp ứng được các yêu cầu thực tế đề ra.
Sản phẩm xây dựng được hình thành từ nhiều các hạng mục, tiểu hạng mục công trình
mà thành. Nhiều hạng mục sẽ bị che khuất ngay sau khi thi công xong để triển khai các
hạng mục tiếp theo. Vì thế nên việc kiểm tra, giám sát chất lượng công trình phải được
thực hiện theo trình tự phù hợp với đặc điểm của sản phẩm xây dựng.
Vì vậy, chất lượng sản phẩm xây dựng ngoài những đặc tính như: đáp ứng mong đợi
của khách hàng – chủ đầu tư, thỏa mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc còn tiềm
ẩn thì nó còn phải đáp ứng được các yêu cầu như:


Đáp ứng được các yêu cầu chất lượng hồ sơ của công trình đã quy định trong Luật Xây
dựng và các văn bản dưới luật, cũng như các qui trình qui phạm hiện hành.
Yêu cầu phù hợp với Qui hoạch xây dựng của khu vực, phù hợp với đặc điểm tự nhiên
xã hội tại địa điểm xây dựng.
Phải đảm bảo an toàn cho các công trình lân cận, đảm bảo vệ sinh tài nguyên môi
trường cho địa bàn thi công công trình.

Khái niệm về chất lượng xây dựng
Khái niệm chất lượng xây dựng đã xuất hiện từ lâu. Nhưng hiểu như thế nào là chất
lượng xây dựng lại là vấn đề không đơn giản. Chất lượng xây dựng là một phạm trù rất
rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Do tính
phức tạp đó nên hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng xây dựng.
Mỗi khái niệm có những cơ sở khoa học và nhằm giải quyết những mục tiêu, nhiệm vụ
nhất định trong thực tế.
Đứng trên góc độ khác nhau và tuỳ theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh mà
có thể đưa ra những quan niệm về chất lượng xây dựng xuất phát từ sản xuất, tiêu dùng,
hay từ đòi hỏi của thị trường.
Khái niệm chất lượng xây dựng cần phải hiểu đúng. Chỉ có thể tiến hành có hiệu quả
công tác quản lý chất lượng xây dựng khi có quan niệm đúng đắn và chính xác về chất
lượng xây dựng.Dưới đây thể hiện một số quan niêm về chất lượng xây dựng:
- Chất lượng xây dựng là sự tuyệt vời, hoàn hảo tuyệt đối của sản phẩm xây dựng. Quan
niệm này mang tính triết học, khó có thể có sản phẩm xây dựng nào đạt đến sự hoàn hảo
theo cảm nhận của con người.
- Chất lượng xây dựng được phản ánh bởi các chỉ tiêu đặc trưng của sản phẩm. Chất
lượng là cái cụ thể và có thể đo lường được thông qua các chỉ tiêu đánh giá”. Quan
niệm này đã đồng nghĩa chất lượng xây dựng với các thuộc tính hữu ích thông qua các
chỉ tiêu đánh giá. Tuy nhiên, sản phẩm xây dựng có thể có nhiều thuộc tính hữu ích tuy
nhiên không được người tiêu dùng đánh giá cao. Cách quan niệm này làm tách biệt chất
lượng khỏi nhu cầu của khách hàng và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường.


- “Chất lượng xây dựng là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn,quy chuẩn,
yêu cầu kinh tế kỹ thuật đã được đặt ra, đã được thiết kế trước”. Quan niệm có tính cụ
thể, dễ đo lường đánh giá chất lượng xây dựng và dễ xác định rõ ràng những chỉ tiêu kỹ
thuật cần đạt được cũng như các biện pháp nâng cao chất lượng qua việc giảm sai hỏng
trong xây dựng. Tuy nhiên quan niệm này quá chú trọng, thiên về kỹ thuật xây dựng
đơn thuần, chỉ phản ánh mối quan tâm đến việc đạt được những chỉ tiêu chất lượng đặt

ra, và quên mất việc đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Chất lượng xây dựng được
xem xét tách rời với nhu cầu của thị trường, do đó có thể làm sản phẩm xây dựng bị tụt
hậu không đáp ứng được sự biến động rất nhanh của nhu cầu thị trường.
- “Chất lượng xây dựng là sự phù hợp với yêu cầu” , ở đây một lần nữa cách tiếp cận
theo mối quan hệ giá trị , lợi ích được đề cập để thể hiện rằng chất lượng xây dựng là
đại lượng đo bằng tỉ số giữa lợi ích thu được từ tiêu dùng sản phẩm xây dựng với chi
phí bỏ ra để đạt được lợi ích đó.
- “Chất lượng xây dựng thể hiện qua những đặc tính của sản phẩm và dịch vụ mang
lại, tạo lợi thế cạnh tranh nhằm phân biệt nó với sản phẩm cùng loại trên thị trường”.
Quan niệm này đòi hỏi tổ chức hay doanh nghiệp luôn phải tìm tòi cải tiến và sáng tạo
để tạo ra được những đặc trưng khác biệt so với đối thủ cạnh tranh và thực hiện chiến
lược phân biệt hoá cũng như tạo giá trị gia tăng đối với sản phẩm dịch vụ nhằm thu hút
khách hàng. Tuy nhiên những điểm khác biệt này phải phù hợp với nhu cầu của người
tiêu dùng và đòi hỏi cung cấp các nguồn lực cần thiết cũng như sử dụng tối đa các nguồn
lực đó để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Quan niệm này rất phù hợp với các tổ chức và doanh
nghiệp muốn đứng vững trên thị trường. [1]
- “Chất lượng xây dựng là sự đảm bảo về độ đồng đều và độ tin cậy, với chi phí thấp
và phù hợp thị trường”. Quan niệm này thừa nhận rằng chất lượng xây dựng có nhiều
thang bậc, một sản phẩm xây dựng có thể ở mức thấp theo thang bậc này nhưng lại ở
mức cao ở thang bậc kia. Điều này rõ ràng phù hợp với quan điểm cho rằng chất lượng
là những gì khách hàng cần đến hoặc yêu cầu do khẩu vị riêng. Yêu cầu luôn luôn thay
đổi nên một phần quan trọng của công sức bỏ ra cho chất lượng cần dành để nghiên cứu
thị trường. Cách tiếp cận giá trị - lợi ích (Cost - Benefit) này, thể hiện chất lượng phải
thoả mãn nhu cầu khách hàng không thể với bất kỳ giá nào và phải được ràng buộc trong


những giới hạn chi phí nhất định. Đó cũng là hiệu quả của quản lý chất lượng tốt, tăng
cường tính cạnh tranh của sản phẩm xây dựng trên thị trường.
- Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của nguyên vật
liệu, cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các bộ phận và hạng

mục công trình.
 Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm, kiểm định

nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị mà còn ở quá trình hình thành và thực hiện
các bước công nghệ thi công, chất lượng các công việc của đội ngũ công nhân, kỹ sư lao
động trong quá trình thực hiện hoạt động xây dựng.
 Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác, sử dụng đối với người thụ hưởng

công trình mà cả trong giai đoạn thi công xây dựng đối với đội ngũ công nhân, kỹ sư
xây dựng,…
 Vấn đề môi trường cần được chú ý không chỉ từ gốc độ tác động của dự án tới các

yếu tố môi trường mà còn cả các tác động theo chiều ngược lại, tức là tác động của các
yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.
Theo quy định của Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2015 của Chính
phủ quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng và Nghị định số 37/2015/NĐCP ngày 22 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết về Hợp đồng xây dựng
thì chất lượng công trình xây dựng được hiểu là mức độ đáp ứng những yêu cầu về an
toàn, bền vững, kỹ thuật và mỹ thuật của công trình phù hợp với quy chuẩn xây dựng,
các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và hợp đồng kinh tế.
Như vậy khái niệm về chất lượng công trình xây dựng có thể được hiểu: ”Chất lượng
công trình xây dựng là những yêu cầu về an toàn, bền vững, kỹ thuật và mỹ thuật của
công trình phù hợp với Quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng, các quy định trong văn bản
Quy phạm pháp luật có liên quan và hợp đồng giao nhận thầu xây dựng”.

Chất lượng công
trình xây dựng =

An toàn
Bền vững
Kỹ thuật +

Mỹ thuật

Quy chuẩn
Tiêu chuẩn
Quy phạm PL
Hợp đồng


Hình 1.1: Các yếu tố tạo nên chất lượng công trình [1]
1.1.2. Quản lý chất lượng

Cùng với quá trình phát triển của chất lượng thì các quan niệm về quản trị chất lượng
ngày càng được thể hiện hoàn thiện, thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp,
phức tạp của vấn đề và phản ánh sự thích hợp với điều kiện và môi trường kinh doanh
mới.
Xét một cách chung nhất một quan điểm đúng đắn về quản lý chất lượng phải trả lời
được 4 vấn đề sau:
 Quản lý chất lượng nhằm mục đích gì?
 Quản lý chất lượng bằng những biện pháp nào?
 Quản lý chất lượng thực hiện ở những giai đoạn nào?
 Quản lý chất lượng đưa lại hiệu quả ra sao.
Mục tiêu lớn nhất của quản lý chất lượng là: Bảo đảm chất lượng của đồ án thiết kế sản
phẩm và tuân thủ nghiêm đồ án ấy trong sản xuất, tiêu dùng sao cho tạo ra những sản
phẩm thoả mãn nhu cầu của xã hội, thoả mãn thị trường với chi phí xã hội tối thiểu.
Để đạt được mục tiêu trên nhiều tác giả đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về quản
lý chất lượng.
A.V.Fêigenbaun, Nhà khoa học người Mỹ lại định nghĩa rằng: “Quản trị chất lượng là
một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong tổ
chức chịu trách nhiệm triển khai các tham số chất lượng, duy trì mức chất lượng đã đạt
được và nâng cao nó để thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng ”.

A.G. Robertson, một chuyên gia người Anh cho rằng: “Quản trị chất lượng là ứng dụng
các phương pháp, thủ tục, kiến thức khoa học và kỹ thuật bảo đảm cho các sản phẩm sẽ
hoặc đang sản xuất phù hợp với yêu cầu thiết kế, hoặc yêu cầu trong hợp đồng kinh tế
bằng con dường hiệu quả nhất, kinh tế nhất”. Ông ta còn cho rằng: “Quản trị chất lượng
được xác định như là một hệ thống quản trị nhằm xây dựng chương trình, sự phối hợp
các cố gắng của những đơn vị khác nhau để duy trì và tăng cường chất lượng trong các


tổ chức thiết kế sản xuất sao cho đảm bảo nền sản xuất có hiệu quả nhất và đồng thời
cho phép thoả mãn đầy đủ các yêu cầu người tiêu dùng”.
Giáo sư tiến sĩ Kaoru Ishikawa, một chuyên gia của Nhật về quản lý chất lượng, cho
rằng: “Quản trị chất lượng có nghĩa là nghiên cứu triển khai, thiết kế sản xuất và bảo
dưỡng một sản phẩm có chất lượng, kinh tế nhất, có ích nhất cho người tiêu dùng và
bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng ”[2]
Trong các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật (JIS) có định nghĩa về quản lý chất lượng như
sau: “Hệ thống các phương pháp sản xuất tạo điều kiện sản xuất tiết kiệm những hàng
hoá có chất lượng cao hoặc đưa ra những dịch vụ có chất lượng thoả mãn những yêu
cầu của người tiêu dùng .”
Định nghĩa của Philip B.Crosby: “ Quản trị chất lượng là một phương tiện có tính chất
hệ thống đảm bảo việc tôn trọng tổng thể tất cả các thành phần của một kế hoạch hành
động”
Theo ISO_ 9000: “Quản trị chất lượng là các phương pháp hoạt động được sử dụng
nhằm đáp ứng những yêu cầu về chất lượng ”
Mặc dù còn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau song ta có thể khái quát hoá bằng một
hệ thống các hoạt động, các biện pháp, quy định hành chính - xã hội - kinh tế - kỹ thuật
dựa trên các thành tựu của khoa học hiện đại, nhằm sử dụng tối ưu những tiềm năng để
đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của
xã hội với chi phí nhỏ nhất”

Trong định nghĩa trên ta thấy có thể nhấn mạnh đến mấy vấn đề sau:

- Quản lý chất lượng là một hệ thống các hoạt động, biện pháp và các quy định cụ thể
quan tâm đến chất lượng, phòng ngừa các sai sót , kích thích tất cả mọi người tham gia.
Dù các biện pháp và các quy định có cụ thể bao nhiêu, chính xác bao nhiêu thì vẫn vô
hiệu nếu người sản xuất và người tiêu dùng không có ý thức tuân thủ. Vậy quản lý chất
lượng là trách nhiệm của mọi thành viên của xã hội, chỉ khi nào con người cảm thấy


rằng mình và chính mình có trách nhiệm về chất lượng sản phẩm thì lúc đó mới làm
công tác quản trị chất lượng được. Quản lý chất lượng là trách nhiệm của tất cả các cấp
nhưng phải được lãnh đạo cấp cao nhất chỉ đạo.
- Quản lý chất lượng phải được thực hiện trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm, từ thiết
kế, chế tạo đến sử dụng sản phẩm. Trách nhiệm của người sản xuất không chỉ dừng lại
ở khâu bán sản phẩm mà họ còn có trách nhiệm và không kém phần quan trọng, với
khâu sử dụng sản phẩm.
1.1.3. Mục tiêu, vai trò của quản lý chất lượng

1.1.3.1.

Mục tiêu quản lý chất lượng

Ngày nay, hầu hết các tổ chức hay cơ quan dịch vụ đều nhận thức được tầm quan trọng
của chất lượng trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Quản lý chất lượng giúp
cung cấp những công cụ và định hướng cho việc nâng cao chất lượng. Nhằm đạt được
sự phát triển của tổ chức trên cơ sở năng suất - chất lượng - hiệu quả. Vì vậy việc xây
dựng một hệ thống quản lý chất lượng cũng như áp dụng và vận hành hệ thống đó phải
đạt được hiệu quả của tổ chức với các mục tiêu đề ra trong một thời gian nhất định. Hiệu
quả của tổ chức là phải xét ở hiệu quả chung chứ không phải chỉ xét riêng một mặt nào.
Hiệu quả chung của tổ chức là phải thể hiện được mục tiêu chất lượng sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ ngày càng thoả mãn khách hàng, hoạt động phát triển, mở rộng được thị
trường, đóng góp với nhà nước, xã hội nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người

lao động , sản xuất gắn với bảo vệ môi trường và thực hiện một sự phát triển bền vững.
1.1.3.2.

Vai trò quản lý chất lượng

Cho phép doanh nghiệp xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích hợp với những
mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích và giá cả.
Sản xuất là khâu quan trọng tạo thêm giá trị gia tăng của sản phẩm hoặc dịch vụ do đó
nếu như việc quản lý chất lượng sản phẩm tốt sẽ tạo ra những sản phẩm có lợi cho người
dùng và giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao.
Về phía doanh nghiệp: do tính chất của doanh nghiệp và cơ quan Nhà Nước khác nhau
cho nên việc quản trị chất lượng sản phẩm cũng nhằm mục tiêu khác nhau. Đối với mục


tiêu sàng lọc các sản phẩm không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu, chất lượng
kém ra khỏi các sản phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ
có sản phẩm đảm bảo yêu cầu đến tay khách hàng.
Về phía Nhà Nước: Việc quản lý chất lượng là nhằm đảm bảo chất lượng hàng hóa,
hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
và lao động.
Tăng cường quản lý chất lượng giúp cho việc xác định đầu tư đúng hướng, khai thác
quản lý sử dụng công nghệ, con người có hiệu quả hơn. Đây là nguyên nhân vì sao quản
lý chất lượng được đề cao trong những năm gần đây. Như vậy, về mặt chất hay lượng
việc bỏ ra những chi phí ban đầu để đảm bảo chất lượng sản phẩm sẽ giúp tổ chức, doanh
nghiệp giảm thiểu rủi ro về sau và hoạt động có hiệu quả hơn.
1.1.4. Nguyên tắc của quản lý chất lượng
* Tiến trình phát triển của hoạt động quản lý chất lượng
Sự phát triển của hoạt động quản lý chất lượng đã trải qua 4 giai đoạn chính, từ kiểm tra
chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng, đến quản lý chất lượng toàn diện

(TQM).

Kiểm tra chất lượng là hoạt động do một đội ngũ nhân viên chuyên trách đảm nhận
nhằm so sánh sản phẩm được sản xuất ra với sản phẩm tiêu chuẩn. Mục đích của hoạt
động này là phát hiện những sản phẩm không đạt các yêu cầu chất lượng đã được xác
định bởi cơ quan, tổ chức hay công ty.Kiểm soát chất lượng là giai đoạn “tiến hoá” tiếp
theo của quản lý chất lượng, nó được phổ biến trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần II.
Việc kiểm soát chất lượng tập trung vào công đoạn thiết lập các quy trình sản xuất, các
thủ tục liên quan cho mỗi quy trình, sử dụng các phương pháp thống kê, đo lường chất
lượng sản phẩm. Các hoạt động được thực hiện để kịp thời phát hiện ra sai sót trong các
quy trình sản xuất, đảm bảo sản phẩm kém chất lượng không được phân phối ra thị
trường.


Đảm bảo chất lượng là hình thức phát triển cao hơn, đi từ chất lượng sản phẩm đến chất
lượng hệ thống. Hệ thống này bao gồm việc xây dựng cẩm nang chất lượng, lập kế hoạch
về chất lượng, áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng, và xây dựng quy trình đảm bảo chất
lượng...
TQM hiện được coi là hình thức “tiến hoá” cao nhất của quản lý chất lượng, được định
nghĩa là những hoạt động quản lý có sự tham gia tích cực của tất cả các nhân viên của
một cơ quan hay tổ chức trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức đó nhằm đạt được
chất lượng với chi phí thấp nhất. Trong giai đoạn phát triển này, chất lượng cần không
ngừng cải tiến, nâng cao dựa trên những nguyên tắc cơ bản như định hướng khách hàng,
huấn luyện nhân viên về quản lý chất lượng, khả năng lãnh đạo của người quản lý, xây
dựng kế hoạch và chiến lược, quản lý quy trình hoạt động, đánh giá chất lượng hoạt
động.
* Những nguyên tắc chính của quản lý chất lượng
Hoạt động quản lý chất lượng bao gồm: sự lãnh đạo, lập kế hoạch, định hướng bởi khách
hàng, quản lý nguồn nhân lực, quản lý quy trình hoạt động, và đánh giá hoạt động.
Sự lãnh đạo là khả năng ảnh hưởng tích cực đến con người và hệ thống nhằm tạo ra một

ảnh hưởng tích cực hay đạt được kết quả quan trọng (Evans & Lindsay, 2008, tr. 212).
Một người lãnh đạo hiệu quả cần tạo ra, duy trì môi trường nội bộ trong cơ quan, lôi
cuốn mọi người vào việc đạt được các mục tiêu chất lượng của cơ quan. Người lãnh đạo
cũng cần phải có tầm nhìn, xác định những mục tiêu trước mắt, lâu dài cần đạt được,
và sử dụng những phương pháp phù hợp để đạt được các mục tiêu đó.
Lập kế hoạch là việc xác lập những định hướng nền tảng cho việc phát triển của cơ quantổ chức. Định hướng bởi khách hàng được xem như nguyên tắc cơ bản, trong đó chất
lượng được xây dựng theo nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, mỗi tổ chức cần nghiên cứu
nhu cầu của khách hàng và xác định những nhóm khách hàng khác nhau, thiết kế các
dịch vụ và sản phẩm phù hợp cho từng nhóm.
Quản lý nguồn nhân lực được xem như một nguyên tắc quan trọng trong quản lý chất
lượng. Một tổ chức cần xây dựng và thực hiện những chính sách phù hợp đối với nhân


viên về tuyển dụng, khen thưởng, huấn luyện và đào tạo nhằm khuyến khích họ tham
gia vào hoạt động quản lý chất lượng, biến những mục tiêu chất lượng của tổ chức thành
các kết quả thực tiễn.
Quản lý quy trình là một nguyên tắc chìa khoá, bao gồm tất cả các hoạt động mà một tổ
chức tiến hành nhằm mang lại những giá trị cho khách hàng qua các sản phẩm và dịch
vụ. Để có thể quản lý quy trình, các tổ chức trước hết cần xây dựng những sổ tay chất
lượng nhằm chỉ dẫn mọi hoạt động và thao tác cho các quy trình khác nhau. Các quy
trình này cần được điều chỉnh, cải tiến khi cần thiết để phù hợp với sự phát triển và ứng
dụng khoa học và kỹ thuật trong tổ chức.
Đánh giá các hoạt động là một hoạt động hệ thống nhằm xác định hiệu quả và hiệu suất
của một tổ chức trong mối tương quan với các tiêu chuẩn hay tiêu chí chất lượng đã xác
định hoặc các mục tiêu chất lượng đã đề ra. Vì vậy, bước đầu tiên là một tổ chức cần
lựa chọn hoặc xây dựng khung tiêu chuẩn về chất lượng, tiếp đó là sử dụng những
phương pháp và công cụ phù hợp để tiến hành đánh giá. Các số liệu và thông tin thu
thập được cần được phân tích để phục vụ cho việc ra quyết định và cải tiến cũng như
nâng cao chất lượng.


1.1.5. Quản lý chất lượng công trình xây dựng
Quản lý chất lượng công trình xây dựng là một chuỗi các công việc và hành động được
hệ thống nhằm hướng dẫn, theo dõi và kiểm soát công trình xây dựng để mang tới hiệu
quả tốt nhất cho chất lượng công trình xây dựng.

CÔNG TÁC

CÔNG TÁC

CÔNG TÁC

QUẢN LÝ

QUẢN LÝ

QUẢN LÝ

CÔNG TÁC

CHẤT LƯỢNG

CHẤT

CHẤT

BẢO HÀNH

KHẢO SÁT

LƯỢNG


LƯỢNG THI

THIẾT KẾ

CÔNG

XÂY DỰNG

XÂY NĐ
DỰNG
XÂY DỰNG
Hình 1.2: Quy trình QLCLCTXD theo
46/2015/NĐ-CP
ngày 12/05/2015 [4]


Rộng hơn chất lượng công trình xây dựng không chỉ từ gốc độ của bản thân sản phẩm
và người hưởng thụ sản phẩm xây dựng mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm
xây dựng đó với các vấn đề liên quan khác. Một số vấn đề cơ bản là:
Hiện nay đang tồn tại các quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng xây dựng:
- Theo GOST 15467-70: Quản lý chất lượng xây dựng là đảm bảo và duy trì mức chất
lượng tất yếu của sản phẩm xây dựng khi quy hoạch, thiết kế và thi công và vận hành
khai thác. Điều này được thực hiện bằng cách kiểm tra chất lượng có hệ thống, cũng
như tác động tới các nhán tố chất lượng, chi phí. [3]
- Theo A.G.Robertson, một chuyên gia người Anh về chất lượng cho rằng: Quản lý chất
lượng xây dựng được xác định như là một hệ thống quản trị nhằm xây dựng chương
trình và sự phối hợp của những đơn vị khác nhau để duy trì và tăng cường chất lượng
xây dựng trong các tổ chức quản lý, quy hoạch, thiết kế, thi công, vận hành khai thác...
sao cho đảm bảo có hiệu quả nhất, thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của người tiêu dùng.

- Theo Philip Crosby, một chuyên gia người Mỹ về chất lượng định nghĩa quản lý chất
lượng: Là một phương tiện có tính chất hệ thống đảm bảo việc triển khai tất cả các thành
phần của một kế hoạch chất lượng.
- Theo các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản (JIS) xác định: Quản lý chất lượng xây
dựng là hệ thống các phương pháp tạo nên sản phẩm xây dựng có chất lượng cao thỏa
mãn yêu cầu của người tiêu dùng.
- Theo giáo sư, tiến sĩ Kaoru Ishikawa, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực quản lý
chất lượng của Nhật Bản đưa ra: Quản lý chất lượng có nghĩa là nghiên cứu triển khai,
thiết kế, thi công và bảo trì công trình có chất lượng, kinh tế nhất, thỏa mãn nhu cầu
của người tiêu dùng.
- Theo tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 cho rằng: Quản lý chất lượng xây dựng
là một hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm mục đích đề ra chính sách, mục
tiêu, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng,
kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một
hệ thống chất lượng.


Như vậy, tuy còn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý chất lượng xây dựng,
song nhìn chung chúng có những điểm giống nhau như:
- Mục tiêu trực tiếp của quản lý chất lượng là đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng
phù hợp với nhu cầu thị trường với chi phí hợp lí.
- Thực chất của quản lý chất lượng đó là tổng hợp các hoạt động của chức năng quản
lý như: hoạch định, tổ chức, kiểm soát và điều chỉnh. Nói cách khác, quản lý chất lượng
gắn liền với chất lượng của quản lý.
- Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động, các biện pháp (hành chính, tổ chức,
kinh tế, kỹ thuật, xã hội). Quản lý chất lượng là nhiệm vụ của tất cả mọi người, mọi
thành viên trong xã hội, trong doanh nghiệp, và là trách nhiệm của tất cả các cấp.
Một số thuật ngữ trong quản lý chất lượng xây dựng được hiểu như sau:
”Chính sách chất lượng” là định hướng về chất lượng do nhà nước hoặc doanh nghiệp
công bố


”Hoạch định chất lượng” là các hoạt động nhằm thiết lập các mục tiêu và yêu cầu đối
với chất lượng để thực hiện các yếu tố của hệ thống chất lượng.
”Kiểm soát chất lượng” là các kỹ thuật và các hoạt động tác nghiệp được sử dụng để
thực hiện các yêu cầu của chất lượng.
”Đảm bảo chất lượng” là mọi hoạt động có kế hoạch và có hệ thống chất lượng được
khẳng định để đem lại lòng tin thỏa mãn các yêu cầu với chất lượng.
”Hệ thống chất lượng” là bao gồm cơ cấu tổ chức, thủ tục, quá trình và nguồn lực cần
thiết để thực hiện công tác quản lý chất lượng.
Khái niệm về quản lý chất lượng sản phẩm xây dựng:
Theo quy định tại Nghị định số 46/2015/NĐ-CP thì Quản lý chất lượng công trình xây
dựng là hoạt động quản lý của các chủ thể tham gia các hoạt động xây dựng theo quy
định của Nghị định này và pháp luật khác có liên quan trong quá trình chuẩn bị, thực


hiện đầu tư xây dựng công trình và khai thác, sử dụng công trình nhằm đảm bảo các yêu
cầu về chất lượng cũng như an toàn của công trình.
1.2.

Các chức năng cơ bản của quản lý chất lượng

Mỗi sản phẩmxây dựng đều cấu thành bởi rất nhiều các thuộc tính có giá trị sử dụng
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Các thuộc tính này phản ánh mức độ
chất lượng đạt được của sản phẩm đó. Mỗi thuộc tính chất lượng của sản phẩm xây dựng
thể hiện thông qua một tập hợp các thông số kinh tế - kỹ thuật phản ánh khả năng đáp
ứng nhu cầu của những người tiêu dùng. Các thuộc tính này có quan hệ chặt chẽ với
nhau tạo ra một mức độ chất lượng nhất định của sản phẩm. Đối với những nhóm sản
phẩm khác nhau, những yêu cầu về các thuộc tính chất lượng cũng khác nhau. Tuy
nhiên, những thuộc tính chung nhất phản ánh chất lượng xây dựng gồm:
- Các thuộc tính kỹ thuật: Nhóm thuộc tính này phản ánh công dụng, chức năng của

chất lượng xây dựng, được qui định bởi các chỉ tiêu kết cấu , thành phần cấu tạo và đặc
tính về cơ, lý, hóa của vật liệu sử dụng. Các yếu tố này được thiết kế theo những tổ hợp
khác nhau đảm bảo độ bền lâu và hiệu quả sử dụng sản phẩm xây dựng.
- Các yếu tố thẩm mỹ: Nhóm thuộc tính này phản ánh đặc trưng về sự truyền cảm, sự
hợp lý về hình thức, dáng vẻ, kết cấu, kích thước, sự hoàn thiện, cân đối, màu sắc trang
trí và tính hiện đại.
- Tuổi thọ công trình: Đây là yếu tố đặc trưng cho chất lượng xây dựng giữ được khả
năng làm việc bình thường theo như tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian nhất định
trên cơ sở bảo đảm đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ bảo
dưỡng quy định. Tuổi thọ là một yếu tố quan trọng trong quyết định lựa chọn của người
tiêu dùng.
- Độ tin cậy : Độ tin cậy được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất phản ánh
chất lượng xây dựng và đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng duy trì và phát triển thị
trường của mình.


- Độ an toàn : Những chỉ tiêu an toàn trong sử dụng, vận hành , an toàn đối với sức khoẻ
người tiêu dùng và môi trường là yếu tố tất yếu, bắt buộc phải có đối với chất lượng xây
dựng.

- Mức độ gây ô nhiễm : Cũng giống như độ an toàn, mức độ gây ô nhiễm được coi là
một yêu cầu bắt buộc phải tuân thủ đối với chất lượng xây dựng.
- Tính tiện dụng : Phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, bảo quản,
dễ sử dụng và khả năng thay thế khi có những bộ phận bị hỏng.
- Tính kinh tế : Đây là yếu tố rất quan trọng đối với chất lượng xây dựng, khi sử dụng
có tiêu hao nguyên liệu, năng lượng. Tiết kiệm nguyên liệu và năng lượng sử dụng trong
xây dựng trở thành một trong những yếu tố quan trọng phản ánh chất lượng xây dựng
và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Do vậy Quản lý chất lượng công trình xây dựng là một nhiệm vụ rất quan trọng trong việc quản
lý đầu tư xây dựng cơ bản. Thực hiện tốt công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng sẽ

góp phần lớn trong phòng tránh những lãng phí, thất thoát trong quá trình xây dựng và làm tăng
tuổi thọ công trình và tăng hiệu quả vốn đầu tư xây dựng công trình.h [6] 13

14
1.3.

Các phương thức quản lý chất lượng xây dựng

Chúng ta phải đổi mới nhận thức về quản lý chất lượng công trình xây dựng là rất quan
trọng. Chúng ta phải nhìn nhận nó trên hai khía cạnh:
Tư tưởng
Thay thế cơ chế thanh tra để phát hiện chất lượng kém sang cơ chế ngăn ngừa không để
xảy ra chất lượng kém trong công trình xây dựng.
Nội dung
- Xác định rõ vai trò quản lý Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng.
- Kiểm soát chất lượng công tác thiết kế và chi phí.


- Kiểm soát chất lượng vật liệu, chế phẩm và thiết bị.
- Giám sát biện pháp tổ chức thi công và chất lượng thi công.
- Nghiệm thu đánh giá chất lượng trước khi đưa vào sử dụng. áp đặt chế độ bảo hành và
chế tài đối với Nhà thầu xây dựng.
Theo Luật Xây dựng và Nghị định 209/2004/NĐ-CP của Chính phủ về Về quản lý chất
lượng công trình xây dựng, vị trí và vai trò của quản lý Nhà nước về CLCTXD được
khẳng định:
Bộ Xây dựng thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng trong
phạm vi cả nước. Các Bộ có quản lý công trình xây dựng chuyên ngành phối hợp với
Bộ Xây dựng trong việc quản lý chất lượng các công trình xây dựng chuyên ngành.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo phân cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng
công trình xây dựng trong phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý.

Như vậy bộ máy quản lý Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng là hệ thống các
cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, tổ chức và hoạt động theo những
nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ có mối quan hệ qua lại chặt
chẽ với nhau để thực hiện nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước. Mỗi cơ quan Nhà nước
là một khâu (mắt xích) không thể thiếu được của bộ máy Nhà nước. Năng lực quản lý
Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng tuỳ thuộc vào hiệu lực hiệu quả của từng
cơ quan Nhà nước này.
1.3.1 Đổi mới nội dung và cách thức quản lý Nhà nước về chất lượng công trình xây
dựng
Phải đổi mới công nghệ quản lý nhằm từ bỏ phương pháp quản lý cứng nhắc,can
thiệp trực tiếp vào quá trình thực hiện dự án mà thường không chịu trách nhiệm về
những quyết định của mình. Do thích can thiệp quá sâu vào một số dự án trong khi năng
lưc còn hạn chế dẫn đến thái độ cửa quyền của đội ngũ công chức và việc phải làm thì
đã không làm được. Tình trạng hầu hết ở các địa phương cơ quan công quyền này đã
hiểu không đúng về chức năng của mình và họ không hiểu những nhiệm vụ cụ thể của
công tác quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng.


Công nghệ Quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng sẽ coi việc ứng dụng
thành tựu của khoa học và công nghệ, hiện đại hoá nền hành chính, hiện đại hoá công
sở các cơ quan công quyền là một phương cách bắt buộc. Chỉ có như vậy chúng ta mới
thực hiện được chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý kinh tế, xã hội để phát
triển đất nước với nhiệm vụ trọng tâm là CNH, HĐH phấn đấu đến năm 2020 đưa nước
ta lên trình độ một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá .
Như vậy, nội dung đổi mới công nghệ quản lý là hướng tới sự phân công công việc tinh
vi hơn trên cơ sở chuyển từ phương thức quản lý theo hàng dọc (dày đặc, nhiều tầng nấc
) sang hàng ngang (mỏng); từ quản lý trực tuyến sang quản lý chéo,thực hiện nguyên
tắc: “Ai thiết kế người đó chịu trách nhiệm. Ai thi công người đó chịu trách nhiệm”.
Quản lý nhà nước chỉ tập trung trọng điểm cho từng giai đoạn như cho phép khởi công,
nghiệm thu trung gian, nghiệm thu hoàn thành cho phép đưa vào sử dụng.

Nội dung Quản lý nhà nước về chất lượng công trình trong giai đoạn thực hiện dự án
sẽ được đổi mới như sau:
a. Cho phép khởi công của một dự án
Cơ quan Quản lý nhà nước về xây dựng thực hiện quyền lực quản lý của mình thông
qua việc kiểm tra hồ sơ thiết kế trong đó không được trái với qui hoạch tổng thể và văn
bản cho phép của các cơ quan chức năng khác như: PCCC, quản lý môi trường, quản lý
công trình văn hoá, quản lý giao thông, công viên, trường học . Khi dự án đã thoả mãn
các yêu cầu trên, cơ quan quản lý nhà nước cấp phép khởi công dự án. Lúc này chủ đầu
tư thực hiện các công việc chuẩn bị như giải phóng mặt bằng, làm hạ tầng...

b. Cho phép thi công
Cơ quan quản lý nhà nước cần thưc hiện quyền lực này thông qua việc việc kiểm tra 3
điều kiện sau:
- Dự án phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Bản vẽ thi công đã được đóng dấu kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền.
- Chủ đầu tư phải chọn được nhà thầu giám sát hiện trường và kỹ sư giám sát hiện trường
phải có chứng chỉ.
c. Kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng công trình trong quá trình thi
công


Việc kiểm tra hiện trường trong quá trình thi công của cơ quan Nhà nước là không cần
thiết. Cơ quan này cần yêu cầu CĐT lập báo cáo định kỳ hoặc đột xuất khi có sự cố, khi
có tranh chấp. Cơ quan quản lý nhà nước cần kiểm tra kết quả thực hiện của kỹ sư tư
vấn giám sát hiện trường.
d. Cho phép sử dụng
Cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm kiểm tra công tác quản lý chất lượng của chủ
đầu tư theo hướng dẫn của các văn bản qui phạm pháp luật. Nếu CĐT đã thực hiện đầy
đủ các qui định thì cho phép nghiệm thu chuyển giai đoạn, nghiệm thu hoàn thành. Khi
nghiệm thu hoàn thành công trình, cơ quan quản lý nhà nước phải kiểm tra các văn bản

chấp thuận của các cơ quan chức năng về sự thoả mãn các yêu cầu không chỉ của CĐT
mà còn vì lợi ích của cộng đồng. Khi đã hội đủ các điều kiện nêu trên, cơ quan quản lý
nhà nước về chất lượng công trình xây dựng ra văn bản cho phép đưa công trình vào sử
dụng.
e. Quản lý Nhà nước trong quá trình khai thác sử dụng
Chúng ta đã không coi trọng vai trò quản lý Nhà nước đối với công trình xây dựng trong
quá trình khai thác, sử dụng. Để thực sự coi trọng hiệu quả của một dự án, Nhà nước
phải có trách nhiệm quản lý về chất lượng trong quá trình khai thác sử dụng thông qua
chế độ kiểm tra định kỳ đối với từng loại hình công trình.
1.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan quản lý nhà nước về chất
lượng công trình xây dựng trong sạch có năng lực và chuyên nghiệp
Đổi mới và đưa vào nề nếp việc thực hiện qui chế tuyển chọn. Định kỳ kiểm tra đánh
giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém,
thoái hoá. Trong bộ máy hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng công
trình trong cả nước hiện nay, phần lớn cán bộ, công chức chưa được đào tạo kỹ và sâu
theo công việc thực tế đảm nhận, mà mới được học tập, bồi dưỡng về đường lối, chính
sách, kiến thức chung về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế.Nhiều công chức không chịu
học tập nên trì trệ,bảo thủ,làm việc với năng suất thấp, hiệu quả thấp và rất ít có công
chức giỏi.
Để có đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, văn kiện Đại hội IX đề ra các nhiệm vụ: “xây dựng


×